Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Loài bò sát Cá sấu pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.33 KB, 8 trang )

Loài bò sát
Cá sấu
Cá sấu là bất kỳ loài nào thuộc về họ Crocodylidae (đôi khi được phân
loại như là phân họ Crocodylinae). Thuật ngữ này cũng được sử dụng
một cách lỏng lẻo hơn để chỉ tất cả các thành viên của bộ Crocodilia (bộ
Cá sấu): bao gồm cá sấu đích thực (họ Crocodylidae), cá sấu mõm ngắn ¹
(chi Alligator, họ Alligatoridae) và cá sấu caiman (các chi Caiman,
Melanosuchus ², Paleosuchus ², cùng họ Alligatoridae) và cá sấu sông
Hằng (họ Gavialidae).
Tên cá Sấu là tên gọi bắt nguồn từ phiên âm tiếng Trung 兽 pinyin là
"shou" có nghĩa là thú. Nó được người Tàu xưa gọi như cá thú vì nó vừa
sống dưới nước như cá vừa có nanh vuốt giống thú. Cá sấu là các loài bò
sát lớn ưa thích môi trường nước, chúng sống trên một diện tích rộng của
khu vực nhiệt đới của châu Phi, châu Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Đại
Dương. Cá sấu có xu hướng sinh sống ở những vùng sông và hồ có nước
chảy chậm, thức ăn của chúng khá đa dạng, chủ yếu là động vật có vú
sống hay đã chết cũng như cá. Một số loài, chủ yếu là cá sấu nước lợ ở
Úc và các đảo trên Thái Bình Dương, được biết là có khả năng bơi ra xa
ngoài biển.
Những loài cá sấu lớn có thể rất nguy hiểm đối với con người. Cá sấu
nước lợ và cá sấu sông Nin là những loài nguy hiểm nhất, chúng đã giết
chết hàng trăm người mỗi năm ở các khu vực Đông Nam Á và châu Phi.
Cá sấu mõm ngắn và có thể cả cá sấu caiman đen (là loài đang nguy cấp
trong sách đỏ của IUCN) cũng là những loài gây nguy hiểm cho con
người.
Cá sấu rất nhanh nhẹn khi khoảng cách là ngắn, thậm chí là ngoài môi
trường nước. Chúng có quai hàm cực khỏe và bộ răng sắc nhọn để xé thịt,
nhưng chúng không thể há miệng nếu nó bị khép chặt, vì thế có một số
câu chuyện về việc người sống sót khỏi những con cá sấu sông Nin mõm
dài bằng cách khép chặt quai hàm của chúng. Tất cả những con cá sấu lớn
cũng có vuốt sắc và khỏe. Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu mai phục,


