Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Lạm phát ở việt nam 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.08 KB, 24 trang )

Đề tài:
Lạm phát ở Việt Nam từ 2008 – Nay
I. Tìm hiểu về lạm phát.
1. Khái niệm lạm phát.
- Trong kinh tế học:
Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
- Trong một nền kinh tế:
Lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay làm giảm sức mua của đồng tiền.
- Khi so sánh với các nền kinh tế khác:
Lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
2. Phân loại lạm phát.
Phụ thuộc vào mức độ lạm phát được chia thành 4 loại:
 Thiểu phát: trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn
trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu
phát với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở
xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm
phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên,
ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa
lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được
cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát.
Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm,
nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
 Lạm phát thấp: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ dưới 10 phần trăm một năm
 Lạm phát cao ( lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá
trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm. Việt Nam và hầu hết các nước
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải
đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung thì lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra
những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
 Siêu lạm phát: là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh


chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát
được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh
tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên
(nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến
nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận
chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã
1
tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa
đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm
1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc
siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó
thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức
quốc xã và Thế chiến thứ hai.
3. Hiệu ứng của lạm phát đối với nền kinh tế:
 Hiệu ứng tích cực: Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản
xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản
xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ
giảm.
 Hiệu ứng tiêu cực:
+Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham
gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra
những tổn thất cho xã hội:
• Chi phí mòn giày : lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và
lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát
làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường
xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí
mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu
tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
• Chi phí thực đơn : lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp

sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
• Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn
của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.
Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu
nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả
phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
• Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo
trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
+Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải
giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường
được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay
được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến
2
người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự
kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
II. Lạm phát ở Việt Nam từ 2008 - nay
1. Năm 2008:
-Chỉ số giá khởi đầu năm 2008 với mức tăng “ ấn tượng” – 2,38%, đã báo hiệu
một năm đầy sóng gió.
-Nỗi lo lạm phát thực sự đã xuất hiện vào ngày 21/2.
Giá của loại lương thực tăng liên tục trên thị trường thế giới. Chỉ trong thời
gian ngắn, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mạnh mẽ, gây hiện tượng
tư thương tranh mua và đẩy giá lên cao.
-Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống trong hai tháng đã tăng 3,2%, riêng
lương thực tăng tới 3,7%.
CPI đã kéo dài ảnh hưởng lên hai tháng 3 và 4 sau đó, dù có thể hiện sự giảm
tốc. Với CPI tháng Ba 2,99%, tháng Tư với 2,2%.
- Ở mức tăng cao nhất, tháng Năm đạt đỉnh tăng 2008 với 3,91%.

- Bình quân mức tăng CPI thời kì này đạt 2,48%/tháng,dù đã được điều
chỉnh bởi các nhóm giải pháp của Chính phủ.
- Ở 4 tháng cuối năm, đường biểu diễn CPI trượt xuống mạnh mẽ, vượt qua
mức âm cho đến tháng cuối cùng.
- Trái với giai đoạn 8 tháng đầu năm khi gánh nặng giá cả đè lên đại đa số
người dân, thì ở 4 tháng còn lại của năm doanh nghiệp lại chịu tình trạng giảm
phát.
Nhìn trên các chỉ số cụ thể từng tháng, CPI năm 2008 có 3 điểm đáng lưu ý.
Thứ nhất, đây là năm có mức độ tăng giá trong một tháng rất cao, và có tới
hai lần đạt kỷ lục tăng trong một tháng, tại tháng hai tăng tới 3,56% và tháng 5
“vọt” lên mức 3,91%.
Thứ hai, ngoài mức tăng đột biến, khoảng cách giữa tháng tăng cao nhất và
tháng giảm thấp nhất cũng rất lớn, lên đến gần 5% (so sánh mức tăng 3,91% với
mức giảm - 0,76%).
Thứ ba, diễn biến chỉ số giá năm 2008 phá vỡ tính chu kỳ của các năm trước
đó. Trong khi những năm trước, biểu đồ chỉ số giá diễn biến theo hình parabol
ngược, tức là tăng cao ở những tháng đầu năm và cuối năm dương lịch, tăng
thấp hoặc giảm vào những tháng đầu quý 2 và khá ổn định những tháng giữa
năm, thì năm 2008 có sự đột biến mạnh trong hai quý đầu năm, sau đó giảm tốc
và tăng âm vào những tháng cuối năm.
3
Khái quát những tác động chính đến chỉ số giá của 2008 nay, có nguyên nhân
từ tăng tổng phương tiện thanh toán, từ cầu kéo, chi phí đẩy và diễn biến tâm lý
2. Năm 2009
- Năm 2009, suy thoái của nền kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá của
nhiều hàng hoá cũng xuống khá thấp, lạm phát trong nước được không chế.
- Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ tăng 0,46% tháng
3. Năm 2009 khép lại với mức tăng CPI trong vòng kiểm soát- 6,88%.
Đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 7%. Năm 2010:
-CPI tháng 12/2010 của cả nước tăng 1,98%. Qua đó đẩy mức lạm phát của

cả nước năm 2010 lên 11,75% so với năm 2009.
- Ở các nhóm hàng tiêu biểu:
Giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống: tăng 16,18%.
Giá nhà ở và vật liệu xây dựng: tăng 15,74%.
Giáo dục: tăng 20%.
Bưu chính viễn thông : giảm 6%
-Chỉ số giá vàng: tăng 36,72%
-Chỉ số giá USD: tăng 7,63%
4. năm 2011:
Dấu hiệu của tính quy luật chỉ còn rất mờ nhạt, diễn biến chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) trong năm 2011 nổi trội ở hai đột biến, đến từ các mức tăng
kỷ lục mới trong tháng 4 và tháng 7.
Trên nền cơ bản được tạo lập bởi 12 tháng cùng tăng, đường biểu diễn chỉ
số giá như hình cờ đuôi nheo, tiệm cận dần tới mốc 0% về cuối. Mức chênh lệch
giữa tháng tăng cao nhất với tháng tăng thấp nhất tới gần 3 điểm phần trăm.
Lạm phát cả năm chốt ở mức tăng 18,13% ghi nhận sự “đi hoang” của
dòng tiền, khi không tạo được đột phá về tăng trưởng nhưng lại thúc ép lạm phát
đạt các kỷ lục mới. Chia bình quân, CPI mỗi tháng trong năm nay tương ứng với
mức tăng khoảng 1,4%, chỉ còn thấp hơn chút ít so với 2008.
Đột biến thứ nhất: Tăng sau Tết
Liên tiếp tăng tốc và đạt đỉnh vào cuối năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng
tháng 1/2011 bất ngờ giảm tốc nhẹ xuống mức tăng 1,74% so với tháng trước.
Nhiều nhận định khi đó đã lạc quan cho rằng, xu hướng này là tích cực, có thể là
một mở đầu thuận lợi cho một năm mà Chính phủ đặt quyết tâm kiềm chế lạm
phát ngay từ đầu, với chỉ tiêu “khắc nghiệt” chỉ có 7%.
Thị trường chứng khoán đón thông tin tích cực, VN-Index tăng điểm liên
tục và đạt đỉnh của năm vào ngày 9/2, ở mốc hơn 522 điểm vào lúc đóng cửa,
cũng là mức cao nhất kể từ tháng 5/2010.
4
Nhưng xem xét tình hình khi đó, ngày 24/1, VnEconomy lưu ý rằng, hiện

