Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Một số Linux “distro” phổ biến pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.13 KB, 19 trang )

Một số Linux “distro” phổ biến


Phần mềm tự do nguồn mở cho phép người sử dụng có thể
sao chép, sửa đổi, phân phối một cách tự do và không phụ
thuộc vào bất kỳ nhà cung cấp công nghệ nào.
Phần mềm tự do nguồn mở (PMTDNM) được phát triển từ lâu
và đến nay đã xuất hiện khá phổ biến trong các tổ chức chính
phủ, doanh nghiệp. PMTDNM thu hút sự chú ý của cộng đồng
do sự tự nguyện của những người đóng góp cho cộng đồng
giúp phát hiện và thông báo các lỗi mà họ gặp phải khi trải
nghiệm.
Điểm sáng của PMTDNM chính là khái niệm distro, có thể
tạm dịch là bản phân phối phần mềm mã nguồn mở. Kể từ lúc
Linux ra đời, cho đến nay đã có r
ất nhiều distro khác nhau, một
phần là do tính "mở" của nó. Một số distro có thể kể đến như:
Ubuntu, Fedora, LinuxMint, openSUSE, PCLinuxOS,
Debian, Mandriva…
Các nhà phát triển distro đều mong muốn đưa ra một
GNU/Linux - được đóng gói nhân Linux cùng với các thư vi
ện
và công cụ GNU – riêng của họ trong đó là tập hợp số lượng
lớn các phần mềm như máy chủ web, các ngôn ngữ lập trình,
các hệ quản trị cơ sở dữ liệu, các môi trường giao diện như
GNOME và KDE, và các ứng dụng thích hợp cho công việc
văn phòng như OpenOffice…
Bài viết này sẽ đề cập đến một số distro: Red Hat Linux và
Debian GNU/Linux vì từ 2 distro này đã tạo hứng khởi cho
các nhà phát triển xây dựng nên 2 distro hiện được xem là phổ
biến trong cộng đồng PMTDNM, đó là Fedora và Ubuntu (do


công ty Canonical phát triển) .

Giao diện của Red Hat
Red Hat Linux là một trong những distro thương mại đầu tiên
của GNU/Linux và được xem là chuẩn nhất trong số các distro
khác. Phiên bản 1.0 đầu tiên ra mắt vào năm 1995 nhưng chỉ
vài tháng sau đó, phiên bản 2.0 bổ sung công nghệ RPM
(RPM
Package Manager – Trình quản lý gói tin của Red Hat) tiếp tục
được xuất bản. Sự ra đời của RPM giúp việc cài đặt, cập nhật,
xóa, bổ sung các gói phần mềm trở nên dễ dàng hơn trước rất
nhiều.
Vào tháng 9/2003, hãng Red Hat đã quyết định tập trung vào
công việc phát triển các phiên bản distro dành cho doanh
nghiệp. Đồng thời, Red Hat cũng ủy quyền phiên bản cộng
đồng cho Fedora Core – đây là dự án nguồn mở độc lập với
Red Hat. Hiện tại, một số sản phẩm hàng đầu của Red Hat là
Fedora, Red Hat Network và một số dịch vụ cập nhật phần
mềm Internet.
Các ngôn ngữ lập trình được sử dụng trong Red Hat: C chiếm
vị trí quan trọng với hơn 60% số lượng các dòng mã lệnh (hơn
30 triệu dòng mã lệnh), kế tiếp là C++ với khoảng 10 triệu
dòng mã lệnh và theo sau là Shell (khoảng 3 triệu dòng mã
lệnh).
Bên cạnh đó, Red Hat cũng có distro hướng doanh nghiệp là
bản Red Hat Enterprise Linux (RHEL). Một điểm lưu ý,
Red
Hat cũng đưa ra các dịch vụ tư vấn công nghệ thông tin và
chương trình cấp chứng chỉ tương tự như Microsoft.