chúng chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó tấn
công chớp nhoáng. Sau khi dùng cú đớp trời giáng của mình, con cá sấu
kéo nạn nhận xuống con sông để nhấn chìm tới ngạt thở. Sau đó, để xé
mồi, nó ngoạm chặt miếng thịt rồi xoay người nhiều vòng để dứt thịt ra.
Thoạt nhiên, bạn có thể cho rằng điều này thật khó khăn vì không kiếm
được điểm tựa, nhưng những con cá sấu thì không phải lo điều đó: ngay
khi đánh hơi được mùi máu, năm sáu chú cá sấu cùng bơi đến tỏ ý muốn
chia sẻ bữa ăn, và thường thì con mồi bị xé ra thành hàng trăm mảnh nhỏ
bởi những bộ hàm to khỏe và cú xoay người mãnh liệt.
Là động vật ăn thịt có máu lạnh, chúng có thể sống nhiều ngày không có
thức ăn, và hiếm khi thấy chúng cần thiết tích cực đi săn mồi. Mặc dù có
vẻ ngoài chậm chạp, nhưng cá sấu là những kẻ săn mồi thượng hạng
trong môi trường của chúng, và người ta còn thấy một số loài cá sấu dám
tấn công và giết cả sư tử, động vật móng guốc lớn và thậm chí cả cá mập.
Ngoại lệ nổi tiếng là chim choi choi Ai Cập (tên khoa học: Pluvianus
aegyptius) là loài có quan hệ cộng sinh, trong đó chim choi choi có thức
ăn là các loài ký sinh trùng sinh sống trong miệng cá sấu và cá sấu để cho
chim tự do làm việc này. Áp lực của quai hàm cá sấu đạt tới 3000 pao
trên một inch vuông (3000 psi, xấp xỉ 144 kPa), so sánh với chỉ 100 psi
đối với một con chó to.
Cá sấu đực là những kẻ khá ầm ỹ. Vào mùa sinh sản, chúng phát ra những
âm thanh có thể so sánh với động cơ của những chiếc máy bay cỡ nhỏ,
âm thanh này có thể lan truyền nhiều km trong làn nước. Chúng thu hút
những con cái và tất nhiên, những con đực khác đang đố kị. Rất nhanh
chóng, hàng chục con đực khác kéo đến và thi nhau cất lên những lời ca
trầm hùng, đôi khi còn làm rung động mặt nước phía trên tấm lưng
chúng, khiến nước bắn lên cao một cách đáng kinh nhạc. Tất nhiên, chú
sấu nào khỏe hơn sẽ có tiếng ca lớn hơn. Ở môi mỗi con cá sấu đều có
một bộ phận cảm nhận những rung động của mặt nước, đối với con cái là
để tìm được người chồng ư ý, còn đối với những chàng ca sĩ khác là để

đánh giá đối thủ. Nếu cảm thấy kẻ to mồm kia mạnh hơn mình, những
con cá sấu sẽ tự rời bỏ cuộc tranh đua, còn nếu không thì trận chiến thực
sự giữa những hàm răng sắc nhọn sẽ nổ ra.
Các loài cá sấu lớn nhất, cũng là các loài lưỡng cư lớn nhất trên Trái Đất
là cá sấu nước mặn, sinh sống ở khu vực miền bắc Úc và trong suốt khu
vực Đông Nam Á. Một điều gây nhầm lẫn là ở miền bắc Úc đôi khi người
ta gọi cá sấu nước mặn là alligator (cá sấu alligator) trong khi nó không
phải là như thế và loài cá sấu nước ngọt nhỏ hơn thì gọi là crocodile (cá
sấu). Điều này có lẽ là do cá sấu nước ngọt có mõm dài nhìn rất giống cá
sấu sông Nin thu nhỏ, trong khi cá sấu nước mặn có thể rất giống với cá
sấu alligator Mỹ ít nguy hiểm hơn nhiều. Vì thế khi người Úc nói
Alligator Rivers để chỉ cá sấu ở vùng lãnh thổ phía bắc thì trên thực tế nó
là cá sấu nước mặn. Đây là giải thích cho việc những người Mỹ đôi khi
cho rằng cá sấu alligator là những động vật nguy hiểm chứ không phải cá
sấu.
Cá sấu trong thiên nhiên được bảo vệ ở một số nơi trên thế giới, nhưng
chúng cũng được chăn nuôi vì mục đích thương mại, và da của chúng
được thuộc làm da cá sấu có chất lượng cao để sản xuất túi, ủng, cặp v.v,
trong khi thịt cá sấu được coi là đặc sản đối với những người sành ăn.
Các loài có giá trị thương mại chủ yếu là cá sấu nước mặn và cá sấu sông
Nin, trong khi con lai của cá sấu nước mặn và cá sấu Xiêm cũng được
chăn nuôi trong các trang trại ở châu Á. Việc chăn nuôi đã làm tăng số
lượng cá sấu nước mặn ở Úc, do trứng thông thường được thu hoạch từ tự
nhiên, vì thế những chủ sở hữu đất đai có động cơ thúc đẩy để bảo tồn
môi trường sống của cá sấu.
Cá sấu có lẽ có quan hệ họ hàng gần với chim và khủng long hơn là với
tất cả các động vật khác đã được phân loại như là lưỡng cư (mặc dù tất cả
các động vậtlưỡng cư này được cho là có quan hệ họ hàng gần với nhau
hơn) và có các đặc điểm bất thường đối với các loài lưỡng cư, chẳng hạn
như tim có 4 ngăn.

