Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tư liệu: Những tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.84 KB, 5 trang )

Những tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sưu tầm
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hơn 30
năm hoạt động ở nước ngoài. Người qua 4 châu lục, 3 đại dương, đặt chân lên gần 30 nước,
làm hàng chục nghề khác nhau. Trong điều kiện hoạt động cách mạng bí mật, Người phải
thay đổi họ tên rất nhiều lần. Mọi khó khăn, gian khổ, nguy hiểm không làm Người chùn
bước. Bất kỳ ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Người cũng chỉ có một mục đích như chính Người
đã từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh
phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông
pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”.
Từ Nguyễn Sinh Cung, đến tên gọi Văn Ba khi xuất dương tìm đường cứu nước, rồi
trở thành Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, Người đã dùng nhiều tên gọi, bí danh, bút danh
khác nhau. Đây là một bằng chứng sinh động nhất về cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi,
phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới.
Mỗi tên gọi, mỗi bí danh Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng phần lớn đều gắn với những sự
kiện lịch sử, những bước ngoặt quan trọng trong hành trình cứu nước của Người, trong từng
chặng đường của cách mạng Việt Nam đều mang ý nghĩa nhất định. Nhiều bài báo, tác
phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sử dụng bút danh là những tác phẩm lý luận quan trọng, là
cẩm nang chỉ đường cho Đảng và nhân dân ta trong mỗi bước đường cách mạng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh – Người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam và là một nhà báo có một
khối lượng bài viết lớn: khoảng 2.000 bài.
Trên cơ sở tài liệu lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, qua một số sách báo công bố,
cho đến nay chúng ta mới tập hợp được 174 tên gọi, bí danh và bút danh Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dùng.
Trong khuôn khổ bài viết với mục đích giúp bạn đọc có tư liệu để nghiên cứu, chúng
tôi trích nêu một số tên gọi, bí danh, bút danh và thông tin cần thiết xung quanh mỗi tên gọi,
mỗi bí danh và bút danh của Người.
1. Nguyễn Sinh Cung
Nguyễn Sinh Cung là tên lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890, tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là


làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
2. Nguyễn Sinh Côn
Theo một số hồi ký của các bạn học cùng trường Quốc học Huế với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nguyễn Sinh Cung còn thường được gọi là Nguyễn Sinh Côn. Trong một bài viết của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1954, Người cũng ghi tên còn nhỏ của mình là Nguyễn Sinh
Côn.
3. Nguyễn Tất Thành
Tháng 5-1901, ông Nguyễn Sinh Sắc đậu phó bảng khoa thi Hội năm Tân Sửu.
Khoảng tháng 9-1901, ông chuyển về sống ở quê nội xã Kim Liên. Theo tục lệ, ông Nguyễn
Sinh Sắc được làng Kim Liên đón về và được làng cấp đất công, xuất quỹ làm cho một ngôi
nhà. Nhân dịp này ông Nguyễn Sinh Sắc làm “lễ vào làng” cho hai con trai với tên mới:
Ngugễn Tất Đạt (Sinh Khiêm), Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung). Thành Đạt là mong muốn
của người cha đặt hy vọng vào hai con.
4. Văn Ba
Với hoài bão, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở
tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche tréville), một tàu lớn vừa chở hàng, vừa chở
khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời càng Sài Gòn đi Mác xây (Marseill), Pháp.
Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc trên tàu.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi, bắt đầu cuộc hành trình cứu
nước. Trong sổ lương của tàu tên anh là Văn Ba.
Những người bạn cùng làm việc với Văn Ba ở tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin (Amiral
Latouche tréville), đều thân mật gọi anh là Ba, anh Ba. Anh Ba sống giản dị, gần gũi với
mọi người. Những việc làm của anh đã để lại trong họ ấn tượng, tình cảm tốt đẹp.
5. Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc – cái tên bắt đầu một chặng đường mới trong hành trình cứu nước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp và bắt đầu hoạt động chính trị
dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Song tên mới Nguyễn Ái Quốc thực sự được nhiều người biết
đến khi Người thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, ngày 18-6-1919
gửi lên Hội nghị Véc-xây bản yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam, đòi chính phủ Pháp

thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Từ đây bắt
đầu một thời kỳ hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc – linh hồn của phong trào những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp.
Những năm Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp, chính quyền thực dân coi Nguyễn
Ái Quốc là một nhân vật nguy hiểm. Chúng huy động cả lực lượng mật thám thường xuyên
theo dõi, thu thập tài liệu về Người. Đã có hàng vạn trang tài liệu liên quan đến hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc. Song không một trở lực nào có thể ngăn cản được ý chí, nghị lực,
quyết tâm cứu nước của Người.
Với bút danh Nguyễn Ái Quốc, Người viết hàng trăm bài báo phục vụ sự nghiệp
tuyên truyền cách mạng. Trong khoảng thời gian từ 1919 đến 1926 bút danh Nguyễn Ái
Quốc được sử dụng nhiều nhất. Với bút danh Nguyễn Ái Quốc, Người viết các tác phẩm
quan trọng đối với cách mạng Việt Nam: “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925): “Đường
cách mệnh” (1927). Cuốn đầu là bản cáo trạng đối với chủ nghĩa đế quốc Pháp nói riêng và
chủ nghĩa đế quốc nói chung để thức tỉnh đồng bào Việt Nam và các dân tộc bị áp bức; cuốn
sau là định hướng cho hành động cách mạng.
Sau lần bị bắt tại Hương Cảng năm 1931, mật thám Pháp tưởng Nguyễn Ái Quốc đã
bị chết trong nhà tù, vì những tin đồn do chính luật sư Lôdơbi tung ra để bảo vệ Người thêm
phần an toàn khi trốn tránh sự rình rập của kẻ thù. Năm 1933, Nguyễn Ái Quốc chắp nối
liên lạc được với các tổ chức cách mạng và Người đi Liên Xô. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục con
đường cứu nước của mình. Một thời gian dài Nguyễn Ái Quốc mất hút trong sổ điều tra của
mật thám Pháp và mật thám Đông Dương. Tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trong lời kêu
gọi: Kính cáo đồng bào, ngày 6-6-1941. Đến tận lúc này mật thám Đông Dương mới bàng
hoàng được nguồn tin cho biết Già Thu, Thu Sơn xuất hiện ở biên giới Việt – Trung chính
là Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc một cái tên để lại nhiều dấu ấn lịch sử trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong cách mạng Việt Nam. Song Người chỉ
khiêm tốn nhận mình là “Tôi vẫn là tôi ngày trước, một người yêu nước”.
6. Bác
Tên gọi “Bác”, xuất hiện từ dịp Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tháng 5 năm 1941
ở Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng. Dịp đó đại biểu về dự Hội nghị được biết có đại biểu quốc

