Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thể thao vỗ thuật – Môn karate ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.93 KB, 12 trang )

Thể thao vỗ thuật – Môn karate
Karate hay Karate-Do là một môn võ thuật truyền thống của vùng Okinawa (Nhật
Bản). Karate có tiếng là nghệ thuật chiến đấu với các đòn đặc trưng như đấm, đá, cú đánh
cùi chỏ, đầu gối và các kỹ thuật đánh bằng bàn tay mở. Trong Karate còn có các kỹ thuật
đấm móc, các kỹ thuật đấm đá liên hoàn, các đòn khóa, chặn, né, quật ngã và những
miếng đánh vào chỗ hiểm. Để tăng sức cho các động tác tấn đỡ, Karate sử dụng kỹ thuật
xoay hông hay kỹ thuật kime, để tập trung lực năng lượng toàn cơ thể vào thời điểm tác
động của cú đánh.
Mục lục
 1 Xuất xứ tên gọi "Karate - 空手"
 2 Lịch sử hình thành
 3 Phương pháp luyện tập
 4 Các lưu phái Karate
o 4.1 Karate truyền thống
o 4.2 Full Contact Karate
 5 Đẳng cấp, màu đai và danh hiệu
 6 Trang phục
 7 Thay đổi trong phương pháp huấn luyện
 8 Các điều luật lệ
o 8.1 Năm điều huấn thị của võ sư Funakoshi
o 8.2 Hai mươi điều về Karate của sư tổ Funakoshi

 9 Liên kết ngoài
Xuất xứ tên gọi "Karate - 空手"
Trước đây, khi mới chỉ giới hạn ở Okinawa, môn võ này được gọi là Totei theo ngôn ngữ
ở đây, và được viết là 唐手 (tangsho, Đường thủ, tức các môn võ thuật có gốc từ Trung
Hoa). Vào thời kỳ Minh Trị, môn võ này bắt đầu được truyền vào lãnh thổ chính của
Nhật Bản, thì chữ 唐手 được phát âm theo tiếng Nhật là Karate và giữ nguyên cách viết
này. Tuy nhiên, do 唐手 thường bị hiểu không đúng là "võ Tàu", cộng thêm việc môn võ
này thường chỉ dùng tay không để chiến đấu, nên người Nhật bắt đầu từ thay thế chữ 唐
bằng một chữ khác có cùng cách phát âm và mang nghĩa "KHÔNG", đó là 空. Tên gọi


Karate và cách viết 空手 bắt đầu như vậy từ thập niên 1960. Giống như nhiều môn khác
ở Nhật Bản (Trà đạo, Thư đạo, Cung đạo, Kiếm đạo, Côn đạo, Hoa đạo ), karate được
gắn thêm vĩ tố "Đạo", phát âm trong tiếng Nhật là "DO" (viết là 道). Vì thế, có tên
Karate-Do.
Lịch sử hình thành
Những nghiên cứu gần đây cho thấy Karate được phát triển trên cơ sở tổng hợp các các
phương thức chiến đấu của người Ryukyu với các môn võ thuật ở phía Nam Trung Quốc
nhằm chống lại ách đô hộ hà khắc mà giới cai trị Nhật Bản áp đặt lên dân bản xứ bấy giờ.
Tuy nhiên, xuất xứ chính xác của môn võ này còn chưa được xác định, bởi không tìm
được thư tịch cổ nào của Vương quốc Lưu Cầu xưa ghi chép về môn võ này. Người ta chỉ
có thể đưa ra được những giả thiết về nguồn gốc của Karate.
 Xuất phát từ các điệu múa vùng nông thôn Lưu Cầu, một môn võ (người Ryukyu
gọi là dei và viết bằng chữ Hán 手) hình thành và phát triển thành Todei (唐手).
Đây là giả thiết do Asato Anko đưa ra.
 Do tập đoàn người Hoa từ Phúc Kiến di cư sang Okinawa và định cư tại thôn
Kuninda ở Naha và truyền các môn võ thuật Trung Quốc tới đây. Vì thế mà có tên
gọi là tote (唐手) với chữ to (唐 - Đường) chỉ Trung Quốc, còn t (手 - Thủ) nghĩa
là "võ".
 Theo con đường thương mại tới Okinawa. Vương quốc Lưu Cầu xưa có quan hệ
thương mại rộng rãi với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Các môn võ
thuật có thể từ các miền đất này theo các thuyền buôn và truyền tới Okinawa.
 Bắt nguồn từ môn vật của Okinawa có tên là shima.
Phương pháp luyện tập
Việc tập luyện Karate hiện đại được chia làm ba phần chính: kỹ thuật cơ bản ("Kihon"
theo tiếng Nhật), Quyền ("Kata") và tập luyện giao đấu ("Kumite")
Kỹ thuật cơ bản (Kihon) (基本) được tập luyện từ các kỹ thuật cơ bản (kỹ thuật đấm,
động tác chân, các thế tấn) của môn võ. Đây là thể hiện "mặt chung" của môn võ mà phần
lớn mọi người thừa nhận, ví dụ những bước thực hành đòn đấm.
Kata (型) nghĩa là "bài quyền" hay "khuôn mẫu" "bài hình", tuy nhiên nó không phải là
các động tác múa. Các bài kata chính là các bài mẫu vận động và chiêu thức thể hiện các

