Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nứt đốt sống pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203 KB, 17 trang )

Nứt đốt sống

Nứt đốt sống là một dị tật bẩm sinh nghiêm trọng xảy ra khi mô xung
quanh tủy sống đang phát triển của bào thai không đóng đầy đủ. Nó là một
phần trong nhóm dị tật bẩm sinh được gọi là dị tật ống thần kinh, tác động
tới cấu trúc phổi thai sau này phát triển thành não, tủy sống của trẻ và các
mô xung quanh.
Trong hoàn cảnh bình thường, hình thể ống thần kinh ở trẻ đang phát
triển trong vài tuần đầu của thời kỳ thai nghén và đóng kín vào ngày thứ 28
sau khi thụ thai. Sau đó, phần cao nhất của ống trở thành não trẻ, và phần
còn lại của ống trở thành tủy sống của trẻ. Ở trẻ bị nứt đốt sống, vùng dọc
thấp nhất của ống thần kinh kém phát triển hoặc đóng không hoàn hảo, gây
dị tật tủy sống và các xương hình thành cột sống (xương sống). Hiện tượng
này cũng có thể xảy ra ở giữa hoặc trên điểm cuối cột sống, nhưng không
phổ biến.
Nứt đốt sống là một trong những dị tật bẩm sinh hay gặp ở Mỹ. Bệnh
xảy ra ở khoảng 1/1000-2000 ca sơ sinh mỗi năm. Điều trị nứt đốt sống có
thể cần phẫu thuật, nhưng phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh.
Dấu hiệu và triệu chứng
Nứt đột sống xuất hiện dưới 3 dạng, mỗi dạng đều có các mức độ
nặng sau:
 Nứt đốt sống ẩn. Dạng nhẹ nhất của bệnh nứt đốt sống ẩn chia
nhỏ hoặc tạo khe ở một hoặc nhiều xương của cột sống. Dạng này có thể
xuất hiện ở bất cứ xương sống nào nhưng hay gặp nhất ở nền cột sống lưng
hoặc cột sống phía dưới. Vì thần kinh tủy sống không có liên quan, phần lớn
trẻ bị dạng nứt đốt sống này không có dấu hiệu hoặc triệu chứng và không bị
các rối loạn thần kinh. Bút tóc bất thường, béo từng phần, núm đồng tiền
nhỏ hoặc vết chàm có thể thấy ở da trên vùng dị tật tủy sống của trẻ sơ sinh
và có thể chỉ là dấu hiệu của bệnh. Thực tế, phần lớn những người bị nứt đốt
sống ẩn không biết mình có bệnh, trừ khi bệnh được phát hiện do chụp X-
quang vì các bệnh không có liên quan.


 Thoát vị màng não. Ở dạng nứt đốt sống hiếm gặp này, màng
bảo vệ xung quanh tủy sống (màng não) đẩy qua khe hở xương sống. Vì tủy
sống phát triển bình thường, màng này có thể được lấy bỏ bằng phẫu thuật
theo cách ít gây tổn thương hoặc không gây tổn thương thần kinh.
 Thoát vị tủy sống màng não. Cũng được biết là nứt đốt sống hở,
thoát vị tủy sống màng não là dạng nặng nhất của bệnh và là dạng bệnh
người ta thường nghĩ đến khi họ dùng thuật ngữ nứt đốt sống. Trong thoát vị
tủy sống màng não, ống tủy của trẻ vẫn hở dọc theo một vài xương sống ở
phía dưới lưng hoặc giữa lưng. Vì dạng hở này, cả màng não và tủy sống lồi
ra vào lúc sinh, hình thành một túi trên lưng trẻ. Trong một vài trường hợp,
da che phủ túi này. Nhưng ở những trường hợp khác, mô và thần kinh bị hở,
làm cho trẻ có xu hướng bị nhiễm trùng đe dọa đến tính mạng. Suy thần kinh
phía dưới túi thường liệt một phần hoặc liệt hoàn toàn là rất phổ biến. Vì vậy
có các rối loạn đường ruột và bàng quang, động kinh và các biến chứng
khác.
Nguyên nhân
Bác sĩ không chắc chắn tại sao một số trẻ ống thần kinh không phát
triển hoặc đóng hoàn toàn. Nhưng có vẻ là sự kết hợp các yếu tố di truyền và
môi trường có thể gây nứt đốt sống. Những yếu tố này bao gồm:
 Di truyền. Nứt đốt sống có tính di truyền. Tuy nhiên, 95% số trẻ
nứt đốt sống được sinh từ cha mẹ không biết tiền sử gia đình bị bệnh này.
 Thiếu hụt acid folic. Vitamin này rất quan trọng đối với sự phát
triển sức khỏe thai nhi. Thiếu hụt acid lactic làm tăng nguy cơ nứt đốt sống
và các dị tật ống thần kinh khác.
 Bệnh nhiễm trùng ở mẹ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nhiễm
virus trong giai đoạn đầu thai nghén có thể gây nứt đốt sống.
 Một số thuốc. Các thuốc chống động kinh, như acid valproic
(Depaken), gây dị tật ống thần kinh khi được dùng trong thời kỳ mang thai,
có lẽ vì chúng gây trở ngại cho khả năng sử dụng acid folic của cơ thể.
Các yếu tố nguy cơ