Miêu tả
Cá sấu là động vật cao cấp nhất trong tất cả các loài lưỡng cư. Cá sấu có
tim 4 ngăn, cơ hoành và vỏ não. Đặc điểm này làm nó được đánh giá là
tiến hóa hơn những loài lưỡng cư khác. Cá sấu ăn thịt và là tay đi săn cừ
khôi. Thân thể chúng thuôn dài giúp bơi nhanh hơn. Khi bơi chúng ép sát
chân vào người để giảm sức cản của nước. Chân cá sấu có màng, không
phải dùng quạt nước mà để sử dụng cho những cử động nhanh đột ngột
hoặc lúc bắt đầu bơi. Chân có màng giúp cá sấu có lợi thế ở những chỗ
nước nông, nơi mà các con vật trên cạn thường qua lại.
Tuổi
Không có 1 phương pháp chính xác nào đo đạc được tuổi thọ của cá sấu,
mặc dù có 1 vài kỹ thuật đưa ra được những phỏng đoán khá chính xác.
Phương pháp chung là đo những vòng tuổi trong xương và răng chúng,
mỗi vòng biểu hiện cho 1 sự tăng trưởng mới thường xuất hiện mỗi năm
một lần vào mùa mưa, khí hậu ẩm. Loài [cá sấu porosus] trung bình sống
khoảng 71 năm, nhưng có những cá nhân vượt qua con số 100. Một trong
những con cá sấu sống thọ nhất được ghi lại là con cá sấu sống ở vườn
thú Nga, 115 tuổi. Tuy nhiên tài liệu ghi chép không nói rõ nó thuộc
giống cá sấu nào.
Một con cá sấu nước ngọt giống đực sống ở vườn thú Austraylia đã 130
tuổi. Nó được Bob và Steve Irwin cứu sống sau khi đã bị bắn 2 lần.
Kích thước
Kích thước của cá sấu thay đổi đáng kể, giữa loài cá sấu lùn và loài cá sấu
nước mặn khổng lồ. Một số loài cá sấu có thể dài từ 5 đến 6 mét và nặng
khoảng 1.200 kg. Tuy nhiên, lúc mới sinh ra cá sấu chỉ khoảng 20 cm.
Loài cá sấu lớn nhất là cá sấu nước mặn sống ở Bắc Úc và Đông Nam Á.
Theo một số nhà khoa học, không một con cá sấu nào có thể vượt qua
kích thước 8,64 m. Ở Việt Nam co loài cá sấu nước lợ có thể nặng tới
2800kg kơ thể chúng có thể dài tới 8 đến 12 mét
[cần dẫn nguồn]

. Hiện nay
chúng đang nằm trong sách đỏ Việt Nam và số lượng cá thể còn lại rất ít
chỉ khoảng 1 đến 3 con. Ngày 15 tháng 2 năm 2008 1 người đi lấy mật
ong tại U Minh Thượng đã bắt được 1 con và nộp cho kiểm lâm và đang
được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu và theo đánh giá sơ bộ thì
con cá sấu nay có tuổi thọ vào khoảng 189 tuổi và nó thuộc họ MU.
Khủng long
Khủng long là một siêu bộ bò sát khổng lồ, xuất hiện lần đầu tiên vào
khoảng 230 triệu năm trước, trong kỷ Tam Điệp. Chúng ta có thể thấy
xương và hóa thạch của chúng trong các viện bảo tàng. Chúng thống lĩnh
các hệ sinh thái mặt đất trong khoảng 160 triệu năm và vào cuối kỷ Phấn
trắng (khoảng 65 triệu năm trước) chúng đã hứng chịu một cuộc tuyệt
chủng lớn.
[1]