nguyên lý chiến đấu trong thực tế. Kata có thể là chuỗi các hành động cố định hoặc di
chuyển nhằm vào các kiểu tấn công và phòng thủ khác nhau. Mục đích của kata là hệ
thống hóa lại các đòn thế cho dễ nhớ dễ thuộc và những bài kata đi từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp tùy theo trình độ của môn sinh.
Các lưu phái Karate
Karate có nhiều lưu phái. Giữa các lưu phái có sự khác nhau ít nhiều về bài quyền,
phương pháp huấn luyện, quy cách thi đấu. Trước hết, Karate chia thành Karate truyền
thống và Full Contact Karate.
Karate truyền thống
Karate truyền thống theo nghĩa hẹp gồm các lưu phái tuân theo quy tắc sundome
(寸止め). Quy tắc sundome tức là chấp hành cách đánh khi thi đấu phải giữ cự ly nhất
định của đòn đánh vào đối phương hoặc giữ sức mạnh đòn đánh ở mức độ nhất định.
Karate truyền thống theo nghĩa rộng chỉ tất cả các lưu phái, tổ chức tham gia Liên minh
Karatedo Toàn Nhật Bản (trong nước Nhật) và Liên minh Karatedo Thế giới (quốc tế).
Karate truyền thống có một số đặc trưng sau:
 Coi trọng lễ tiết, triết học
 Các bài quyền (kata) theo lối cổ điển
 Phương pháp luyện tập sử dụng nhiều phương pháp từ xưa để lại
 Ít tổ chức thi đấu
 Sử dụng chế độ phong đẳng cấp dựa vào số lượng bài quyền và động tác cơ bản
luyện tập được. Thời gian phong đẳng cấp khác nhau giữa các lưu phái, song nhìn
chung đều lâu.
Karate truyền thống gồm các nhóm lưu phái sau:
 Karate cổ truyền: Đây là các lưu phái karate không bị thể thao hóa hay hình thức
hóa. Các lưu phái này coi trọng các kỹ thuật chiến đấu và luyện tập như nguồn
gốc ở Okinawa. Đó là các hệ phái Kojou-ryū (hoặc Kogusuku-ryū theo phương
ngôn Okinawa), Honbu-ryū, Shintō-ryū, v.v…
 Karate truyền thống theo nghĩa hẹp gồm các lưu phái đi theo dòng Karate thể thao
hóa nhưng áp dụng quy tắc sundome, bao gồm bốn hệ pháichính là Gōjyu-ryū,
Shōtōkan-ryū, Wadō-ryū, Shitō-ryū