Mặc dù bác sĩ và các nhà nghiên cứu không biết chắc tại sao lại nứt
đốt sống, họ đã phát hiện một số yếu tố nguy cơ sau:
 Chủng tộc. Nứt đốt sống hay gặp ở người Tây Ban Nha và
những người da trắng gốc châu Âu.
 Tiền sử gia đình dị tật ống thần kinh. Các cặp vợ chồng đã có 1
con bị dị tật ống thần kinh sẽ có 1/40 khả năng lại sinh con có dị tật như vậy.
Nguy cơ tăng lên 1/20 nếu 2 đứa con trước đã bị bệnh này. Ngoài ra, phụ nữ
bị dị tật ống thần kinh, hoặc có người thân bị bệnh, thì sẽ có nhiều khả năng
sinh con bị nứt đốt sống. Tuy nhiên, 95% số trẻ bị nứt đốt sống được sinh từ
cha mẹ không biết tiền sử gia đình bị bệnh này.
 Bệnh tiểu đường. Bệnh tiểu đường làm tăng nguy cơ nứt đốt
sống, đặc biệt khi đường huyết của mẹ tăng trong thời kỳ đầu mang thai.
Hầu như nguy cơ này có thể phòng tránh được bằng cách kiểm soát và xử trí
đường huyết chặt chẽ.
 Béo phì. Một nghiên cứu năm 2003 của Trung tâm Kiểm soát
và Phòng chống bệnh tật Mỹ đã chứng minh mối liên quan giữa béo phì
trước khi mang thai và dị tật bẩm sinh ống thần kinh, bao gồm nứt đốt sống.
Phụ nữ béo phì có thể có con bị nứt đốt sống nhiều hơn vì thiếu dinh dưỡng
do thói quen ăn ít hoặc do họ cũng bị tiểu đường - một yếu tố nguy cơ khác
được biết cũng gây dị tật ống thần kinh.
Khi nào cần đi khám
Nếu bạn là phụ nữ ở lứa tuổi sinh đẻ, hãy nói với bác sĩ về việc dùng
multivitamin hằng ngày chứa 400mcg vitamin acid folic B. Tới 70% số dị tật
ống thần kinh ở Mỹ, kể cả nứt đốt sống, có thể phòng tránh được nếu tất cả
phụ nữ dùng đủ acid folic hằng ngày trước và trong thời kỳ đầu mang thai.
Nếu bạn biết có các yếu tố nguy cơ nứt đốt sống, nói với bác sĩ để xác
định xem liệu bạn có nên dùng liều acid folic cao hơn hay không, ngay cả
trước khi có thai. Ngoài ra thảo luận các xét nghiệm sàng lọc trước sinh có
thể đảm bảo cho bạn.
Nếu đứa trẻ sinh ra bị thoát vị tủy sống màng não, bạn cần thảo khảo ý