Nguồn gốc
Vào kỷ Tam Điệp
[3]
, các châu lục ngày nay đều tập hợp thành một đại lục
duy nhất (Pangea). Khí hậu lúc đó khô nóng, thích hợp cho các loài động
vật bò sát phát triển. Các loài bò sát dạng động vật có vú - tổ tiên lớp
động vật có vú - cũng xuất hiện trong thời gian này. Khoảng 240 triệu
năm trước, một chi thuộc họ Ornithosuchidae là Euparkeria - tổ tiên của
khủng long, chim, Pterosauria và Plesiosauria - đã có thể chạy trên hai chi
sau khiến nó có thể di chuyển hiệu quả. Đây là điểm tiến hóa hơn so với
các loài bò sát thời đó và được di truyền lại cho khủng long. Năm 1992, ở
Argentina phát hiện một chi thuộc phân bộ Theropoda, có niên đại 228
triệu năm trước, cuối kỷ Tam Điệp. Nó được đặt tên chi là Eoraptor (kẻ
cướp bình minh ở thung lũng Mặt Trăng). Eoraptor được thừa nhận là
khủng long cổ xưa nhất và là tổ tiên của mọi loài khủng long.

[4]

Phân loại
Khủng long là một siêu bộ với danh pháp khoa học Dinosauria, theo
quan điểm của phân loại học truyền thống thuộc lớp bò sát (Reptilia) hay
theo quan điểm của phát sinh loài là lớp Mặt thằn lằn (Sauropsida), một
lớp bao gồm cá sấu, khủng long, thằn lằn, rắn, rùa và là tổ tiên của lớp
chim. Chúng có chân nằm dưới thân, khác với các loài bò sát có chân
nằm ở hai bên thân. Nhờ vậy, thân của chúng được nâng cao khỏi mặt
đất, giúp chúng có khả năng đứng thẳng và chuyển động hiệu quả. Tất cả
khủng long đều sống trên mặt đất. Các loài bò sát bay được thuộc bộ
Pterosauria và sống dưới nước thuộc bộ Plesiosauria không phải là khủng
long. Khủng long được phân loại dựa vào kiểu hông của chúng. Đó là các
bộ khủng long hông chim (Ornithischia) và khủng long hông thằn lằn
(Saurischia).
 Khủng long hông thằn lằn gồm 2 phân bộ: khủng long chân thú
(Theropoda) và khủng long dạng chân thằn lằn
(Sauropodomorpha).
o Phân bộ khủng long chân thú bao gồm phần lớn các loài
khủng long ăn thịt. Chúng có thể có lông vũ và những loài
chân thú nhỏ còn là tổ tiên của loài chim.
o Phân bộ khủng long dạng chân thằn lằn gồm các loài ăn thực
vật phát triển mạnh ở kỷ Jura, thân hình đồ sộ và có cổ dài.
 Khủng long hông chim bao gồm phân bộ giáp long (Thyreophora)
và phân bộ khủng long sừng (Cerapoda).
o Phân bộ khủng long sừng ăn thực vật sống ở kỷ Phấn trắng,
đi bằng 4 chân, có vành xương ở cổ, có sừng. Trong phân bộ
này chứa cận bộ khủng long hông chim (Ornithopoda), bao
gồm những loài khủng long ăn thực vật sinh sống trong kỷ
Phấn trắng, đi được bằng 4 chân lẫn 2 chân sau. Một số loài

