Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Động vật săn mồi Rắn pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.63 KB, 6 trang )

Động vật săn mồi
Rắn
Rắn là động vật máu lạnh, bò sát - cùng lớp với các loài có vảy như thằn
lằn, tắc kè - nhưng không có chân
Tiến hóa
Sự phát sinh của loài rắn được biết rất ít do một thực tế là bộ xương rắn
rất nhỏ và dễ vỡ, khiến cho việc tạo thành hoá thạch khó xảy ra. Tuy
nhiên có sự thống nhất chung trên cơ sở hình thái học: Loài rắn tiến hoá
từ tổ tiên của loài thằn lằn. Nghiên cứu gần đây dựa trên công nghệ gen
và sinh hoá xác nhận điều này: rắn tạo ra loại nọc độc có chung một
nguồn gốc với một vài họ thằn lằn còn tồn tại.
Săn mồi
Tất cả các loài rắn đều ăn thịt. Chúng có thể ăn cả những con rắn khác và
những động vật có vú, động vật nhỏ như thằn lằn, chim, trứng các loài
khác hay sâu bọ. Một số loài có nọc độc để giết chết con mồi trước khi
tiêu thụ. Một số loài khác thì xiết mồi đến chết. Thậm chí có những loài
rắn nuốt sống cả con mồi. Hầu hết rắn khi bị nhốt thì rất dễ cho ăn, trừ
một số loại đặc biệt.
Xương hàm dưới của rắn rất linh hoạt, hai hàm của nó không gắn liền cố
định mà đa phần được nối thẳng vào sọ, cho phép chúng mở rộng miệng
để nuốt trọn con mồi dù cho con mồi có lớn hơn nhiều so với đường kính
thân rắn. Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng mỗi khi nuốt mồi lớn rắn phải đảo
hàm dưới của nó.
Sau khi ăn, rắn trở nên lười biếng và thụ động trong khi hệ tiêu hóa bắt
đầu làm việc. Lúc này, hệ tiêu hóa hoạt động rất mạnh, nhất là khi phải
tiêu thụ 1 con mồi lớn. Ở một số loài rắn, toàn bộ hệ thống tiêu hóa sẽ
nghỉ ngơi giữa những bữa ăn để tránh thất thoát năng lượng do rắn ăn khá
ít; trong vòng 48 giờ hệ tiêu hóa sẽ hấp thụ đầy đủ chất dinh dưỡng từ con
mồi. Ở loài rắn đuôi chuông Mêhicô, năng lượng được chuyển hóa rất
nhiều trong khi tiêu hóa, cơ thể chúng có thể tăng lên đến 14 độ C so với
môi trường xung quanh.


[2]
Vì vậy, khi đang tiêu hóa mồi mà bị tấn công
đột ngột, rắn có thể nôn con mồi ra để đối phó với sự đe dọa bất ngờ đó.
Tuy nhiên, khi không có động tĩnh, bộ tiêu hóa của rắn hoạt động rất hiệu
quả, có thể hấp thụ mọi thứ trừ lông và móng của con mồi, chúng sẽ
chuyển 2 thứ này xuống hệ bài tiết của rắn. Thỉnh thoảng khi cố nuốt một
con mồi quá lớn rắn có thể chết. Axít trong dạ dày rắn phần lớn không
chuyển hóa được các loại thực vật thành chất dinh dưỡng.
Loài rắn thường không cắn người, tuy nhiên có trường hợp những đứa trẻ
bị trăn khổng lồ tấn công trong rừng nhiệt đới. Ngay cả một số loài rắn
vốn được xem là hung dữ cũng rất ít khi nào cắn người nếu chúng không
bị giật mình hay bị khiêu khích, ngoài ra chúng thường lảng đi nơi khác.
Phần lớn rắn không độc hoặc độc của chúng cũng không gây chết người.
Thông thường, rắn ăn thịt những loài động vật gặm nhấm. Có một vài
ngoại lệ như rắn lục, chỉ ăn sâu bọ. Nói chung, rắn thường ăn một số loại
thức ăn cố định như chuột hoặc chuột hoang gerbil ( đối với rắn chúa).
Da rắn
Da rắn được phủ kín vảy. Hầu hết rắn di chuyển dựa vào lớp vảy này. Da
rắn khá nhẵn hoặc có hạt. Mi mắt rắn trong suốt và thường xuyên đóng
kín, được gọi là vảy mắt. Rắn lột da để lớn theo theo chu kỳ. Không
giống những loài bò sát khác, cách thức lột da của rắn giống như người ta
tháo bỏ một chiếc bít tất: nó cọ đầu và mũi vào những vật cứng, như đá,
cho tới khi da rách và chúng bắt đầu lột.[1]
Mục đích cơ bản của việc này là để trưởng thành; lột da cũng khiến rắn
loại bỏ ký sinh trùng. Sự tái sinh này biểu hiện cho một sự hồi phục như
trong bức tranh Rod of Asclepius. Ở các loài rắn thuộc chi Caenophidia,
số vảy bụng và hàng vảy lưng của nó tương ứng với số đốt xương sống;
nhờ vậy các nhà khoa học không cần phẫu thuật cũng có thể theo dõi
được.
Khi rắn lột da, nếu không có đủ độ ẩm thì sẽ rất nguy hiểm, lớp da khô