kiến của nhóm chuyên gia gồm các bác sĩ, phẫu thuật viên và bác sĩ điều trị
tại một trung tâm chuyên môn hóa về điều trị nứt đốt sống. Trẻ bị thoát vị
tủy sống màng não có thể cần chăm sóc y tế suốt đời để kiểm soát bệnh và
điều trị các biến chứng.
Sàng lọc và chẩn đoán
Nếu có thai, bạn sẽ được làm các xét nghiệm sàng lọc trước sinh để
kiểm tra về nứt đốt sống và các dị tật bẩm sinh khác. Các xét nghiệm này có
thể cung cấp bằng chứng cho thấy thai nhi không bị dị tật bẩm sinh nặng.
Hoặc họ có thể phát hiện dị tật bẩm sinh và giúp bạn xử trí trong thời kỳ
mang thai hiệu quả hơn, bằng cách lập kế hoạch đẻ tại một trung tâm y tế
được trang bị đặc biệt.
Các xét nghiệm không hoàn hảo. Thậm chí nếu xét nghiệm âm tính,
vẫn có ít khả năng bị nứt đốt sống và phần lớn các bà mẹ có xét nghiệm máu
dương tính đều sinh con bình thường. Hãy nói với bác sĩ về xét nghiệm
trước sinh, những nguy cơ của nó và bạn có thể kiểm soát những kết quả này
như thế nào. Xét nghiệm trước sinh là sự lựa chọn ở mỗi người.
Xét nghiệm máu
Xét nghiệm ban đầu được dùng để kiểm tra thoát vị tủy sống màng
não là xét nghiệm fetoprotein alpha trong huyết thanh mẹ (MSAFP). Để thực
hiện xét nghiệm này, bác sĩ lấy mẫu máu gửi tới phòng xét nghiệm, nơi kiểm
tra fetoprotein alpha (AFP) là protein được sinh ra từ thai nhi. Bình thường
một lượng nhỏ AFP qua rau thai và vào dòng máu mẹ, nhưng nồng độ AFP
cao bất thường có thể cho thấy thai nhi bị dị tật ống thần kinh, hay gặp nhất
là nứt đốt sống hoặc thiếu một phần não bẩm sinh, là bệnh đặc trưng bởi não
không phát triển và xương sọ không hoàn chỉnh.
Kết quả chính xác nhất khi làm xét nghiệm vào tuần thứ 16-18 của
thời kỳ mang thai, nhưng thường không thể chẩn đoán được nứt đốt sống
bằng xét nghiệm máu đơn thuần. Tới 20% số trường hợp nứt đốt sống không
có nồng độ AFP cao. Sự thay đổi nồng độ AFP có thể là do các yếu tố khác
bao gồm tính nhầm tuổi thai hoặc đa thai vì vậy bác sĩ có thể làm xét nghiệm

máu sau đó để xác nhận điều này. Nếu kết quả vẫn cao, bạn sẽ cần thêm các
xét nghiệm chẩn đoán, như siêu âm và chọc ối.
Bác sĩ có thể kết hợp xét nghiệm MSAFP với 2-3 xét nghiệm máu
khác, để tìm:
 Gonadotropin màng đệm người (HCG), là hormon được sản
sinh từ rau thai
 Inhibin A, một hormon khác được sản sinh từ rau thai
 Estriol, là estrogen được sản sinh từ cả thai nhi và rau thai
Tùy theo số lượng xét nghiệm, việc kết hợp này được gọi là sàng lọc
3-4 lần. Ngoài kiểm tra dị tật ống thần kinh, xem xét thêm các chất này có
thể giúp bác sĩ xác định liệu có bất thường nhiễm sắc thể không.
Siêu âm
Nếu xét nghiệm máu có nồng độ AFP cao, bác sĩ có thể gợi ý kiểm tra
siêu âm để xác định nguyên nhân. Xét nghiệm siêu âm phổ biến nhất đẩy
sóng âm thanh tần số cao ra khỏi mô trong cơ thể tạo các hình ảnh đen và
trắng trên màn hình video nhỏ. Sự hình thành các hình ảnh này có thể chứng
minh xem có đa thai hay không và có thể xác định được tuổi thai là 2 yếu tố
có thể làm tăng nồng độ AFP. Siêu âm cải tiến cũng có thể phát hiện các dấu
hiệu của nứt đốt sống, như cột sống hở hoặc các đặc điểm đặc trưng ở não
trẻ bị nứt đốt sống. Siêu âm được thực hiện tại một trung tâm chu sinh sẽ
phát hiện được trên 95% số trẻ nứt đốt sống khi nồng độ AFP cao đã làm
tăng nghi ngờ của bác sĩ. Siêu âm là an toàn cho cả mẹ và con.
Chọc ối
Nếu xét nghiệm máu thấy nồng độ AFP trong máu bạn cao, bác sĩ có
thể khuyên chọc ối thêm ngoài siêu âm. Trong khi chọc ối, bác sĩ lấy các
mẫu dịch từ túi ối bao quanh thai nhi. Phân tích cho biết nồng độ AFP trong
dịch ối.
Một lượng nhỏ AFP thường thấy trong dịch ối. Tuy nhiên, khi bị tật
ống thần kinh hở, dịch ối chứa nhiều AFP vì da bao quanh xương sống trẻ bị
tiêu và AFP lọt vào túi ối. Mặc dù chọc ối không cho biết mức độ trầm trọng