có mào, có mỏ vịt hoặc hộp sọ cứng chắc, xương xẩu.
o Phân bộ giáp long sống ở kỷ Jura, có bộ giáp nặng nề tạo bởi
các tấm xương và gai hoặc có các hai hàng xương dựng
đứng trên lưng, đuôi có chùy hoặc gai.
Nóng và lạnh
Một câu hỏi lớn được đặt ra: khủng long là loài có máu nóng hay máu
lạnh? Thông thường, loài bò sát là loài động vật biến nhiệt, tức là thân
nhiệt của chúng biến đổi theo nhiệt độ môi trường. Các loài này thường
mất nhiều thời gian để sưởi ấm hay làm nguội cơ thể. Điều đó không phù
hợp với lối sống của khủng long: những loài khủng long to lớn như
những con Sauropoda ăn chay sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày để thỏa
mãn nhu cầu ăn uống nhằm bồi đắp tấm thân khổng lồ, chúng cần duy trì
một nhiệt lượng nhất định để các enzim trong hệ tiêu hóa hoạt động liên
tục cho công việc xử lí số thức ăn thực vật trong cái dạ dày đồ sộ của
chúng - một loại thức ăn vốn là thứ khó tiêu hóa và đem lại ít dưỡng chất
hơn thức ăn từ động vật. Bởi vậy chúng phải là một loài động vật đẳng
nhiệt, và có vẻ như chính tấm thân bồ tượng vốn giữ nhiệt rất tốt của nó
cũng hưởng ứng điều đó. Trong khi đó, những con Theropoda nhỏ hơn thì
lại rất năng động và nhanh nhẹn, chúng liên tục kiếm mồi trên hai chân
sau nên cần duy trì cho các cơ bắp một sức mạnh không phải đến từ bên
ngoài. Có lẽ tất cả, hoặc phần lớn, khủng long là loài đẳng nhiệt như chim
và thú, đó là những loài động vật có thân nhiệt ổn định, không phụ thuộc
môi trường. Nhờ vậy, chúng không mất thời gian để làm thân nhiệt cân
bằng với nhiệt độ môi trường và khiến chúng trở nên ưu việt, chỉ có một
vấn đề duy nhất là chúng cần ăn liên tục để duy trì thân nhiệt.
Khả năng của khủng long
Trí tuệ
Một số loài khủng long như chi Stegosaurus hơi kém thông minh nhưng
không phải tất cả khủng long đều là lũ thú vật đần độn. Nhiều loài, ví dụ
chi Velociraptor có trí tuệ ngang với chim hiện đại và có những tư duy,

hành vi khá phức tạp. Một số loài còn biết giả chết để đánh lừa kẻ thù.
Giác quan
Khủng long sở dĩ vốn không có tai nhưng có một số khả năng đặc biệt
khác. Tuỳ loại khủng long, ví dụ: "Loài Velociraptor mongoliensis khứu
giác nhậy bén như kền kền
Sức mạnh
Tương xứng với kích cỡ của khủng long là sức mạnh của chúng. Những
loài ăn thực vật thường dùng sức mạnh đó để tự vệ. Các loài khủng long
thuộc nhóm Sauropoda như chi Diplodocus có thể tấn công kẻ thù với cái
quật đuôi có vận tốc ngang tốc độ âm thanh. Tương tự, các loài trong chi
Ankylosaurus có một chiếc đuôi chùy đầy uy lực và đánh gãy được chân
của mọi loài săn mồi. Tyrannosaurus có nhiều khả năng là một chi chứa
các loài ăn xác thối nhưng không vì thế mà bộ hàm của chúng không
đáng sợ một khi chúng bị chọc giận. Chúng có thể dùng hàm nhấc bổng
được xác của một con khủng long to lớn ngang nó như chi
Edmontosaurus hoặc dứt đứt được chân con này. Những loài Theropoda
nhỏ hơn như Deinonychus và Velociraptor thì dùng những chiếc móng
vuốt khủng khiếp ở hai chi sau để xé rách cơ con mồi.
Tốc độ
Khủng long lớn thì chậm chạp nhưng khủng long nhỏ lại khá nhanh nhẹn.
Gallimimus, một chi Theropoda giống đà điểu là vua tốc độ trong thế giới
khủng long. Nó có chân dài, chạy trên móng như chim và chiếc đuôi là
bánh lái giúp nó chuyển hướng dễ dàng. Galimimus có thể đạt tới vận tốc
50 km/h.
Chăm sóc con
Động vật bò sát như rùa, rắn thường bỏ bê con cái sau khi đẻ trứng nên
không có gì là lạ khi trước đây nhiều người vẫn cho rằng khủng long
không có khả năng chăm sóc con cái. Năm 1924, ở Mông Cổ phát hiện
được hóa thạch một con Theropoda chết bên cạnh một ổ trứng. Con vật
đó được nhận định là đại diện của một loài mới và ổ trứng được cho là