tượng này chỉ xảy ra ở các năm 1997, 2000, 2008 và 2010, là các năm có điều
chỉnh chính sách lớn hoặc tác động từ khủng hoảng kinh tế từ bên ngoài.
Diễn biến CPI trong các tháng sau đó cho thấy nhận định trên là đúng.
Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) trong một báo cáo phục vụ họp Tổ điều hành thị
trường trong nước tháng 1/2011 “thừa nhận”, việc chỉ số giá tiêu dùng tháng 1
phá vỡ xu hướng tăng tốc chỉ là điều chỉnh trong ngắn hạn.
Tăng lương tối thiểu vùng từ ngày 1/1, tiền thưởng Tết về túi người tiêu
dùng, lượng kiều hối nhiều hơn, hay tổng tiền gửi giảm trên dưới 3% trong hai
tháng trước Tết… Bộ Tài chính khi đó nhìn nhận, sức mua của các tầng lớp dân
cư trong dịp Tết Tân Mão tăng khoảng 20% - 25% so với cùng kỳ năm trước.
CPI tháng 2 ngay lập tức đảo chiều tăng 2,09% so với tháng trước đó. Căn
cứ vào mức tăng so với cuối năm trước đã ở mức gần 4%, tức là hết quá nửa
room của chỉ tiêu lạm phát cả năm, lo lắng lại thường trực. Thị trường chứng
khoán đón tin sớm từ giữa tháng 2 đã “đổ đèo” và lập đáy đầu tiên trong năm ở
mức VN-Index khoảng 452 điểm vào ngày 3/3.
Đột biến thứ hai: Điểm nút cho khởi đầu ổn định
Đầu tháng 7, giá thịt gia súc, gia cầm, thủy sản và rau xanh tại Hà Nội
tăng đột biến, có nhiều loại gấp rưỡi, gấp đôi chỉ trong ít ngày. Sau đó, CPI
tháng 7 cũng rẽ ngoặt “nấc” lên mức tăng mới 1,17%.
Tuy nhiên, cũng từ thời điểm này, chỉ số giá tiêu dùng bắt đầu đi xuống
thấy rõ. Đến cuối năm, CPI hiện thực “giấc mơ” đẩy lạm phát trở lại với mức
tăng theo tháng của các giai đoạn ổn định trước đây, với 3 tháng quý 4 tăng dưới
0,6%.
-Ở các nhóm hàng tiêu biểu:
Nhóm thực phẩm, lương thực: tăng 29,34% và 22,82%.
Nhóm giao thông: tăng 16%.
Nhóm giáo dục: tăng 23,18%.
- Giá vàng tăng 39%, tỷ giá USD tăng 8,47% so
với năm 2010.
4. Năm 2012:

Nếu tính sáu tháng đầu năm, CPI cả nước đã tăng 12,2% so cùng kỳ năm
trước.
Đây không phải là thông tin quá bất ngờ khi trước đó, các Cục Thống kê tại hai
“đầu tàu” kinh tế là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng đã lần lượt công bố
hiện tượng giảm phát với mức giảm tương ứng 0,17% chạm “đáy” 10 năm và
0,43%, thấp nhất 23 tháng.
5
Cụ thể, bình quân cả nước, giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,23%
trong đó, nhóm lương thực giảm mạnh xuống 0,78%, thực phẩm giảm 0,31%.
Ăn uống ngoài gia đình tăng nhẹ 0,6%.
Tháng này, với các động thái điều hành giảm giá xăng dầu từ liên Bộ Công
thương – Tài chính đã góp phần giúp chi phí ở nhóm giao thông giảm ấn tượng
tới 1,64%.
Các nhóm hàng nằm trong diện giảm giá còn lại, chiếm 5 trên tổng số 11
nhóm hàng trong rổ tính giá, có nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng – bao gồm tiền
thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (giảm 1,21%), bưu chính
viễn thông (giảm 0,02%), văn hóa giải trí và du lịch (0,27%).
Ở chiều ngược lại, nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,33%; may mặc, mũ
nón, giầy dép tăng 0,62%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,46%, thuốc và
dịch vụ y tế tăng 0,46%, giáo dục tăng 0,1% và nhóm hàng hóa và dịch khác
tăng 0,35%.
Không nằm trong rổ tính giá, trong khi chỉ số giá vàng tụt giảm mạnh
2,03% thì chỉ số giá USD tăng 0,2%.
Tình trạng giảm phát đặt trong bối cảnh có tới 70% doanh nghiệp thua lỗ
trong quý I và tới gần 22.000 doanh nghiệp đã phải giải thể, phá sản tính từ đầu
năm, tăng trưởng GDP quý II ước 4,5%, thì đây là một dấu hiệu đáng lo ngại của
nền kinh tế.
Chính phủ sẽ cần nhiều hơn những biện pháp hỗ trợ đầu ra cho cộng đồng
doanh nghiệp, kích thích cầu thị trường để giải quyết tình trạng ùn tắc hàng hóa
và khơi thông dòng vốn.

Tuy nhiên, sau 2 tháng liên tiếp CPI mang dấu âm, tháng 8 tăng nhẹ
0,63% và đến tháng 9 chỉ số giá đã tăng mạnh. Theo Tổng cục Thống kê, CPI
tháng 9/2012 tăng 2,2% so với tháng 8, tăng 6,48% so với tháng 9/2011. Điều
này khiến nhiều người lo ngại về nguy cơ lạm phát sẽ tăng cao vào cuối năm.

III. Nguyên nhân.
1.Về mặt lý thuyết lạm phát có thể do các nhóm nguyên nhân:
Lạm phát do chính sách: thường xảy ra do những biện pháp tiền tệ mở
rộng, phản ánh thâm hụt thu chi ngân sách lớn và việc tài trợ thâm hụt bằng tiền
tệ, thường là cội rễ của lạm phát cao. Một ví dụ kinh điển đó là những trận siêu
lạm phát ở áo và Đức những năm 20 do mở rộng tiền tệ thái quá.
Lạm phát do chi phí đẩy: xảy ra do tăng chi phí và có thể phát triển ngay
cả khi thất nghiệp và việc sử dụng nguồn lực còn thấp. Vì tiền lương ( tiền
công ) thường là chi phí sản xuất quan trọng nhất, sự gia tăng tiền lương không
phù hợp với tăng trưởng năng suất có thể khơi mào cho quá trình lạm phát.
Nhưng lạm phát do chi phí đẩy có thể không dai dẳng nếu chính sách tiền tệ tác
6
động vào, trong trường hợp đó, tiền lương tăng dẫn tới thất nghiệp cao hơn thay
vì lạm phát cao hơn.
Lạm phát do cầu kéo: xảy ra do tổng cầu vượt trội đẩy mức giá chung lên
cao. Sự thúc đẩy của cầu có thể xuất phát từ những cú sốc bên trong hay bên
ngoài nhưng thường hình thành từ những chính sách thu chi ngân sách hay tiền
tệ mở rộng.
Lạm phát trơ ì (lạm phát quán tính): có xu hướng dai dẳng ở cùng tỷ lệ cho
đến khi những sự kiện kinh tế gây ra nó thay đổi. Nếu lạm phát cứ đều đặn, tỷ lệ
lạm phát thịnh hành có thể được dự đoán và do đó được đưa vào các hợp đồng
tiền lương và tài chính, điều này lại tiếp tục duy trì nó.
2. Trên thực lạm phát do các nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, Trình độ sản xuất nước ta còn lạc hậu. Trình độ quản lý còn
yếu kém.