Giao diện của Fedora
Fedora là phiên bản miễn phí cho người dùng, đồng thời cũng
là phiên bản thử nghiệm đưa ra cộng đồng sử dụng và phản
hồi, từ đó những đặc tính nổi bật của Fedora sẽ đúc kết vào
phiên bản RHEL. Thông thường, cứ 6 tháng Fedora sẽ đưa ra
phiên bản mới với các tính năng bảo mật mà các chuyên gia
đánh giá khá tốt.
Fedora là distro dựa trên RPM. Fedora có thể dùng cho máy
tính để bàn và máy trạm, thậm chí máy chủ; dành cho những
người mới tiếp cận PMTDNM hay những người đã có nhiều
kinh nghiệm. Từ đĩa CD/DVD, người dùng có thể cài đặt tất cả
các ứng dụng, dịch vụ, thư viện cần thiết của Fedora và sau đó
chỉ việc sử dụng chúng. Tuy nhiên, cách quản lý gói tin của
Fedora gây không ít khó khăn cho người dùng.
Debian GNU/Linux là hệ điều hành (HĐH) PMTD mà sử
dụng nhân Linux để phát triển distro riêng của nó. Vào năm
2007, Debian hỗ trợ cho nhiều kiến trúc khác nhau như Intel
x86, ARM, Motorola, PowerPC, Alpha, SPARC.

Giao diện của Debian GNU/Linux
Các distro Debian GNU/Linux ra đời là do các tình nguyện
viên, thường là những chuyên gia về công nghệ thông tin đóng
góp. Công việc của họ là thiết lập cấu hình, biên dịch, tích hợp
các phần mềm sao cho tất cả có thể tương thích với nhau.
Ngoài ra, các lập trình viên còn phải có trách nhiệm duy trì hạ
tầng các dịch vụ dựa trên Internet như tập tin lưu tr
ực tuyến, hệ
thống quản lý lỗi… kèm theo là các dự án về dịch thuật, quốc
tế hóa một loạt công cụ đặc biệt cho Debian GNU/Linux.
Ngoài ra, Debian GNU/Linux còn có một “hợp đồng xã hội”

(www.debian.org/social_contract.html), ở tài liệu này sẽ đ
ề cập
đến mục tiêu chính của dự án Debian GNU/Linux với chính
sách gói tin và phiên bản chặt chẽ. Debian GNU/Linux có 3
dạng khác nhau: phiên bản ổn định mà người dùng được
khuyến khích sử dụng, phiên bản không ổn định và phiên bản
thử nghiệm dành cho những ai mong muốn có được phần mềm
mới nhất.
Quay lại những năm đầu, Debian GNU/Linux 3.0 (gọi là
Woody) có phiên bản không ổn định là Sid, phiên bản thử
nghiệm là Sarge. Phiên bản Debian GNU/Linux 4.0 được tung
ra vào tháng 4/ 2007 (tên gọi là Etch) cấu tạo từ h
ơn 10.000 gói
nguồn với hơn 288 triệu dòng mã lệnh. Ngôn ngữ sử dụng phổ
biến nhất trong Debian GNU/Linux 4.0 là C với hơn 155 triệu
dòng mã lệnh, nhưng thực tế C không còn chiếm ưu thế (trước
đây C chiếm đến 80%). Ngôn ngữ lập trình phổ biến thứ 2 là
C++, song song đó là sự gia tăng của các ngôn ngữ kịch bản
như Perl, Python, PHP. Hiện tại đang có Debian GNU/Linux
phiên bản 5.0 (tên mã Lenny) sau 22 tháng phát triển liên tục
và quá trình nâng cấp lên Debian GNU/Linux 5.0 xuất phát từ
bản phát hành trước.
Debian GNU/Linux cũng nổi tiếng với hệ thống quản lí gói,
cụ thể APT (Advanced Packaging Tool - công cụ quản lí gói
cao cấp). Debian có chính sách nghiêm ngặt đối với chất lượng
các gói và bản phát hành cũng như tiến trình phát triển và ki
ểm
tra mở. Cách này giúp cho việc nâng cấp các bản phát hành
cũng như việc đặt hay gỡ bỏ dễ dàng hơn.
Lịch sử HĐH Linux và Phần mềm tự do