của một loài trong chi Protoceratops. Do vậy, loài khủng long mới được
đặt tên chi là Oviraptor, nghĩa là "kẻ trộm trứng". Sau đó, ổ trứng được
khẳng định là của chính con Oviraptor đó, nó đã chết khi bảo vệ cho ổ
trứng của mình. Năm 1970, một loài Ornithopoda được phát hiện cùng rất
nhiều ổ trứng. Nó được đặt tên là Maiasaura (Bà mẹ bò sát tốt). Những
phát hiện đó cho thấy khủng long là những ông bố, bà mẹ biết chăm sóc
con cái. Khủng long con mới đẻ ra rất bé và chúng cần được chăm sóc
cho tới khi trưởng thành. Có lẽ khủng long giống như cá sấu, chim và
nhiều loài thú: bố, mẹ, anh chị lớn hoặc thậm chí cả đàn cùng nhau trông
nom lũ trẻ.
Kích thước
Loài khủng long lớn nhất và nặng nhất được biết đến nay là Giraffatitan
brancai, di cốt tìm thấy ở Tazania giai đoạn 1907-12. Hóa thạch của rất
nhiều các cá thể khác nhau nhưng tương đương về kích cỡ được lắp ghép
lại thành 1 bộ xương hoàn chỉnh, nay được trưng bày ở bảo tàng Humbolt
ở Berlin. Bộ xương này cao 12m, dài 22.5 m, khi sống có thể nặng từ 30
tới 60 tấn. Bộ xương hoàn thiện dài nhất thuộc về 1 con Diplodocus 27m.
Dựa trên những phần rời rạc tìm thấy được, người ta cho rằng thậm chí có
những loài khủng long còn lớn hơn thế. Đó là Argentinosaurus, trọng
lượng phỏng đoán 80 tới 100 tấn; Seismosaurus và Supersaurus có thể
dài tới 33m; Sauroposeidon cao 18m, tương đương nhà 6 tầng. Tuy
nhiên, các loài trên có thể vẫn còn xa mới đạt tới kích thước của
Amphicoelias fragillimus. Dựa trên đốt xương sống phát hiện năm 1878,
người ta ước tính loài này có thể dài tới 58m và nặng hơn 120 tấn.
Bruhathkayosaurus nặng hơn, có khả năng tới 175-220 tấn nhưng kích
thước cũng không bằng. Khủng long săn mồi lớn nhất là Spinosaurus, dài
16-18m, nặng 8 tấn. Những loài tương đương bao gồm Giganotosaurus,
Tyrannosaurus và Cacharodontosaurus.
Sự tuyệt chủng
Sự tuyệt chủng của loài khủng long đến bây giờ vẫn còn tranh cãi. Giả

thuyết được nhiều người ủng hộ nhất hiện nay cho rằng vào 65 triệu năm
trước đây đã có thiên thạch đã rơi xuống Trái Đất vào bán Mexico phá
hủy toàn bộ sinh quyển của Trái Đất. Bụi cát tràn lan xung quanh dày đặc
Trái Đất làm che khuất Mặt Trời và một số trận mưa axit trong thời gian
dài. Điều này làm cho thảm thực vật chết hàng loạt nên khủng long ăn cỏ
chết vì thiếu thức ăn và bị nhiễm độc. Khi các loài khủng long ăn cỏ chết
rồi thì kéo theo cả các loài ăn thịt
[5]
.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×