không thể bị lột ra. Lớp da bám lại sẽ là nơi sản sinh ra bệnh tật và vi
khuẩn. Một phần nhỏ ở cuối đuôi rắn không hề thay đổi khi rắn lớn lên có
thể thắt chặt nó; để giải quyết vấn đề, rắn tự cắt đứt đường máu đưa tới
khúc đuôi đó và từ từ nó sẽ rụng đi. Những hình ảnh còn đọng lại có thể
làm cho rắn nhìn thấy ảnh ảo .ThinhK.
Di chuyển
Toàn thân rắn được bao bọc một lớp vảy. Những chiếc vảy này vô cùng
cứng rắn, không lớn lên tương ứng theo sự trưởng thành của thân thể rắn.
Vì vậy cứ 2-3 tháng rắn phải thay da một lần. Những chiếc vảy này
không chỉ giúp rắn bảo vệ mà còn có chức năng như bàn chân để rắn
trườn bò: khi di chuyển, thân dài và nhỏ của nó uốn thành hình chữ S,
phía dưới thân thể theo sát bộ phận phía trên để bò lên cùng vị trí ấy. Khi
bò, các vảy trườn theo bộ phận lồi ra, rắn dùng đầu nhọn của các chiếc
vảy để trèo lên những đám cỏ hoặc đám đất gồ ghề.
Rắn bay
Một số loại rắn đặc biệt có khả năng lướt nhanh, hầu hết là thuộc chi
Chrysopelea. Chúng có khả năn phóng/bay rất xa, khoảng 13,7 mét trong
không khí.
Sinh sản
Rắn sinh sản bằng nhiều cách. Hầu hết rắn đều đẻ trứng, và đa số số này
cũng rời bỏ trứng của chúng sau khi đẻ; tuy nhiên, một số loài giữ trứng
trong cơ thể chúng đến khi trứng nở. Gần đây, khoa học xác định được
một số loài rắn đẻ con, giữ con của chúng trong nhau thai hoặc một thứ
tương tự túi noãn
[cần dẫn nguồn]
; đây được xem là một điều khác thường
trong giới bò sát. Việc giữ trứng trong cơ thể cho đến lúc nở thành con là
một cách giúp rắn mẹ kiểm soát nhiệt độ cho các con chúng và bảo vệ
con khỏi những khắc nghiệt của môi trường
Bị rắn cắn

Những cái chết do bị rắn cắn thường không phổ biến trên toàn thế giới.
Chỉ có khoảng 450 loài rắn có độc (250 trong số đó có nọc độc đủ giết
người), và so với con số 7.000 người Mỹ bị rắn cắn, số người chết so bị
sét đánh còn nhiều hơn 15 người. Nên tìm hiểu để biết thêm về cách chữa
trị khi bị rắn cắn.
Rắn độc
Rắn độc sử dụng nước bọt, chất độc tiết qua những chiếc nanh trong
miệng chúng để làm tê liệt hoặc giết con mồi (ngược lại, đa số loài rắn
không độc xiết con mồi đến chết). Nọc độc rắn có thể là độc tố thần kinh
hoặc độc tố máu. Độc tố thần kinh tấn công hệ thần kinh trong khi độc tố
máu tấn công hệ tuần hoàn. Rắn độc gồm một vài họ và không có sự phân
chia chính thức dùng trong trong phân loại.
Rắn độc sử dụng độc tố máu thường có nanh tiết chất độc ở trước miệng,
giúp chúng dễ dàng tiêm thẳng chất độc vào nạn nhân. Rắn sử dụng độc
tố thần kinh, như loài rắn cây đước độc tính cao, có nanh nằm ở phía sau
miệng đồng thời nanh cong về phía sau. Điều này gây khó khăn cho rắn
để sử dụng nọc cũng như cho các nhà khoa học muốn lấy chúng.
Hổ
Hổ, còn gọi là cọp, hùm, ông ba mươi (danh pháp khoa học: Panthera
tigris) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo (Felidae), một trong bốn
loại "mèo lớn" thuộc chi Panthera
[4]
. Hổ là một loại thú dữ ăn thịt sống.
Phần lớn các loài hổ sống trong rừng và đồng cỏ (là những khu vực mà
khả năng ngụy trang của chúng phù hợp nhất). Trong số các loại mèo
khổng lồ, chỉ có hổ và báo đốm Mỹ (jaguar) là bơi tốt, và thông thường
người ta hay thấy hổ tắm trong ao, hồ và sông. Hổ kém mèo về khả năng
leo trèo. Hổ đi săn đơn lẻ, thức ăn của chúng chủ yếu là các động vật ăn
cỏ cỡ trung bình như hươu, nai, lợn rừng, trâu, v.v. Tuy nhiên chúng cũng
có thể bắt các loại mồi cỡ to hay nhỏ hơn nếu hoàn cảnh cho phép. Hổ là

một trong số nhiều loài động vật ăn thịt nằm ở mắt xích cuối cùng của các
chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái tự nhiên.
Hổ thường bị săn bắt để lấy da, xương, hay các bộ phận khác. Nạn săn
bắt, buôn bán hổ khiến số lượng loài động vật quý hiếm này giảm 95% so
với đầu thế kỷ 20. Ngày nay trên thế giới chỉ còn khoảng 5.000 - 7.000 cá
thể hổ hoang dã, trong đó có khoảng 200 ở Việt Nam và 1.500 ở Ấn Độ
[5]
. Loài hổ đã được đưa vào danh sách các loài đang gặp nguy hiểm. Hổ
có tuổi thọ khoảng 20 năm.
[6]