nguồn mở
- 1983: Richard Stallman, giáo sư của MIT thành
lập dự án GNU phát triển PMTD (Free
Software).
- 1985: Richard Stallman thành lập Tổ chức
PMTD (Free Software Foundation) bảo trợ cho
dự án GNU.
- 1991: Linus Torvalds viết phiên bản đầu tiên
của nhân HĐH Linux và xuất bản theo giấy phép
PMTD của Stallman là GPL (General Public
License). Do đó, Linux trở thành một HĐH tự do.
Nhờ những đặc tính của một PMTD, Linux
nhanh chóng được hàng ngàn lập trình viên trên
toàn thế giới tham gia phát triển. Và từ đó, Linux
xuất hiện nhiều distro khác nhau.
- 1998: Tổ chức "Sáng kiến nguồn mở" (Open
Source Initiative) được thành lập bởi Eric
Raymond, một hacker kỳ cựu với mục đích
quảng bá cho thuật ngữ Phần mềm nguồn mở
(Open Source Software). Open Source Software
được tạo ra vì thuật ngữ Free Software trong
tiếng Anh dễ gây nhầm lẫn giữa 2 khái niệm
"Miễn phí" và "Tự do". Phần mềm miễn phí
trong tiếng Anh là Freeware khác hoàn toàn với
PMTD.
(*) Cuối cùng, cả 2 thuật ngữ Phần mềm tự do và
Phần mềm nguồn mở đều có những điểm tương
đồng rất lớn. Bên cạnh đó, cả 2 thuật ngữ đều có
những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Do vậy,
cộng đồng quyết định sử dụng chung thành một

thuật ngữ chính thức là FOSS (Free and Open
Soure Software - Phần mềm tự do nguồn mở)
như là một tên gọi thống nhất.
(*) Về tranh luận GNU/Linux hay Linux: Ban
đầu, Linux chỉ là một nhân HĐH, muốn để trở
thành một HĐH hoàn
chỉnh (theo định nghĩa trong giới lập trình viên)
thì nó cần được gộp chung với các công cụ do dự
án GNU phát triển. Vì vậy trong cộng đồng
FOSS có 2 luồng quan điểm trái chiều bao gồm:
- Vì bản thân nhân Linux một mình KHÔNG đủ
để tạo thành một HĐH nên cần sử dụng tên gọi là
GNU/Linux.
- Nhân HĐH là thành phần quan trọng nhất cấu
trúc tạo nên một HĐH. Do vậy, chỉ cần gọi tắt là
HĐH Linux là đủ.
- 2007: Tổ chức Linux Foundation được thành
lập với mục đích hỗ trợ việc phát triển nhân
Linux. Linux Foundation có nguồn tài chính hỗ
trợ khá mạnh từ các tập đoàn công nghệ thông tin
lớn trên thế giới nhằm đảm bảo những người phát
triển nhân Linux quan trọng có thể làm việc độc
lập, không bị "mua chuộc" bởi bất kì công ty nào.
Và hiện tại, cộng đồng FOSS và Linux được dẫn
dắt bởi 3 tổ chức phi lợi nhuận quốc tế là Free
Software Foundation, Open Source Initiative và
Linux Foundation.
Ubuntu do công ty Canonical phân phối chỉ mới xuất hiện vào
quý 3/2004 và không lâu sau đó HĐH này đã trở nên phổ biến,
uy tín về chất lượng và dễ dàng sử dụng. Đặc tính cơ bản của

Ubuntu là dựa trên hệ thống quản lý gói mạnh mẽ APT của
Debian, nhắm đến đối tượng người dùng đầu cuối, nhỏ gọn chỉ
với 1 đĩa cài đặt. Người dùng Ubuntu có thể cảm nhận được sự
tự do, tùy biến cao trong sử dụng, quản lý hệ thống. Trên thực
tế, Ubuntu không phải là trường hợp đầu tiên của một distro
dựa trên Debian mà còn có distro nổi tiếng khác là gnuLinEx.