-Khi cầu về hàng hoá tăng lên, đòi hỏi lượng cung phù hợp với nó. Tuy nhiên do
trình độ sản xuất nước ta còn lạc hậu, trình độ quản lý còn yếu kém nên tốc độ
tăng cung không đuổi kịp được so với tăng cầu. Dẫn đến dư cầu hàng hoá, đẩy
giá tăng lên.
-Có đến 76% máy móc, thiết bị và dây truyền sản xuất của các doanh nghiệp
trong nước thuộc về thế hệ những năm 50-60 của thế kỉ trước. 75% thiết bị đã
hết khấu hao và 50% là đồ tân trang. Thiết bị hiện đại chỉ chiếm 10%, trung bình
38% và lạc hậu là 52 %.
Thứ hai, Chính sách kinh tế vĩ mô chưa hợp lý của chính phủ.
-Việc gia tăng tín dụng quá cao, trên 20% trong suốt 10 năm vừa qua, đôi khi lên
đến 50.2% vào 2007 và 45.6% vào năm 2009. Theo Ngân Hàng Nhà Nước
(NHNN), mức tín dụng tăng 27% trong năm 2010, vượt quá mục tiêu 25%. Mức
tín dụng chỉ tiêu cho năm 2011 là 23%. Nay mới hạ xuống dưới 20%.Ngoài ra,
phần lớn những tín dụng này lại được ưu tiên dành cho những DNNN, thường
hoạt động kém hiệu quả, với những điều kiện thuận lợi.
- CSTK và CSTT chưa “bước cùng nhịp”
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia:chính sách tài khóa và tiền tệ ở nước ta
thời gian qua cũng như hiện nay vẫn còn đang yếu, thậm chí cơ sở để phối hợp
cũng chưa thực sự đủ mạnh. Ngân hàng Nhà nước vẫn còn phải gồng mình đáp
ứng những yêu cầu cấp bách ngắn hạn, trong khi lẽ ra mục tiêu cần phải tập
trung cho trung và dài hạn. Còn chính sách tài khóa những năm gần đây không
thể tận dụng ưu thế tác động trực tiếp, có trọng tâm của mình, mà phân bổ dàn
trải. Điều này quay lại tạo gánh nặng lên chính sách tiền tệ. Chính việc định hình
không rõ ràng chức năng và thiếu chuẩn hóa hệ mục tiêu của cả Bộ Tài chính lẫn
Ngân hàng Nhà nước là nguyên nhân của độ vênh trong thi hành.
7
Ông Hà Huy Tuấn, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia nêu ví
dụ, có những thời điểm, để có nguồn vốn cho chi tiêu và đầu tư công, Chính phủ
buộc phải nâng cao lãi suất huy động vốn cho những dự án đầu tư không ngừng
mở rộng. Tuy nhiên, do thiếu sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và tài khóa

trong việc tổ chức đấu thầu trái phiếu Chính phủ (chênh lệch lớn giữa thị trường
mở OMO thấp và lãi suất trái phiếu Chính phủ cao) đã tạo nên hiện tượng “vị
thế tiền rẻ”. Hoạt động này đã gây ra sự rối loạn trên thị trường liên ngân hàng
và vô hình trung ngân sách trở thành nguồn cung ứng lợi nhuận cho các ngân
hàng thương mại. Bên cạnh đó, lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng mạnh kéo theo
lãi suất huy động tăng nhanh, đẩy lãi suất tín dụng lên rất cao. Hậu quả là đại bộ
phận doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn với chi phí có thể chấp
nhận được để duy trì hay mở rộng sản xuất, buộc phải cắt giảm sản lượng. Mặt
khác, lãi suất tín dụng cao khiến chi phí đầu vào sản xuất trở nên đắt đỏ đã làm
tăng giá thành và giá bán sản phẩm, tác động không nhỏ đến lạm phát.
Cùng với nguyên nhân trực tiếp từ chính sách tiền tệ chưa hợp lý, chính sách
tài khóa là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến lạm phát của năm 2011 tăng cao khó
kiểm soát. Chẳng hạn, trong khi lãi suất giảm để hỗ trợ doanh nghiệp thì cùng
lúc giá xăng, điện lại tăng; hay khi tín dụng được nới rộng thì những chính sách
tài khóa lại chưa theo kịp để phát triển đầu tư;…
Thứ ba, Do tâm lý người dân.
-Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá
tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì giá
cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên
cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên => gây
ra lạm phát
Thứ tư, Thâm hụt cán cân thương mại .
-Năm 2009, Việt Nam xuất cảng 56,6 tỷ USD, 12% thấp hơn năm 2008. Việt
Nam chủ yếu xuất cảng quần áo (9 tỉ USD), dầu thô (6,2 tỉ USD), giầy dép (4,2
tỉ USD), sản phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản.
-Nhập cảng vào Việt Nam trong năm 2009 tổng cộng là 68,8 tỷ USD, 18% thấp
hơn năm 2008. Nguyên nhân chính cho sự sụt giảm làm do nhà máy lọc dầu
Dung Quắt đầu tiên tại Việt Nam bắt đầu hoạt động nên Việt Nam chỉ nhập 6,2
tỷ USD xăng dầu thay vì 10,8 tỷ USD vào năm 2008. Những mặt hàng nhập vào
Việt Nam nhiều nhất là máy móc và đồ phụ tùng chiếm 12,4 tỉ USD, sắt và thép