của nứt đốt sống, khả năng thai nhi có dị tật ống thần kinh khi lượng AFP
cao trong dịch ối và tất cả các nguyên nhân khác đều bị loại trừ. Xét nghiệm
này không có nguy cơ cho sự phát triển thai nhi. Khoảng 1/200 phụ nữ có
thai bị sẩy sau khi chọc ối.
Biến chứng
Đôi khi nứt đốt sống có thể gây tàn phế nhẹ. Thông thường, bệnh có
thể gây tàn phế về thể chất và tâm thần nặng. Các yếu tố tác động tới mức độ
nặng của các biến chứng bao gồm:
 Kích thước và vị trí dị tật ống thần kinh
 Có da phủ vùng bị bệnh hay không
 Liệu thần kinh tủy sống có lộ ra ngoài vùng bị bệnh của tủy
sống hay không
Trẻ thoát vị tủy sống màng não có thể bị các rối loạn thể chất và thần
kinh, bao gồm thiếu kiểm soát đường ruột và bàng quang bình thường và liệt
chân một phần hoặc hoàn toàn. Trẻ em và người lớn bị dạng nứt đốt sống
này có thể cần dùng nạng, khung đỡ hoặc xe lăn để giúp họ đi lại, tùy thuộc
vào kích thước khe hở và chăm sóc sau sinh.
70-90% số trẻ sinh ra bị thoát vị cột sống màng não cũng bị tích tụ
dịch trong não (não úng thủy). Phần lớn trẻ bị thoát vị màng não cần đặt
shunt – là phẫu thuật đặt 1 ống cho phép dẫn lưu dịch trong não vào bụng.
Ống này có thể được đặt ngay sau khi sinh, trong khi phẫu thuật đóng túi ở
lưng dưới, hoặc sau đó khi dịch tích tụ.
Phần lớn trẻ sơ sinh bị thoát vị tủy sống màng não vẫn sống. Tuy
nhiên, một số trẻ có thể bị viêm màng não. Viêm màng não có thể gây tổn
thương não và có thể đe doạ tính mạng.
Những rối loạn thêm có thể tăng khi trẻ bị nứt đốt sống lớn lên. Trẻ bị
thoát vị tủy sống màng não có thể gặp trục trặc về đường học hành, bao gồm
khó tập trung, rối loạn nhận thức ngôn ngữ và đọc, và khó học toán. Trẻ bị
nứt đốt sống cũng có thể dị ứng nhựa, bệnh về da, viêm đường tiết niệu, rối
loạn đường ruột, động kinh, trầm cảm, các rối loạn về xã hội và cảm xúc.