 Karate Okinawa: Các lưu phái Karate có cơ sở chính ở Okinawa như Okinawa
Gōjyu-ryū, Shōrin-ryū (Tiểu Lâm Lưu), Shōrin-ryū (Thiếu Lâm Lưu), Shōrinji-
ryū (Thiếu Lâm Tự Lưu), Gensei-ryū, Hojo-ryū, Isshin-ryū, Makiwara, Ryu-te,
Ryuei-ryū, Shuri-ryū, Shōei-ryū, v.v…
Full Contact Karate
Full Contact Karate (romaji: Furu Kontakuto Karate) lại áp dụng quy tắc sử dụng đòn
đánh trực tiếp vào đối phương khi thi đấu không hạn chế cường độ. Khi thi đấu có thể sử
dụng hoặc không sử dụng các dụng cụ bảo vệ như mũ, áo giáp, v.v… Tuy được phân biệt
với Karate truyền thống ở chỗ sử dụng quy tắc trên, song chính quy tắc đánh trực tiếp vào
người đối phương không hạn chế cường độ mới là quy tắc của Karate nguyên thủy ở
Okinawa. Chính vì thế, lưu phái lớn nhất trong Full Contact Karate lấy tên là Kyokushin
Karate (極真カラテ hay Cực chân Karate, Karate chính cống). Full Contact Karate phổ
biến ở nước ngoài nhất là Mỹ hơn là ở Nhật Bản.
Thi nâng đẳng nâng đai trong Full Contact Karate ngoài dựa vào biểu diễn các bài kata
còn dựa vào kết quả đấu kumite giữa những người cùng đăng ký thi lên đẳng.
Các HỆ phái Full Contact Karate chủ yếu là:
 Kyokushin Karate (bao gồm các phân phái nhỏ là Kyokushin Kaikan ở Nhật Bản,
The World Oyama Karate Organization ở Mỹ, WKO Shinkyokushinkai, Seido
Kaikan ở Nhật, Ashihara Kaikan với ảnh hưởng quan trọng tới huấn luyện võ
thuật của quân đội và cảnh sát ở Nhật, v.v…). Ở phương Tây, Kyokushin Karate
còn được gọi là Knock-down Karate. Các phái này cho đánh trực tiếp vào người
đối phương khi thi đấu, nhưng không được đánh vào đầu.
 Các lưu phái cho phép đánh cả vào đầu đối phương khi thi đấu bao gồm
Shinkarate, Daido Juku Kudo, Zendokai, v.v…
 Ngoài ra còn có một số môn phái Karate ở Mỹ trong đó Karate Chuyên nghiệp
Toàn Mỹ mà thực chất là Karate kết hợp với các môn boxing, kickboxing nên có
khi gọi là Karate tổng hợp.
Đẳng cấp, màu đai và danh hiệu
Chế độ đẳng cấp và màu đai của Karate là học từ Judo và bắt đầu thi hành từ năm 1924.
Ban đầu chỉ có đai đen (huyền đai) và đai trắng. Đai đen dành cho những người đã có quá

trình luyện tập, còn đai trắng dành cho người mới bắt đầu. Giữa đai trắng và đai đen có từ
1 đến 3 đai nữa tùy theo từng lưu phái. Hay dùng nhất là đai màu xanh lá cây (màu trà
Nhật). Ngoài ra tùy lưu phái có thể có đai vàng, đai đỏ, đai nâu, v.v… Trong đai đen lại
có khoảng 10 đẳng, thấp nhất là nhất đẳng (nhất đẳng huyền đai). Những người đạt đến
trình độ ngũ đẳng huyền đai đến lục đẳng huyền đai được gọi là renshi (錬士) ngũ đẳng
và renshi lục đẳng, từ thất đẳng huyền đai đến bát đẳng huyền đai được gọi là kyoshi
(教士) hoặc tatsushi (達士), từ cửu đẳng huyền đai trở lên gọi là hanshi (範士). Cũng có
lưu phái không sử dụng các danh hiệu này.
Trang phục

Ảnh các võ sĩ Karate ngày xưa cởi trần biểu diễn và thi đấu.

Trang phục của một võ sĩ Karate ngày này.
Nguyên thủy, người luyện tập và đấu Karate cởi trần. mặc quần dài hoặc quần cộc. Ngày
nay, người luyện tập Karate mặc áo màu trắng là học theo áo của môn Judo. Karate
truyền thống thường mặc áo mà tay áo dài đến cổ tay, ống quần cũng dài đến cổ chân.
Trong khi đó, Full Contact Karate mặc áo quần có ống tay áo và ống quần ngắn hơn.
Thay đổi trong phương pháp huấn luyện

Cảnh huấn luyện Karate trong thành Shuri ở Naha.
Khác với các môn võ khác của Nhật Bản được truyền thụ bằng tài liệu, Karate vốn được
truyền thụ bằng miệng (khẩu truyền) và biểu diễn mẫu. Tuy nhiên, từ thời kỳ Taisho các
cao thủ Karate ở Okinawa thành lập Câu lạc bộ Đường thủ Karate để cùng nhau nghiên
cứu, trao đổi về Karate, thì bắt đầu xuất hiện các tài liệu hướng dẫn tập luyện Karate.
Các điều luật lệ
Theo tiếng Nhật gọi là Dojo kun, là một bộ các điều được đưa ra để các võ sinh Karate
tuân theo. Những điều lệ này được áp dụng trong dojo hay còn gọi là phòng tập và trong
cả cuộc sống đời thường.
Năm điều huấn thị của võ sư Funakoshi
Võ sư Funakoshi Gichin (tiếng Nhật: 船越 義珍) (1868-1957) đưa ra năm điều huấn thị