5,3 tỉ, tơ sợi 4,2 tỉ, hàng điện tử và computer 3,9 tỉ, Ô-tô 2,9 tỉ.
-Nhập cảng nhảy vọt đưa đến người giàu có lợi dụng cơ hội Việt Nam vào WTO
đặt mua hàng hóa xa sỉ như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v…, thêm vào đó sự yêu
chuộng hàng hoá nước ngoài của dân chúng xuất phát từ ý thức vọng ngoại,
8
không tin tưởng vào hàng hoá nội địa. Sau 24 năm “đổi mới“ Việt Nam vẫn
không thoát ra khỏi nền kinh tế gia công và nông nghiệp. Việt Nam vẫn lệ thuộc
vào xuất khẩu và phải nhập khẩu hàng hoá, máy móc để cho dân chúng tiêu
dùng.
- Với sự lệ thuộc rất lớn vào nhập khẩu các yếu tố đầu vào( sắt, thép, vải, linh
kiện điện tử, hoá chất ) thì sự biến động giá hàng hoá thế giới tác động sâu sắc
tới giá cả các sản phẩm trong nước
Thứ năm, Thâm hụt ngân sách quốc gia.
-Các khoản thu chính của nhà nước Việt Nam là từ thuế và lệ phí, bán dầu thô,
viện trợ và vay nước ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm nhà nước giảm các
khoản thu từ thuế và bán dầu thô, đồng thời nhà nước phải chi phí để kích cầu
nên thâm hụt ngân sách quốc gia tăng trưởng từ 1,7% vào năm 2007 lên 4,9%
trong năm 2008. Theo ngân hàng phát triển Á Châu, trong năm 2009 Việt Nam
thâm hụt ngân sách 10,3%. Quỹ tiền tệ thế giới IMF đề nghị Việt Nam có phải
phương án tiết kiệm để hạn chế chỉ còn 6% trong năm 2010.
-Để chi phí cho thâm hụt ngân sách quốc gia, nhà nước buộc phải mượn thêm
nợ. Nếu nhà nước mượn được nợ của người dân trong nước thì vấn đề tương đối
không nghiêm trọng, vì tiền lưu truyền trong nội địa của một nền kinh tế.
Trường hợp Việt Nam, nhu cầu vốn cao hơn tổng số tiền tiết kiệm của người dân
trong nước nên thâm hụt ngân sách làm nhu cầu vốn càng cao hơn và qua đó
nhu cầu muợn vốn từ nước ngoài cũng tăng lên.
-Tiền lãi và tiền mượn nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước.
Do số tiền thu thuế có giới hạn, nếu không tăng thuế thì những hoạt động của
nhà nước buộc phải thu hẹp (không gian chi tiêu). Nếu tiền lãi không được trả
cho chủ nợ hàng năm thì tiền nợ mỗi ngày mỗi cao hơn. Thêm vào đó, tiền nợ

trong quá khứ và tiền nợ trong tương lai chồng chất mỗi ngày mỗi cao đã đẩy
quốc gia rơi vào vòng luẩn quẩn khó thoát khỏi cơn nợ như hiện nay.
-2008 là năm nguồn tiền của nước ta bị lãng phí do việc đầu tư kém hiệu quả của
các doanh nghiệp nhà nước, mặc khác họ lại đầu tư tràn lan vào BĐS và chứng
khoán, nên việc thị trường BĐS và CK "xuống" đã làm thất thoát rất nhiều tiền.
-Bên cạnh đó, giá 1 số các nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào cũng trở nên đắt đỏ
như xăng, dầu (1 phần do KT Mỹ và các nước châu âu đang rơi vào khủng
hoảng)
 NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá mức
có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc
phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát.
 Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích
đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên,
nếu tăng chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt
9
NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến
gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở
chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm.
Thứ sáu, Tác động của kinh tế thế giới.
-Đối với Việt Nam, ảnh hưởng xấu từ sự suy yếu của kinh tế Mỹ là có thể nhìn
rõ nhất vì quốc gia này là đối tác thương mại hàng đầu của nước ta, chiếm
khoảng 20% tổng giá trị xuất khẩu, đặc biệt là hàng dệt may.
Thứ bảy, do thiên tai, hạn hán.
-Thiên tai, hạn hán làm giảm đáng kể sản lượng của nền kinh tế, khi đó cung lớn
hơn cầu. Do đó đẩy giá hàng hoá tăng lên.
- Từ đêm ngày 30 tháng 10 năm 2008, tại miền Bắc và các tỉnh phía Bắc miền
Trung Việt Nam một trận mưa lớn kỷ lục trong hơn 100 năm gần đây (thời điểm
năm 2008

đã diễn ra và kéo dài trong nhiều ngày. Đợt mưa lớn vượt quá mọi dự

báo và trái mùa này đã gây ra một trận lụt lịch sử ở Hà Nội…
IV. Giải pháp
Thứ nhất, Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
 Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương:
- Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa
giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát theo mục
tiêu đề ra. Điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nhất
là chính sách lãi suất, cho vay tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát
mức tăng trưởng tín dụng cả năm 2012 khoảng 15% - 17%, tổng phương tiện
thanh toán tăng khoảng 14% - 16%, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín
dụng, giảm mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện các giải pháp khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức tín dụng ưu tiên
vốn tín dụng phục vụ các lĩnh vực: nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động, các
dự án hiệu quả; kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến
khích ở mức hợp lý; tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ cho vay
bằng ngoại tệ để đảm bảo tăng trưởng tín dụng ngoại tệ phù hợp khả năng huy
động và chủ trương hạn chế tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế.
- Điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị
trường và tình hình cung - cầu ngoại tệ, góp phần khuyến khích xuất khẩu, giảm
nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối nhà
nước.
10
-Thực hiện các biện pháp đồng bộ, hiệu quả để kiểm soát thị trường ngoại tệ và
thị trường vàng; phối hợp với Bộ Công an, các cơ quan chức năng, địa phương
tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hoạt động
kinh doanh vàng, thu đổi ngoại tệ trái pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý, tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín

dụng; thực hiện tốt công tác dự báo và công khai, minh bạch thông tin thị trường
tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ, vàng; có giải pháp phù hợp để quản lý, kiểm soát
được luân chuyển vốn, tín dụng giữa các thị trường này.
 Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Thực hiện các biện pháp thích hợp để tiết kiệm chi, tăng thu ngân sách nhà
nước, phấn đấu giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2012 xuống dưới 4,8%
GDP. Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ và các chính
sách khác để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội.
- Tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước, chống thất thu, thu hồi số tiền nợ
đọng thuế, nhất là các khoản thu liên quan đến đất đai, tài nguyên, hàng hóa
nhập khẩu, chuyển giá. Đẩy mạnh và đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, hỗ
trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho cộng đồng xã hội. Tăng cường kiểm tra, kiểm
soát chặt chẽ việc kê khai nộp thuế. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế,
chống chuyển giá. Rà soát hoàn thiện cơ chế và cơ sở pháp lý để bảo đảm kiểm
soát của Nhà nước đối với các hoạt động đặt cược, trò chơi có thưởng. Phấn đấu
tăng thu ngân sách nhà nước để ưu tiên giảm bội chi và dành để trả nợ.
- Hướng dẫn và kiểm soát việc thực hiện tiết kiệm, tiết giảm tối đa chi phí điện,
nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu, chi phí lễ hội, khánh tiết, hội nghị,
hội thảo, đi công tác trong và ngoài nước,…
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra các khoản chi trong cân đối ngân sách
nhà nước, các khoản chi được quản lý qua ngân sách nhà nước; vay về cho vay
lại; bảo lãnh vay của Chính phủ; các khoản chi từ các quỹ tài chính Nhà nước;
các khoản vay, tạm ứng của các Bộ, địa phương. Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn
thiện các chế tài xử lý các vi phạm pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước,
bảo đảm thực thi luật pháp nghiêm minh. Thực hiện minh bạch hoá chi tiêu của
ngân sách nhà nước và đầu tư công.
- Nghiên cứu, trình Chính phủ định hướng, giải pháp cải cách tiền lương khu
vực hành chính nhà nước gắn với việc đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công. Bảo