Điều trị
Điều trị nứt đốt sống tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh. Nứt
đốt sống ẩn không cần điều trị, trong khi thoát vị màng não cần phẫu thuật
để đặt màng não về đúng vị trí và đóng kín khe hở ở cột sống. Phẫu thuật
này thường thực hiện ngay sau khi sinh.
Thoát vị cột sống màng não cũng cần phẫu thuật, thường trong vài giờ
tới vài ngày sau khi sinh. Tiến hành phẫu thuật sớm có thể giúp giảm thiểu
nguy cơ nhiễm trùng do thần kinh bị bộc lộ và cũng có thể giúp bảo vệ tủy
sống khỏi bị chấn thương thêm. Trong khi phẫu thuật, bác sĩ chuyên khoa
thần kinh đặt tủy sống và mô bị bộc lộ vào bên trong cơ thể và phủ cơ và da
lên. Đôi khi, shunt để kiểm soát não úng thủy được đặt trong khi phẫu thuật
tủy sống. Thỉnh thoảng, không cần thiết đặt shunt cho tới vài tuần hoặc vài
tháng sau.
Tuy nhiên, điều trị không kết thúc khi phẫu thuật lần đầu. Ở trẻ thoát
vị tủy sống màng não, tổn thương thần kinh mất bù đã xuất hiện, và thường
cần được tiếp tục theo dõi bởi một nhóm phẫu thuật viên, bác sĩ và các bác sĩ
điều trị đầy kinh nghiệm.
Liệt và các rối loạn bàng quang và đường ruột thường vẫn tồn tại, và
điều trị những rối loạn này được bắt đầu sớm ngay sau khi sinh. Trẻ thoát vị
cột sống màng não cũng có thể bắt đầu tập luyện để chuẩn bị cho chân đi bộ
bằng khung đỡ hoặc nạng khi chúng lớn lên.
Ngoài ra, trẻ thoát vị cột sống màng não có thể cần phẫu thuật thêm
đối với các biến chứng khác nhau. Nhiều trẻ phải chịu tủy sống bị buộc -
một bệnh mà tủy sống nổi lên thành sẹo kín và ít có thể phát triển hoàn hảo
khi trẻ lớn lên. Việc “trói buộc” này có thể làm mất chức năng cơ ở chân,
đường ruột hoặc bàng quang. Phẫu thuật có thể hạn chế mức độ tàn phế và
cũng có thể hồi phục một số chức năng.
Mổ đẻ cũng có thể là một phần trong điều trị nứt đốt sống. Vì nhiều
trẻ nứt đốt sống bị dị tật trước khi sinh, các nhà nghiên cứu đã đánh giá
phương pháp đẻ an toàn nhất đối với những trẻ này. Có một vài bằng chứng

cho thấy mổ đẻ trước khi bắt đầu chuyển dạ có thể giảm được mức độ tổn
thương thần kinh bị bộc lộ của đứa trẻ, vì vậy hiện nay nhiều chuyên gia
khuyên mổ đẻ. Sinh con theo kế hoạch này có thêm những thuận lợi cho
phép nhóm phẫu thuật thần kinh nhi khoa sẵn sàng can thiệp sớm sau khi
sinh.
Phẫu thuật trước khi sinh
Các nhà khoa học đang nghiên cứu hiệu quả của phẫu thuật trước sinh
đối với nứt đốt sống. Từ năm 1997, hơn 200 thai nhi đã được giải quyết
thoát vị tủy sống màng não trong tử cung qua phẫu thuật mẹ-thai nhi mở.
Trong thử nghiệm và thủ thuật gây tranh cãi này, chỉ được thực hiện ở một
số ít bệnh viện, các phẫu thuật viên nâng tử cung của bà mẹ đang mang thai
ra khỏi bụng và đặt nó lên trên bụng cô ấy, ở đây họ có thể rạch tử cung và
chỉnh sửa tủy sống của thai nhi. Cuộc phẫu thuật được thực hiện vào tuần
thứ 19-25 của thời kỳ mang thai.
Những người đề xuất phẫu thuật thai nhi tin rằng chức năng thần kinh
của đứa trẻ bị nứt đốt sống sẽ xấu đi trong quá trình mang thai, vì vậy có thể
tốt hơn khi chỉnh sửa dị tật nứt đốt sống trong tử cung. Cho tới nay, những
đứa trẻ được phẫu thuật thai nhi có chức năng não tốt hơn và nứt ít hơn,
nhưng chức năng đường ruột và bàng quang của chúng dường như không cải
thiện được. Và phẫu thuật này là một nguy cơ quan trọng gây tử vong cho
thai nhi được sinh quá sớm.
Phòng ngừa
Acid folic (vitamin B9) đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của thai nhi. Khi dùng ở dạng bổ sung ít nhất 1 tháng trước khi thụ thai
và trong 3 tháng đầu của thời kỳ mang thai, acid folic làm giảm tới 70%
nguy cơ nứt đốt sống và các dị tật ống thần kinh khác.
Điều quan trọng là dùng đủ acid folic trong chế độ ăn của bạn vào
những tuần đầu của thời kỳ mang thai, trước khi đóng kin ống thần kinh. Vì
nhiều phụ nữ không nhận ra rằng vào thời điểm này họ đang mang thai, the
March of Dimes, Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống bệnh tật đã khuyên