Các đặc trưng
Các nòi khác nhau của hổ có một số đặc trưng khác nhau. Nói chung, hổ
đực có khối lượng từ 150 đến 310 kilôgam (330 lb tới 680 lb) và hổ cái từ
100 đến 160 kg (220 lb và 350 lb). Hổ đực dài từ 2,6 đến 3,3 m (8'6" tới
10'9"), còn hổ cái từ 2,3 đến 2,75 mét (7'6" đến 9'). Hổ Siberi (Panthera
tigris altaica) đực lớn có thể đạt chiều dài tổng cộng 3,5 ;m "trên các
đường cong" (3,3 m "giữa các chốt") và cân nặng 306 kg
[7]
. Trong các nòi
hổ phổ biến, hổ Sumatra là nhỏ nhất với những cá thể nhỏ nhất chỉ cân
nặng 75-140 kg
[7]
.


Hổ trắng
Màu của chúng có thể là bất kỳ màu nào trong khoảng từ vàng đến đỏ-da
cam, với những khu vực màu trắng trên ngực, cổ, cũng như phần bên
trong của chân. Một biến thể gen lặn phổ biến là Hổ trắng, có thể xuất

hiện với sự tổ hợp phù hợp của bố mẹ chúng, chúng không phải là những
con thú bạch tạng. Hổ đen hay hổ nhiễm hắc tố cũng được thông báo là
có, nhưng chưa có các mẫu sống kiểm chứng. Ngoài ra còn tồn tại nòi hổ
khoang vàng (còn gọi là "hổ vàng" hay "hổ khoang") chúng có màu vàng
nhưng nhạt hơn màu của hổ bình thường, và các vằn là màu nâu. Biến thể
về màu sắc này rất hiếm, chỉ có một nhóm nhỏ hổ khoang vàng tồn tại và
đều trong tình trạng bị giam cầm. Trong các tài liệu cổ có nhắc đến hổ
'lam', thực ra là có tông màu xám bạc, mặc dù chưa có chứng cứ tin cậy.
Các vằn của phần lớn các nòi hổ dao động trong khoảng nâu/xám tới đen
thuần, mặc dù hổ trắng có rất ít các vằn. Hình dạng và mật độ các vằn
thay đổi theo từng nòi, nhưng phần lớn các nòi đều có trên 100 vằn. Hổ
Java nay đã tuyệt chủng có thể có nhiều hơn. Các mẫu vằn là duy nhất
cho từng cá thể, và vì thế có thể sử dụng để xác định từng cá thể giống
như mẫu vân tay ở người. Tuy nhiên điều này không phải là phương pháp
được ưa thích để xác định, vì sự khó khăn trong việc ghi chép các mẫu
vằn của hổ hoang dã. Mục đích của các vằn có lẽ là để ngụy trang, giúp
chúng coi là ẩn đối với các con mồi (có rất ít các loài thú có cảm giác
màu như con người, vì thế màu sắc chưa hẳn đã là vấn đề quan trọng như
người ta vẫn nghĩ).
Nước miếng của hổ có thể khử trùng nên hổ thường liếm những chỗ bị
thương. Hổ đực và hổ cái sống với nhau có lãnh thổ có thể rông lên tới
160km. Con mồi của hồ thường là nai, trâu, lợn Một con hổ trung bình
có thể ăn tới 27kg một ngày và có thể nhịn ăn khoảng 2 hoặc 3 ngày.
Răng nanh của hổ, có thể dài tới 7,5cm, dùng để gặm xương một cách dễ
dàng. Một con hổ ba tuổi có thể giao phối và sinh sản, hổ cái mang thai
khoảng 102-106 ngày gần giống như loài người. Mỗi lứa sinh khoảng từ
2-3 con, khả năng tử vong của hổ con khi chào đời tương đối cao, khi
sinh hổ con không thể nhìn.
[8]


Phương pháp săn mồi
Hổ chế ngự con mồi của chúng từ mọi góc, thông thường từ những cuộc
tập kích và cắn cổ, thông thường là để làm gãy cột sống hay khí quản của
con mồi, hay làm tổn thương tĩnh mạch hoặc động mạch cảnh.
Là một con thú bơi lội giỏi, hổ có khả năng giết chết con mồi ngay cả khi
chúng đang bơi. Một số con hổ thậm chí phục kích cả các con thuyền để
bắt người hay cá của họ.

×