đảm kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương, thực hiện chính sách xã hội, thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình quốc gia. Quản lý, kiểm
11
tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng kinh phí thực hiện các chương trình, dự án
cấp quốc gia, cấp địa phương; các chính sách, chương trình, dự án an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm kịp thời, đúng mục đích, đúng đối tượng và hiệu
quả.
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, thực hiện quản lý, giám sát chặt chẽ và cơ
cấu lại nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia, bảo đảm nợ trong giới hạn an toàn,
giảm thiểu nghĩa vụ nợ và hạn chế rủi ro; hạn chế nợ dự phòng, kiểm soát chặt
chẽ các khoản vay về cho vay lại và bảo lãnh của Chính phủ; tăng cường quản
lý, kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay để tạo nền tảng vững
chắc cho an toàn tài chính quốc gia. Bố trí nguồn trả nợ các khoản vay nước
ngoài đến hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ
quan, địa phương:
- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Chỉ thị số 1792/CT-TTg
ngày 15 tháng 10 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý
đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Rà soát, sắp xếp
danh mục các dự án đầu tư của Nhà nước theo mục tiêu ưu tiên đầu tư; bố trí
vốn cho các dự án đã hoàn thành và đã bàn giao, đưa vào sử dụng trước ngày 31
tháng 12 năm 2011 nhưng chưa bố trí đủ vốn, các dự án trọng điểm, cấp bách,
hiệu quả, có khả năng hoàn thành trong năm 2012. Không kéo dài thời gian thực
hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ kế hoạch
năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương các khoản này để bổ sung vốn cho
các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2012. Năm 2012 không ứng trước
vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ cho các công trình, dự án, trừ các
dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, quốc phòng, an
ninh cấp bách. Kiên quyết điều chuyển hoặc thu hồi vốn đầu tư đối với các công
trình, dự án chậm triển khai, không hiệu quả, phân bổ vốn và sử dụng không

đúng đối tượng.
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát các công trình, dự án đầu tư sử dụng
vốn ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bảo đảm tuân
thủ đúng quy định của pháp luật. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật
trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu
Chính phủ.
Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan liên
quan theo nhiệm vụ được giao tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận
số 37-TB/TW ngày 26 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế
12
hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá một số loại hình
dịch vụ sự nghiệp. Xây dựng, ban hành, thực hiện cơ chế, chính sách thích hợp
để từng bước giá dịch vụ công thực hiện theo cơ chế thị trường gắn với chính
sách hỗ trợ hợp lý đối với người nghèo, đối tượng chính sách. Đổi mới cơ chế
tài chính đối với các lĩnh vực sự nghiệp công theo hướng tăng quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị gắn với cơ chế đặt hàng và giao nhiệm
vụ cụ thể.
Các Bộ, cơ quan, địa phương quán triệt, hướng dẫn, tổ chức thực hiện
nghiêm kỷ luật tài chính, ngân sách, tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng
ngân sách nhà nước; thực hiện nghiêm chủ trương của Chính phủ về ưu tiên tập
trung vốn đầu tư cho các công trình, dự án hiệu quả, có khả năng hoàn thành
trong năm 2012; không ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành
chương trình, đề án sử dụng kinh phí, vốn ngân sách khi không cân đối được
nguồn.
 Tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả, tổ chức tốt thị trường trong
nước
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan, địa
phương:
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phân tích, dự báo, theo dõi chặt chẽ

diễn biến thị trường trong và ngoài nước, kịp thời áp dụng các biện pháp điều
tiết cung - cầu, bình ổn thị trường, nhất là những mặt hàng thuộc diện bình ổn
giá, những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu
hàng, sốt giá. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan, địa phương chỉ đạo đẩy
mạnh sản xuất, bảo đảm đủ các mặt hàng thiết yếu và các mặt hàng thuộc diện
bình ổn giá. Có biện pháp hiệu quả để bảo đảm cung ứng hàng hoá thiết yếu cho
các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nhất là những thời điểm khó khăn,
thiên tai, dịch bệnh.
- Rà soát, triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý thị trường; cùng
với Bộ Tài chính, Bộ Công an và các địa phương phối hợp chặt chẽ giữa lực
lượng quản lý thị trường, thanh tra giá trong việc kiểm tra, kiểm soát giá cả, thị
trường, ngăn chặn đầu cơ, tăng giá bất hợp lý, nhất là các thời điểm mùa vụ, các
dịp lễ, Tết, Xử phạt nghiêm minh các vi phạm pháp luật về giá cả, thị trường.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển thương mại trong nước; triển khai thực hiện đồng
bộ, hiệu quả Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại Việt Nam đến năm 2020;
chú trọng phát triển thương mại nông thôn, nhất là hệ thống các chợ, hợp tác xã
thương mại - dịch vụ, hộ kinh doanh. Nghiên cứu, xây dựng và áp dụng cơ chế
phù hợp khuyến khích phát triển thương mại điện tử. Thực hiện chính sách và áp
13
dụng các biện pháp thích hợp tạo lập mối liên kết giữa nhà sản xuất với tổ chức
phân phối và người tiêu dùng để hình thành những kênh lưu thông hàng hoá ổn
định, gắn với quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Trong quý III năm 2012 trình Thủ tướng Chính phủ Chương trình quốc gia về
chống buôn lậu, gian lận thương mại; có cơ chế phù hợp để khuyến khích sự
phối hợp tham gia của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong việc
chống buôn lậu, gian lận thương mại.
- Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách và có giải pháp thiết thực để
các Bộ, cơ quan, địa phương, doanh nghiệp xây dựng và triển khai kế hoạch đẩy
mạnh thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”,
bảo đảm gắn với thực tiễn, hoạt động thực chất, hiệu quả. Đẩy mạnh thực thi

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
b) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ, cơ quan, địa
phương hướng dẫn, tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quy định về quản lý
giá. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện quy định về quản lý
giá, thuế, phí đối với những mặt hàng thuộc danh mục nhà nước định giá, mặt
hàng thực hiện bình ổn giá, những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh, các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý giá;
ngăn chặn kịp thời, hiệu quả các hiện tượng đầu cơ nâng giá.
Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, các Bộ, cơ quan chức năng chủ
trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục áp dụng các biện pháp
kiểm soát để bảo đảm giá thuốc chữa bệnh, giá sữa ở mức hợp lý; ngăn chặn và
xử lý kịp thời hành vi tăng giá bất hợp lý, góp phần bảo đảm quyền lợi của
người tiêu dùng.
Các Bộ, cơ quan có chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về giá đối với
những mặt hàng thuộc diện Nhà nước đang quản lý và các dịch vụ giáo dục, y tế
chủ trì, phối hợp với với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động
thực hiện các biện pháp để giá những mặt hàng thuộc diện Nhà nước đang quản
lý như điện, than cho sản xuất điện, nước sạch, thực hiện lộ trình giá theo cơ
chế thị trường, bảo đảm khuyến khích được đầu tư sản xuất và sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả; đồng thời chú trọng dự báo tác động do biến động giá của các
mặt hàng này đối với chỉ số giá tiêu dùng để có giải pháp kiểm soát phù hợp.
Thực hiện cơ chế, chính sách thích hợp để giá các dịch vụ giáo dục, y tế từng
bước thực hiện theo cơ chế thị trường gắn với chính sách hỗ trợ hợp lý cho
người nghèo, đối tượng chính sách; đẩy mạnh xã hội hoá, nâng cao chất lượng,
hiệu quả các dịch vụ này.
Thứ hai, Nâng cao trình độ sản xuất. Trình độ nhân lực.
14
 Tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn
2011 - 2020
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ

Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các
Bộ, cơ quan, địa phương hoàn thành quy hoạch của Bộ, ngành, địa phương triển
khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực cả nước giai đoạn 2011 - 2020;
trong đó chú trọng việc phối hợp, liên kết trong đào tạo; từng bước nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các cấp, gắn chặt với nhu cầu của ngành,
địa phương và toàn xã hội.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là các
địa phương có các khu kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu công nghệ cao
chủ động làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, Bộ Xây dựng, các cơ sở giáo dục, đào tạo để bảo đảm đáp ứng nhu cầu
nhân lực về số lượng, chất lượng theo nhu cầu ngành nghề của doanh nghiệp
trên địa bàn; đồng thời có cơ chế, chính sách phù hợp, cải thiện điều kiện sinh
hoạt, làm việc của người lao động, nhất là về bữa ăn, chỗ ở và phương tiện đi
lại, làm việc.
 Nâng cao chất lượng nhân lực
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Trình Thủ tướng Chính phủ Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo giai đoạn
2011 - 2020 trong quý I năm 2012.
- Rà soát, điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng, đại học đến
năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2012.
- Thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, triển khai các
Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, Chương trình phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em 5 tuổi; các đề án phát triển giáo dục vùng kinh tế - xã hội
khó khăn và vùng đồng bào dân tộc; củng cố vững chắc việc phổ cập tiểu học,
trung học cơ sở, Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học, nhà công vụ cho
giáo viên; đổi mới, nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh,
sinh viên. Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2012 Đề
án phổ cập tiếng Việt cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa biết tiếng Việt.
- Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19 tháng 6
năm 2009 của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài

chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014 -
2015, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai
đoạn 2010 - 2012; điều chỉnh tăng học phí theo lộ trình, góp phần thúc đẩy tăng
cường tự chủ, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
15
- Nghiên cứu, xây dựng các giải pháp xã hội hoá giáo dục và đào tạo trong giai
đoạn mới để phục vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020,
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, trình Chính phủ trong
quý I năm 2012.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, địa phương, Ban Tuyên giáo Trung ương xây
dựng Đề án đổi mới cơ bản, toàn diện giáo dục và đạo tạo, trình Chính phủ cho
ý kiến trong quý II năm 2012 trước khi trình Ban Chấp hành Trung ương để có
Nghị quyết về nội dung này.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan, địa phương:
- Trình Thủ tướng Chính phủ Chiến lược phát triển dạy nghề 2011 - 2020 trong
quý I năm 2012.
- Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề theo nghề và
cấp trình độ đào tạo đến năm 2020 nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực kỹ
thuật chất lượng cao cho thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động.
- Rà soát, đánh giá tình hình thực hiện công tác đào tạo nghề, đề xuất giải pháp
xử lý những vấn đề mới phát sinh, báo cáo Chính phủ trong quý II năm 2012.
- Triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về đổi mới và phát
triển dạy nghề, Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn; huy động nguồn lực
đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, giáo viên dạy nghề theo từng nghề; đa dạng hóa
các hình thức, các phương pháp dạy nghề phù hợp với đối tượng học nghề và
yêu cầu sản xuất; phát triển mạnh các hình thức dạy nghề cho lao động nông
thôn, mở rộng hình thức dạy nghề theo hợp đồng đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hoá
công tác dạy nghề.
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, cơ

quan, địa phương có biện pháp đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm hoàn thành đúng tiến
độ việc xây dựng ký túc xá sinh viên theo Chương trình xây dựng ký túc xá cho
sinh viên.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Ngân hàng Chính sách xã hội bố trí đủ vốn để thực hiện chương trình
cho vay học sinh, sinh viên.
Các Bộ, cơ quan, địa phương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội và các chủ đầu tư chủ động tổ chức đào tạo
nhân lực chất lượng cao để đáp ứng kịp thời nhu cầu của doanh nghiệp, nhất là
nhu cầu nhân lực của các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, các
ngành đặc thù.
16
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cơ quan liên quan hướng
dẫn, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch phát triển nhân lực nhóm
ngành văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030; Chương trình nâng cao tầm vóc và thể lực người Việt Nam; Chương
trình phát triển gia đình Việt Nam bền vững.
 Đẩy nhanh ứng dụng khoa học và công nghệ
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương:
- Hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 2011 - 2015. Hoàn thiện
việc xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ
giai đoạn 2011 - 2020. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Khoa học và Công
nghệ trình Chính phủ, Quốc hội thông qua.
- Hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2012 Đề án tiếp tục
đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động
khoa học và công nghệ; trong đó tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà

nước về khoa học và công nghệ; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh
thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và
công nghệ công lập; đổi mới cơ bản việc xây dựng và quản lý nhà nước các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm của Nhà nước; đổi mới cơ chế tài
chính và phương thức đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ.
- Tăng cường kiểm tra, đánh giá hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học và
công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.
- Tập trung xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học
công nghệ trọng điểm cấp nhà nước trong nghiên cứu cơ bản, đặc biệt là các lĩnh
vực có nhu cầu và tiềm năng phát triển; thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ trọng điểm phục vụ quốc phòng, an ninh, ứng phó với biến đổi
khí hậu, phát triển kinh tế biển, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
- Tập trung nguồn lực để thực hiện các chương trình, đề án khoa học và công
nghệ quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hoàn thành thủ tục
pháp lý và đưa Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia đi vào hoạt động.
- Ban hành cơ chế, chính sách để khắc phục cơ bản tình trạng phân tán ngân
sách nhà nước đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy
động mọi nguồn lực xã hội cho phát triển khoa học công nghệ. Tạo điều kiện
thuận lợi cũng như có giải pháp đủ mạnh để doanh nghiệp đầu tư hình thành
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Gắn kết chặt chẽ giữa
17
đào tạo, nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh theo hướng tập trung ươm
tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hình thành doanh
nghiệp khoa học và công nghệ trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Phát
triển mạnh các hoạt động xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công nghệ, hỗ
trợ đăng ký và khai thác sáng chế trong các trường đại học, viện nghiên cứu,
doanh nghiệp.
- Tăng cường hoạt động tuyên truyền, đào tạo về sử hữu trí tuệ, hỗ trợ việc quản
lý, xác lập, khai thác, bảo vệ tài sản trí tuệ của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân.
Đẩy mạnh thực thi quyền sở hữu trí tuệ; ngăn chặn các hành vi xâm phạm, sử