tất cả phụ nữ ở tuổi sinh đẻ nên bổ sung 400mcg acid folic hằng ngày. Viện
Nghiên cứu Y học khuyên phụ nữ mang thai dùng 500mcg acid folic và phụ
nữ đang cho con bú dùng 600mcg acid folic, nhưng những khuyến nghị này
không với mục đích phòng tránh dị tật ống thần kinh. Cần phải tăng số
lượng vì cơ thể bạn dùng thêm acid folic trong thời kỳ mang thai và cho con
bú.
Ngoài ra, ăn một chế độ ăn khỏe mạnh, bao gồm thực phẩm giàu folat
- là một dạng tự nhiên của acid folic. Vitamin này có trong nhiều thực phẩm,
bao gồm đậu khô, nước cam, sản phẩm từ lúa nguyên chất, và các rau màu
xanh thẫm như câu bông cải xanh và rau bina. Tuy nhiên, cơ thể bạn không
hấp thu folat dễ như hấp thu acid folic tổng hợp, và phần lớn mọi người
không dùng đủ lượng folat khuyến nghị trong chế độ ăn đơn thuần, vì vậy
việc bổ sung vitamin là cần thiết để phòng ngừa nứt đốt sống.
Có thể acid folic cũng sẽ giúp giảm nguy cơ bị các dị tật bẩm sinh
khác, bao gồm sứt môi, hở hàm ếch và một vài dị tật tim bẩm sinh. Acid
folic cũng có thể giúp bảo vệ chống lại một vài dạng ung thư và bệnh tim.
Nếu bạn bị nứt đốt sống hoặc nếu con bạn bị nứt đốt sống, bạn cần bổ
sung acid folic trước khi mang thai. Nếu bạn đang dùng các thuốc chống
động kinh hoặc bị bệnh tiểu đường, bạn cũng có thể có lợi từ việc dùng liều
cao vitamin B này. Trong những trường hợp này, liều acid folic được
khuyến nghị có thể tới 4.000mcg trong 3 tháng trước khi thụ thai. Nếu bạn
cho rằng cần tăng lượng acid folic, hãy hỏi ý kiến bác sĩ về liều vitamin kê
đơn. Không đơn giản là bổ sung nhiều vitamin vì lượng bổ sung các vitamin
khác có thể có hại cho bạn và con bạn.
Kỹ năng đối phó
Trẻ sơ sinh bị bệnh phá hủy như nứt đốt sống đương nhiên có thể
khiến cha mẹ có cảm giác buồn, tức giận, thất vọng, lo sợ và tuyệt vọng.
Mặc dù, cùng với thời gian, nhiều gia đình dần dần thấy rằng những đứa trẻ
bị nứt đốt sống có thể có cuộc sống tương đối nhanh nhẹn.
Phần lớn trẻ nứt đốt sống có thể đi bộ ít nhất được một quãng ngắn,

thường cần trợ giúp của khung đỡ, gậy hoặc nạng, mặc dù chúng có thể cần
xe lăn đối với quãng đường dài hơn. Dùng các thiết bị này có thể giúp đứa
trẻ hồi phục cử động đã mất đi do bệnh và trở nên sống tự lập hơn.
Nhiều trẻ nứt đốt sống có trí thông minh bình thường. Nhưng chúng
có thể cần can thiệp giáo dục sớm với những rối loạn hiểu biết, và chúng có
thể cần sự giúp đỡ thêm của giáo viên và cố vấn để thích nghi với trường
học. Tàn phế thể chất do nứt đốt sống cũng có thể gây rối loạn cảm xúc và
xã hội. Nhưng cần khuyến khích trẻ nứt đốt sống tham gia các hoạt động với
bạn cùng lứa và để có cuộc sống tự lập, trong những hạn chế về thể chất và
năng lực.
Nếu con bạn bị nứt đốt sống, bạn có thể được lợi từ việc tìm kiếm một
nhóm các bậc cha mẹ khác có liên quan tới bệnh. Có thể có lợi từ việc nói
chuyện với nhau để hiểu biết những thách thức khi sống với nứt đốt sống.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×