đối với người luyện Karate chi phái Shotokan để rèn luyện đạo đức.
1. Nỗ lực hoàn thiện nhân cách, tiếng Nhật: ―、人格完成に努ろこと, phiên âm:
Hitotsu, jinkaku kansei ni tsutomuru koto.
2. Luôn luôn chân thành, tiếng Nhật: ―、誠の道を守ること, phiên âm: Hitotsu,
makoto no michi wo mamoru koto.
3. Nuôi dưỡng tinh thần nỗ lực, tiếng Nhật: ―、努力の精神を養うこと, phiên
âm: Hitotsu, doryoku no seishin wo yashinau koto.
4. Trọng lễ nghĩa, tiếng Nhật: ―、礼儀を重んずること, phiên âm: Hitotsu, reigi
wo omonzuru koto.
5. Kiềm chế các hành vi nóng nảy, tiếng Nhật: ―、血気の勇を戒むる, phiên âm:
Hitotsu, kekki no yu wo imashimuru koto.
[sửa] Hai mươi điều về Karate của sư tổ Funakoshi
1. Đừng quên Karate bắt đầu bằng Lễ, kết thúc cũng bằng Lễ.
一、空手は礼に初まり礼に終ることを忘るな.
karate wa rei ni hajimari rei ni owaru koto o wasuru na.
2. Karate không nên ra đòn trước.
二, 空手に先手無し.
karate ni sen te nashi.
3. Karate phải giữ nghĩa.
三、空手は義の補け.
karate wa gi no tasuke.
4. Trước tiên phải biết mình rồi mới đến biết người.
四、先づ自己を知れ而して他を知れ.
mazu jiko o shire shikoshite hoka o shire.
5. Kỹ thuật không bằng tâm thuật.
五、技術より心術.
gijutsu yori shinjutsu.
6. Cần để tâm thoải mái.
六、心は放たん事を要す.
kokoro wa hanatan koto o yosu.

7. Khinh suất tất gặp rắc rối.
七、禍は懈怠に生ず.
wazawai wa ketai ni shozu.
8. Đừng chỉ có lúc nào ở võ đường mới nghĩ về karate.
八、道場のみの空手と思うな.
dojo no mi no karate to omou na.
9. Rèn luyện karate cả đời không nghỉ.
九、空手の修行は一生である.
karate no shugyo wa issho dearu.
10. Biến mọi thứ thành karate, như thế sẽ nắm được sự tuyệt vời của nó.
十、凡ゆるものを空手化せ其処に妙味あり.
arayuru mono o karate kasase soko ni myomi ari.
11. Karate giống như nước nóng, nếu ngừng hâm nóng thì sẽ nguội lạnh.
十一、空手は湯の如く絶えず熱を与えざれば元の水に返る.
karate wa yu no gotoku taezu netsu o ataezareba moto no mizu ni kaeru.
12. Đừng nghĩ thắng, hãy nghĩ đừng bại.
十二、勝つ考えは持つな、負けぬ考えは必要.
katsu kangae wa motsu na, makenu kangae wa hitsuyo.
13. Chuyển hóa bản thân tùy theo đối phương.
十三、敵に因って転化せよ.
teki ni yotte tenka seyo.
14. Kết quả cuộc đấu phụ thuộc vào khả năng kiểm soát.
十四、戦は虚実の操縦如何にあり.
ikusa wa kyojitsu no soju ikan ni ari.
15. Hãy nghĩ chân tay người cũng là kiếm.
十五、人の手足を劔と思え.
hito no teashi o ken to omoe.
16. Hễ ra khỏi nhà là có cả triệu địch thủ.
十六、男子門を出づれば百万の敵あり.
danshimon o izureba hyakuman no teki ari.

17. Người mới tập có thể còn gượng gạo, nhưng về sau phải thật tự nhiên.
十七、構えは初心者に、あとは自然体.
kamae wa s oshinsha ni, ato wa shizentai
18. Phải tập kata thật chuẩn, nhưng nhớ là thực chiến sẽ khác đi.
十八、型は正しく、実戦は別もの.
kata wa tadashiku, jissen wa betsu mono.
19. Nhớ kiểm soát độ mạnh yếu của lực, độ linh hoạt của cơ thể, độ nhanh chậm của đòn
thế.
十九、力の強弱、体の伸縮、技の緩急を忘るな.
chikara no kyojaku, karada no shinshuku, waza no kankyu o wasuru na.
20. Luôn chính chắn khi dụng võ.
二十、常に思念工夫せよ.
tsune ni shinen kofu seyo.

×