dụng trái phép.
- Phát triển hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đầy đủ cho các lĩnh vực theo hướng
tăng tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, khu vực.
- Tiếp tục chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cơ sở hạ tầng, pháp lý, nhân lực, kỹ
thuật, an toàn cho phát triển điện hạt nhân. Nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ
cơ chế, chính sách đào tạo nhân lực và xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
phục vụ phát triển điện hạt nhân. Tích cực triển khai Quy hoạch tổng thể phát
triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020.
Thứ ba, Khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật Thương mại, xác định những quy
định về quản lý xuất, nhập khẩu cần sửa đổi, bổ sung nhằm tạo thuận lợi cho
xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, hàng hóa tạm nhập tái xuất; kiểm soát
để không tạm nhập tái xuất các loại phế liệu, thực phẩm chất lượng kém gây ô
nhiễm môi trường. Phấn đấu mức nhập siêu năm 2012 bằng mức thực hiện năm
2011; trong điều kiện cho phép phấn đấu giảm tỷ lệ nhập siêu xuống dưới 10%.
- Chủ động điều chỉnh bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh bổ
sung: các cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ đối với các sản phẩm, ngành hàng
xuất khẩu chủ lực, có lợi thế và khả năng cạnh tranh; quy hoạch phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng thương mại. Phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương
tăng cường kiểm định chất lượng hàng xuất khẩu. Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn
các doanh nghiệp thực hiện triệt để tiết kiệm năng lượng, vật tư, chi phí đầu vào,
ứng dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của hàng xuất
khẩu.
- Nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường, phổ biến kịp thời thông tin thị
trường thế giới, nhất là đối với các thị trường và mặt hàng xuất khẩu trọng điểm,
thay đổi chính sách, áp dụng các biện pháp bảo hộ; nghiên cứu, áp dụng các biện
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thương vụ, xúc tiến thương mại tại nước
18
ngoài; tăng cường quảng bá và bảo hộ thương hiệu xuất khẩu của Việt Nam tại

nước ngoài; cảnh báo sớm nguy cơ hàng xuất khẩu của Việt Nam bị kiện chống
phá giá, chống trợ cấp, tự vệ để chủ động đối phó, ngăn chặn. Tăng cường triển
khai thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Chương trình thương
hiệu quốc gia, bảo đảm phù hợp với thực tế, tiết kiệm, hiệu quả.
- Tiếp tục tổ chức thực hiện Kế hoạch tổng thể đàm phán hiệp định thương mại
tự do (FTA); phổ biến, hướng dẫn, có giải pháp phù hợp hỗ trợ, tạo điều kiện để
các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả tại các thị trường đã có FTA; chủ động,
tích cực trong đàm phán FTA nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Triển khai thực hiện Đề án phát triển công nghiệp hỗ trợ. Phối hợp với các Bộ,
cơ quan, địa phương nghiên cứu, ban hành hoặc đề xuất ban hành chính sách ưu
đãi, hỗ trợ về thuế, tín dụng, đất đai, đào tạo nguồn nhân lực, khoa học công
nghệ,… để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp hàng
tiêu dùng; khuyến khích liên kết các ngành sản xuất, chuẩn hóa sản phẩm.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư vào các dự án sản xuất, bảo đảm chất lượng và khả năng cạnh tranh, sản
phẩm có giá trị gia tăng cao đáp ứng nhu cầu trong nước sớm đi vào sản xuất và
đưa sản phẩm ra thị trường.
- Thực hiện các biện pháp kiểm soát nhập khẩu một cách đồng bộ và hiệu quả,
nhất là đối với nhóm các mặt hàng không thiết yếu, các mặt hàng trong nước đã
sản xuất được và bảo đảm chất lượng. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, công
bố danh mục các mặt hàng không thiết yếu, danh mục các mặt hàng trong nước
đã sản xuất được, danh mục sản phẩm hàng hoá nhập khẩu tiềm ẩn nguy cơ gây
mất an toàn cho sản xuất và đời sống.
- Thúc đẩy việc ký kết thoả thuận công nhận lẫn nhau với các thị trường xuất
khẩu lớn, tiềm năng; có giải pháp giảm thiểu, khắc phục các rào cản kỹ thuật,
giảm chi phí cho hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định của pháp
luật về phòng, chống gian lận thương mại, gian lận giá nhập khẩu và buôn lậu
qua biên giới, nhất là các mặt hàng xăng, dầu, thuốc lá, khoáng sản
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Điều hành chính sách thuế linh hoạt nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh,
xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập khẩu, giảm nhập siêu; giảm dần, hạn chế
xuất khẩu các loại khoáng sản, nông, lâm sản thô chưa qua chế biến. Tiếp tục
cải cách thủ tục thuế và thông quan, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng
hóa.
19
- Phối hợp với các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương tăng cường kiểm
tra, giám sát chặt chẽ việc nhập khẩu hàng hoá, vật tư, thiết bị của các dự án sử
dụng vốn ngân sách nhà nước, bảo đảm thực hiện đúng quy định về việc sử
dụng hàng hoá, vật tư, thiết bị trong nước đã sản xuất được, bảo đảm chất
lượng.
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương
rà soát, điều chỉnh bổ sung cơ chế, chính sách để thu hút, đẩy nhanh tiến độ giải
ngân các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI).
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các
Bộ, cơ quan liên quan tăng cường kiểm tra, giám sát các luồng vốn vào - ra, đặc
biệt là vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII); rà soát các quy định về quản lý
ngoại hối, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút kiều hối và các nguồn vốn nước
ngoài; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác phân tích, dự báo các luồng vốn
vào - ra.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các
Bộ quản lý sản xuất và quản lý ngành:
- Tiếp tục rà soát, xây dựng, ban hành các quy định về quy chuẩn và tiêu chuẩn
kỹ thuật, chất lượng hàng nhập khẩu, bảo đảm kiểm soát được chất lượng, phù
hợp với thực tế nước ta và thông lệ quốc tế, ngăn chặn được việc nhập khẩu
hàng hoá có tiêu chuẩn chất lượng lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu, hàng hoá
không khuyến khích, cần hạn chế nhập khẩu.
- Chủ trì hoặc phối hợp với Bộ Công Thương hướng dẫn các doanh nghiệp, hiệp

hội doanh nghiệp, địa phương đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho hàng
xuất khẩu; xây dựng cơ chế hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp xử lý tranh
chấp thương mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu hàng hoá Việt Nam.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan liên quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng nông sản, lâm
sản, thuỷ sản xuất khẩu; xây dựng, ban hành và thực hiện các quy chuẩn, tiêu
chuẩn cần thiết để kiểm soát, ngăn ngừa các vi phạm quy định về chất lượng
hàng xuất khẩu.
Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ
Tài nguyên và Môi trường theo chức năng, nhiệm vụ được giao chủ trì, phối hợp
với các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách kiểm
soát vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường đối với hàng hóa nhập
khẩu.
20
Bộ Giao thông vận tải rà soát, hoàn thiện quy hoạch, đầu tư phát triển hệ
thống bến bãi vận tải, giao nhận, kho tập kết hàng hóa tại các cửa khẩu đường
bộ, đường hàng không, đường biển.
Thứ tư, Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng.
 Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; trong đó tập trung cải cách chế độ công
chức - công vụ theo Luật Cán bộ, công chức đã có hiệu lực. Ban hành, triển khai
thí điểm tiến tới áp dụng Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính trong
toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước. Tiếp tục triển khai thực hiện thí điểm
chính sách phát hiện, thu hút, bố trí và đãi ngộ người tài năng trong công vụ.
- Rà soát, hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương,
bảo đảm quản lý thống nhất của Trung ương và phát huy chủ động, sáng tạo, sát
thực tế của địa phương và cơ sở, nhất là các lĩnh vực đất đai, tài nguyên, khoáng
sản, ngân sách; gắn phân cấp với tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp trên và