Giao diện của Ubuntu
Canonical đã thuê một số lượng lớn các chuyên gia của
Debian, điều này chứng tỏ rằng ở một mức độ nào đó thì
Canonical cố gắng cải tiến những gì còn thi
ếu từ Debian để gần
gũi với người dùng hơn.
Theo thống kê của trang Distrowatch, cho đến hiện nay
Ubuntu là distro phổ biến nhất với khoảng hơn 2.000 lượt
người truy cập/ngày. Cứ 6 tháng, Ubuntu sẽ ra bản phát hành
mới, còn với các phiên bản Long Term Support (LTS) thì việc
cập nhật trình bảo mật sẽ từ 3 đến 5 năm.
Ubuntu sử dụng giao diện đồ họa thân thiện GNOME, hướng
đến sự đơn giản hóa trong quá trình sử dụng. Ngoài ra, Ubuntu
còn có bộ ứng dụng văn phòng OpenOffice, trình duyệt
Firefox, trình gửi tin nhắn tức thời Pidgin, trình biên t
ập đồ họa
GIMP… Ubuntu cũng cho phép người dùng chạy CD trực tiếp
để xem phần cứng của máy tính có tương thích với HĐH hay
không trước khi cài đặt lên đĩa cứng.
Ngoài Ubuntu, các nhà phát triển còn sản sinh ra các distro
mang hơi hướng tương tự Ubuntu như Kubuntu, Xubuntu và
Lunbuntu. Các distro này chủ yếu khác biệt với Ubuntu ở môi
trường màn hình.

Tựu chung lại, mỗi distro sẽ có những ưu và nhược điểm ri
êng.
Ngoài ra, một distro có thể mạnh ở thị trường này nhưng chưa
chắc đã chiếm ưu thế ở thị trường khác. Và một điều quan
trọng, do mỗi distro đều có triết lí phát triển chuyên sâu theo
một hướng riêng nên PMTDNM sẽ mang đến cho người sử
dụng nhiều sự lựa chọn; đây cũng là một điểm khác biệt với
phần mềm thương mại.
Do vậy, điểm tuyệt vời của PMTDNM là mang đến cho người
sử dụng quyền tự do lựa chọn distro yêu thích. Chẳng hạn, một
người chuyên trách bộ phận kĩ thuật của một công ty có thể
chọn Centos để chạy các máy chủ, chọn Ubuntu để chạy trên
máy tính của các nhân viên, chọn Debian trên máy tính c
ủa các
lập trình viên trong công ty, nhưng chính người trong bộ phận
kỹ thuật có thể dùng Arch Linux trên máy tính cá nhân của
mình. Dù có thể mỗi bộ phận trong công ty có thể dùng các
distro khác nhau, nhưng người phụ trách bộ phận vẫn có thể
quản lý tốt cả hệ thống đó một cách nhịp nhàng và hiệu quả vì
suy cho cùng tất cả đều xuất phát từ Linux và chúng đều tuân
theo những tiêu chuẩn hệ thống nhất định.
Sự khác nhau giữa các distro chủ yếu dựa vào
2 yếu tố
- Thị trường mà distro muốn nhắm đến, ví dụ
dành cho máy chủ, doanh nghiệp, siêu máy tính,
người dùng đầu cuối…
- Tùy thuộc vào triết lí phần mềm của từng distro
mà những người phát triển quyết định gắn bó lâu
dài với distro đó hay không.
Các distro phổ biến và phát triển bền vững hiện