tế là đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng có mặt. Lúc đầu, khi gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc
mọi người không biết xưng hô thế nào. Hồi ký của đồng chí Hoàng Quốc Việt kể rằng: Mới
đầu chúng tôi đều gọi Bác là đồng chí, rồi gọi là cụ, sau thấy anh Trường Chinh và anh Thụ
dùng tiếng “Bác”, anh em thấy gọi như thế hợp với lòng mình, nên từ đấy chúng tôi bắt đầu
thưa với Bác bằng cái tên thân yêu mà bây giờ tất cả chúng ta đều gọi. Tiếng “Bác” được
dùng rộng rãi hơn từ sau năm 1945.
Sau này tên gọi Bác còn được ký dưới một số thư gửi các đồng chí Trung ương và
Bộ Chính trị.
7. Hồ Chí Minh
Đầu những năm 1940, trước biến chuyển mới của tình hình cách mạng, một nhiệm
vụ bức thiết đặt ra cho cách mạng nước ta lúc này là phải thực hiện sự liên minh quốc tế,
tranh thủ sự giúp đỡ của đồng minh. Trước mắt phải phối hợp hành động giữa phong trào
Việt minh với phong trào chống Nhật của nhân dân Trung Quốc và các lực lượng đồng
minh chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Trong số những người cách mạng
Việt Nam Nguyễn Ái Quốc là người hiểu biết Trung Quốc hơn cả nên được cử đảm nhiệm
trọng trách này.
Để tránh lạc hướng bọn mật thám, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh.
Ngày 13-8-1942, Người lên đường đi Trung Quốc với tư cách là đại biểu của phong trào
Việt Minh và đại diện của Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế phản xâm lược.
Sau mười lăm ngày đêm đi bộ trên đất Quảng Tây, ngày 27-8-1942, Người đến xã
Túc Vinh thuộc huyện Đức Bảo thì bị tuần canh ở đây giữ lại. Khi kiểm tra giấy tờ, chúng
phát hiện ngoài giấy giới thiệu của Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế phản xâm
lược ra, Hồ Chí Minh còn mang theo thẻ hội viên “Hội ký giả thanh niên Trung Quốc”, các
giấy tờ của Hồ Chí Minh là phóng viên báo chí và giấy thông hành do văn phòng Bộ tư lệnh
Đệ tứ chiến khu cấp từ năm 1940 đều đã quá hạn sử dụng. Chúng nghi Người là gián điệp,
bèn bắt giữ và giải lên Tĩnh Tây rồi giải đi, giải lại trong suốt 13 huyện thị của tỉnh Quảng
Tây.
Nhờ sự vận động tích cực của Đảng ta, của bà con Việt kiều và sự can thiệp của
nhiều nhân vật trong chính giới Trung Quốc, ngày 10-9-1943 Người được trả lại tự do.
Như vậy trong sự kiện bị bắt khi lính tuần canh kiểm tra giấy tờ ở phố Túc Vinh đã

hé mở một chi tiết: Phải chăng trong số những giấy tờ bị quá hạn từ cuối năm 1940, chặng
đường Nguyễn Ái Quốc đi từ Côn Minh – Quế Lâm – Tĩnh Tây để tìm đường về nước,
Người đã lấy tên là Hồ Chí Minh? Và tới năm 1942, từ sự kiện “Túc Vinh”, tên gọi Hồ Chí
Minh đã được ra công khai.
Nhớ lại sự kiện chuẩn bị cho Bác đi Trung Quốc, hồi ký của đồng chí Vũ Anh kể lại:
“Tháng 8 năm 1942, Bác có việc phải đi ra nước ngoài. Tôi được Bác giao nhiệm vụ chuẩn
bị giúp Bác. Gọi là chuẩn bị nhưng công việc cũng chẳng có gì. Trong túi của Bác chỉ có
một bộ quần áo tây và một bộ quần áo chàm người Nùng. Tôi lấy đá mềm khắc hai con
dấu: một con dấu của Việt Nam độc lập đồng minh hội và một của Quốc tế phản xâm lược
Việt Nam phân hội. Bác tự viết hai giấy giới thiệu của hai đoàn thể trên cử cụ Hồ Chí Minh
đi gặp Chính phủ Trung Quốc. Cái tên Cụ Hồ Chí Minh ra công khai từ đó. Và cũng từ đó
tên của Người ngày càng làm rạng rỡ Đảng ta, nhân dân ta, đất nước ta. Lúc bấy giờ Bác
có một danh thiệp đề tên Hồ Chí Minh”.
Sau khi ra tù, lần đầu tiên trên báo Đồng minh, số 18, tháng 12-1943, phát hành ở
Liễu Châu, Trung Quốc người đọc thấy xuất hiện tên Hồ Chí Minh ký dưới bài viết: Li
Băng.
Tháng 10-1944, Người ký tên Hồ Chí Minh dưới bức “Thư gửi đồng bào toàn quốc”,
kêu gọi các đảng phái, các đoàn thể tích cực chuẩn bị để triệu tập và khai mạc Đại hội đại
biểu toàn quốc. Đây là lần đầu tiên tên Hồ Chí Minh lan truyền trong cả nước.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi đất nước giành được độc lập, Hồ Chí
Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam châu Á. Từ đó cho đến tận hôm nay và cho mãi tới muôn đời tên Người sẽ còn
sống mãi trong lòng dân Việt Nam và trong trái tim nhân loại.
8. Hồ Chủ Tịch
Tên gọi Hồ Chủ tịch xuất hiện từ khi chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời tháng 9 năm 1945 và được dùng cho đến những năm sau này.
9. Bác Hồ
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, hai tiếng Bác Hồ trở nên gần gũi, thiêng liêng
đối với mỗi người dân Việt Nam. Trong một số thư gửi cho các cháu thanh thiếu niên nhi
đồng, học sinh… Người thường ký hai chữ Bác Hồ. Thư đầu tiên ký tên Bác Hồ là: Thư gửi