chịu trách nhiệm của cấp dưới, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.
- Phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, cơ quan, địa phương rà soát, nghiên cứu,
xây dựng, công bố tiêu chuẩn bắt buộc về trình độ pháp luật đối với cán bộ,
công chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.
- Xây dựng và triển khai thực hiện tốt các văn bản hướng dẫn Luật Cán bộ, công
chức và Luật Viên chức. Chủ trì triển khai và phối hợp với các bộ, ngành hoàn
thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức và tổ chức thi nâng
ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh.
- Chú trọng phát triển nhân lực ngành tổ chức nhà nước tại các bộ, ngành và địa
phương; kiện toàn tổ chức các đơn vị và đội ngũ làm công tác dự báo; chế độ
tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ công chức làm công tác dự báo.
- Xây dựng và trình Chính phủ Đề án Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công
chức. Đôn đốc và kịp thời hướng dẫn việc xây dựng cơ cấu công chức, viên
chức theo vị trí việc làm đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công
lập; tăng cường thanh tra công vụ, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật hành chính và
nâng cao đạo đức công vụ.
 Đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham
nhũng
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí.
Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương thực
hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tập trung
vào các giải pháp phòng ngừa, tăng cường tính công khai, minh bạch; phối hợp
với Bộ Công an xây dựng, trình Chính phủ ban hành quy định bảo vệ người phát
hiện, tố cáo tham nhũng.
21
Bộ Công an chỉ đạo tăng cường công tác phát hiện, điều tra và phối hợp với
các cơ quan liên quan xử lý nghiêm các vụ án tham nhũng; nghiên cứu đề xuất
các biện pháp để nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra các vụ án tham nhũng.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan rà soát
lại các quy định cụ thể trong quản lý để phòng chống nham nhũng trong hệ
thống ngân hàng.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện có
hiệu quả Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, tập
trung giải quyết hiệu quả các khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự và những
vấn đề phát sinh trong hoạt động thi hành án dân sự.
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương xây dựng chương trình tuyên truyền, vận động, tạo chuyển biến mạnh
mẽ cả trong nhận thức và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống
tham nhũng gắn với việc thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Thứ năm, Tăng cường phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
 Tăng cường phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo cho các cơ sở
nghiên cứu, dự báo về thiên tai, biến đổi khí hậu; nâng cao năng lực dự báo thời
tiết, khí tượng thủy văn phục vụ sản xuất và đời sống. Hướng dẫn, tổ chức triển
khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi
khí hậu, nhất là nước biển dâng, ưu tiên nguồn lực cho các vùng xung yếu, ven
biển. Tiếp tục nghiên cứu, khảo sát và đánh giá tác động của biến đổi khí hậu để
lồng ghép vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế -
xã hội của các ngành, vùng, địa phương và trên phạm vi cả nước.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan,
địa phương tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình nâng cấp đê biển, đê
sông, giải pháp chống ngập úng cho các thành phố lớn; chủ động chỉ đạo ứng
phó có hiệu quả với thiên tai bão lũ; đồng thời có giải pháp kịp thời, hiệu quả
chống hạn phục vụ sản xuất và đời sống; tiếp tục thực hiện tốt chương trình bố
trí dân cư, di dân ra khỏi những vùng có nguy cơ cao về thiên tai.
- Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương nghiên cứu

Đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu; nghiên cứu,
phổ biến thiết kế các mẫu nhà ở điển hình và hướng dẫn xây dựng để ứng phó
với bão lũ, thiên tai, bảo đảm phù hợp với đặc điểm và điều kiện của các tỉnh,
địa bàn, khu vực thường xảy ra bão lũ, thiên tai,…
 Tăng cường bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng
tài nguyên
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương:
22
- Tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về
khắc phục ô nhiêm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012 - 2015. Nghiên cứu,
trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về những vấn đề cấp bách trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường giai đoạn 2012 - 2020.
- Rà soát, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung hệ
thống văn bản pháp luật, trong đó chú trọng các văn bản xử phạt vi phạm hành
chính, xử lý hình sự các vi phạm về môi trường; hệ thống các tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật về bảo vệ môi trường.
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường. Tập trung giải quyết các vấn đề bảo vệ môi
trường ở các làng nghề, khu công nghiệp, khu đô thị.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn
xã hội về bảo vệ môi trường. Chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nhất là việc
quản lý, khai thác các dòng sông với các nước có liên quan.
- Rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về tài nguyên, hiệu quả khai thác, sử dụng tài nguyên,
giảm thiểu tác động đến môi trường. Rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế phân cấp
quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, chú trọng các nguồn tài nguyên khoáng
sản, đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên nước và các lĩnh vực ảnh hưởng lớn đến
môi trường.
- Kiểm soát chặt chẽ việc cấp phép và quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản;

không gia hạn, bổ sung hoặc cấp mới giấy phép khai thác tài nguyên, khoáng
sản cho các doanh nghiệp không bảo đảm đúng các yêu cầu về bảo vệ môi
trường theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp
luật về quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản.
Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình chống thất
thoát, thất thu nước sạch; Chương trình xử lý chất thải rắn; các dự án đầu tư xây
dựng hệ thống cấp thoát nước tại các đô thị; chỉ đạo các địa phương hoàn thành
việc lập quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn; đẩy nhanh tiến độ lập quy
hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh; tổ chức triển khai quy hoạch thoát nước, cấp nước, xử lý chất thải rắn 4
vùng kinh tế trọng điểm và quy hoạch hệ thống xử lý chất thải y tế sau khi Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
- Kiểm tra, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp, kịp
thời các quy định, cơ chế chính sách liên quan đến việc thăm dò, khai thác chế
biến khoáng sản để làm vật liệu xây dựng, bảo đảm mục tiêu bảo vệ môi trường,
sử dụng tiết kiệm khoáng sản, năng lượng. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương
trình vật liệu xây dựng không nung, lập quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng
không nung đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương rà
soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp, kịp thời các quy
23
định, cơ chế, chính sách, quy hoạch phát triển các loại khoáng sản thuộc phạm
vi quản lý nhà nước được giao, bảo đảm sử dụng tiết kiệm khoáng sản, năng
lượng, bảo vệ môi trường.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan, địa phương hướng dẫn, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải
pháp bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng; tăng cường bảo vệ rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ; khuyến khích phát triển nhanh rừng sản xuất. Rà soát, xây
dựng cơ chế, chính sách phù hợp để bảo đảm quyền lợi và khuyến khích nhân

dân tham gia trồng, bảo vệ và khai thác rừng một cách hợp lý, hiệu quả. Phối
hợp chỉ đạo, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý và bảo
vệ rừng.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ,
cơ quan, địa phương nghiên cứu, rà soát, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban
hành các quy định mới hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về các
chính sách thuế, phí, lệ phí liên quan đến bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng
tài nguyên khoáng sản.
24

×