nay có thể được chia thành 4 nhóm:
(1) Arch (archlinux.org), Gentoo (gentoo.org),
Slackware (slackware.com): Các distro nhắm vào
người dùng am hiểu về hệ thống Linux. Hầu hết
phương thức xây dựng và cấu hình hệ thống đều
phải thực hiện qua môi trường dòng lệnh.
(2) Debian (debian.org), Fedora
(fedoraproject.org): Các distro cũng nhắm vào
những người dùng am hiểu hệ thống, tuy nhiên
cung cấp nhiều công cụ hơn cho những người
chưa thật sự hiểu rõ hoàn toàn về Linux. Nhóm
này tương đối thân thiện với người dùng mới bắt
đầu hơn nhóm (1). Tuy nhiên, các distro nhóm
này lại có một quy trình phát triển và kiểm tra
chất lượng các gói phần mềm cực kì khắt khe so
với các distro còn lại. Để trở thành một lập trình
viên chính thức của Debian hay Fedora cần phải
có thời gian đóng góp khá dài, và phải được
chứng nhận bởi các lập trình viên khác. Do vậy,
môi trường để lập trình và nghiên cứu ở 2 distro
này khá tốt.
(3) Centos (centos.org), RHEL (redhat.com/rhel),
SUSE EL (novell.com/linux): Các distro này chủ
yếu nhắm vào thị trường doanh nghiệp, cơ quan,
thị trường máy chủ… Các dòng distro này có
nhiều đặc tính phù hợp cho mảng thị trường đòi
hỏi sự ổn định cao như: thời gian ra phiên bản
mới thường khá lâu (3 - 5 năm tùy distro); dịch
vụ hỗ trợ thương mại cho các công ty, tổ chức sử
dụng sản phẩm; ít sử dụng các công nghệ mới

nhất (thường kém ổn định) mà tập trung phát
triển trên các công nghệ lâu đời và đáng tin cậy
hơn.
(4) Ubuntu (ubuntu.com), Open SUSE
(opensuse.org): Nhóm các distro nhắm đến người
dùng đầu cuối và người mới bắt đầu sử dụng
Linux. Đặc tính của các distro này là thời gian
phát hành ngắn, ứng dụng liên tục các công nghệ
mới với nhiều công cụ đồ họa để cấu hình hệ
thống, thiết kế với mục đích dễ dùng, dễ làm
quen, không cần đọc tài liệu đối với người mới.
Xét về triết lí phần mềm (software philosophy),
nó chỉ đơn giản là bộ các quy tắc, định hướng,
mục tiêu mà những người phát triển một phần
mềm đặt ra hay đi theo triết lí do người khác đặt
ra để phát triển sản phẩm của mình nhưng phải
tuân thủ theo các triết lí đó. Ví dụ triết lí của
Microsoft Windows là dễ sử dụng, ít cấu hình thì
triết lí của Mac OS X lại là bóng b
ẩy, thanh lịch
Các distro Linux cũng có những triết lí riêng ví
dụ: Nhóm (1) là cấu trúc gọn nhẹ, uyển chuyển
để có thể xây dựng một hệ thống hoàn toàn tuân
theo ý của mình. Nhóm (2) lại nhắm đến việc
chuẩn hóa, chuyên môn hóa quá trình phát triển
phần mềm nhằm tạo ra một hệ thống hoạt động
nhịp nhàng, ăn khớp và hạn chế lổ hỗng bảo mật.
Nhóm (3) phát triển theo hướng bền vững,
chuyên nghiệp, cung cấp dịch vụ hỗ trợ dài hạn,
cung cấp sản phẩm có vòng đời kéo dài (lên tới 7

năm). Nhóm (4) cung cấp những công nghệ mới
nhất, những hiệu ứng đồ họa bắt mắt ngay sau
khi cài đặt, không cần phải cấu hình nhiều…



×