Ban âm nhạc Vệ quốc quân 6-1-1946, Báo Cứu quốc số 136, ngày 7-1-1946.
Thư cuối cùng gửi các cháu thiếu niên ký tên Bác Hồ là Thư gửi các cháu thiếu niên hợp tác
xã măng non thôn Phú Mẫn, xã Hàm Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc, ngày 19-5-1969.
Thư cuối cùng gửi địa phương ký tên Bác Hồ là: Thư gửi Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng
Lao động Việt Nam tỉnh Nghệ An, ngày 21-7-1969.
10. Trần Thắng Lợi
Với bút danh Trần Thắng Lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Đảng ta” đăng trên
tạp chí “Sinh hoạt nội bộ” số 13, tháng 1-1949.
Bài báo điểm lại lịch sử phong trào công nhân Việt Nam từ năm 1917 đến việc đồng
chí Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920, tổ chức Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên năm 1925, thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam năm
1930, cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cao trào kháng Nhạt và vũ trang khởi nghĩa giành chính
quyền năm 1945.
Bài báo kết luận: “Sứ mệnh của Đảng ta rất to, không có vinh hạnh nào to bằng cái
vinh hạnh được làm đảng viên của Đảng Cộng sản. Vì vậy chúng ta phải kiên quyết làm cho
xứng đáng với vinh hạnh ấy”.
11. Chiến Sĩ
Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng bút danh Chiến Sĩ từ năm 1958 đến năm 1968.
Với bút danh này Người viết hơn 80 bài báo đăng trên báo Nhân dân và Quân đội nhân dân.
Bài đầu tiên Người ký bút danh Chiến Sĩ là bài: “Vũ khí hóa học: Hơi ngạt”, đăng trên báo
Quân đội nhân dân, số 473, ngày 15-8-1958.
Các bài ký bút danh Chiến Sĩ chủ yếu viết về đế quốc Mỹ và tố cáo tội ác của Mỹ.
Một số bài viết về xây dựng nếp sống mới, tiết kiệm trong việc cưới, hội họp…
Trong số các bài ký bút danh Chiến Sĩ có bài: Thanh niên anh hùng Lý Tự Trọng,
đăng báo Nhân dân, ngày 26-3-1964. Bài viết về tấm gương anh hùng Lý Tự Trọng, một
trong số những thiếu niên được Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chọn gửi đi học ở
Trung Quốc, sau được đưa về hoạt động ở Việt Nam. Đầu năm 1931, anh bị bắt ở Sài Gòn
trong khi bảo vệ cho một cán bộ cách mạng đang diễn thuyết. Bị bắt lúc tuổi đời còn rất trẻ,
17 tuổi, nhưng Lý Tự Trọng rất hiên ngang, anh dũng. Nhân ngày kỷ niệm thành lập Đoàn,
Chủ tịch Hồ Chí Minh có bài viết này để động viên thế hệ trẻ Việt Nam noi gương anh hùng

Lý Tự Trọng.

×