Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tiến hóa ( phần 14 ) Đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.79 KB, 6 trang )

Tiến hóa ( phần 14 )
Đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên
1. Chọn lọc tự nhiên
Định nghĩa của Darwin: Sự bảo tồn những sai dị cá thể và những biến đổi
có lợi, sự đào thải những sai dị cá thể và những biến đổi có hại được gọi
là chọn lọc tự nhiên (CLTN) hay là sự sống sót của những dạng thích
nghi nhất.
Thực chất của chọn lọc tụ nhiên
Tính chất của chọn lọc tự nhiên là tự phát, không có mục đích định trước
không do một ai điều khiển, nhưng dần dần đã đi đến kết quả làm cho các
loài ngày càng thích nghi với điều kiện sống.
Nội dung của chọn lọc tự nhiên bao gồm hai quá trình song song, là đào
thải những biến dị có hại, và tích luỹ những biến bị có lợi cho bản thân
sinh vật, là quá trình sống sót của những dạng sinh vật thích nghi nhất.
Cơ sở của chọn lọc tự nhiên (CLTN) dựa trên hai đặc tính cơ bản của sinh
vật là biến dị và di truyền.
Động lực của CLTN là quá trình đấu tranh sinh tồn hiểu theo nghĩa rộng.
Cạnh tranh cùng loài là động lực chủ yếu trong sự tiến hoá của loài làm
cho loài được chọn lọc theo hướng ngày càng thích nghi với điều kiện
sống.
Kết quả của CLTN là sự tồn tại những sinh vật thích nghi với điều kiện
sống.
Vai trò của CLTN là nhân tố chính trong quá trình tiến hoá của các loài,
làm cho các loài trong thiên nhiên biến đổi theo hướng có lợi, thích nghi
với hoàn cảnh sống cụ thể của chúng. Chính chọn lọc tự nhiên quy định
hướng và tốc độ tích luỹ các biến dị, thể hiện vai trò là tích lũy các biến
dị nhỏ có tính chất cá biệt thành những biến đổi sâu sắc, có tính chất phổ
biến.
2. Đấu tranh sinh tồn
Đấu tranh sinh tồn là động lực của quá trình chọn lọc tự nhiên.
Thực chất của đấu tranh sinh tồn


Trong sinh giới luôn tồn tại mối quan hệ phụ thuộc phức tạp giữa sinh vật
với các điều kiện vô cơ và hữu cơ, đó là mối quan hệ rất phổ biến và
thường xuyên trong tự nhiên. Trong đó Darwin nhấn mạnh mối quan hệ
giữa sinh vật với sinh vật. Mối quan hệ này rất phức tạp, có tính chất dây
chuyền. Ví dụ thực vật là nguồn thức ăn của động vật ăn cỏ, động vật ăn
cỏ là nguồn thức ăn của động vật ăn thịt, động vật bé làm mồi cho động
vật lớn.
Các dạng quan hệ giữa sinh vật với sinh vật trong tự nhiên
Quan hệ phụ thuộc là quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau, chi phối nhau, trực
tiếp giữa hai loài hay gián tiếp qua các khâu trung gian. Ví dụ về sự tồn
tại của một loài thú rừng phụ thuộc vào số lượng con mồi và số lượng kẻ
thù tiêu diệt nó.
Sự phát triển của một loài ký sinh phụ thuộc vào vật chủ của nó, đồng
thời sự phát triển của cơ thể vật chủ chịu ảnh hưởng của số lượng cá thể
loài ký sinh trên nó. Quan hệ phụ thuộc giữa sinh vật với sinh vật là dạng
quan hệ cơ bản, quy định một số đặc điểm của loài.
Ví dụ, khu phân bố, số lượng cá thể ở vùng cư trú, sự thích nghi tương hỗ
giữa thú ăn thịt và con mồi, giữa loài ký sinh với loài chủ, giữa mẹ và
con
Quan hệ cạnh tranh, diễn ra giữa những sinh vật có nhu cầu giống nhau
hoặc gần giống nhau. Chúng cạnh tranh để giành những điều kiện thuận
lợi hơn về thức ăn, chỗ ở.
Quan hệ cạnh tranh có thể tồn tại giữa hai loài khác nhau hay cùng một
loài.
Ví dụ trên cùng mảnh đất hẹp các cây cùng loài hay khác loài cạnh tranh
giành nước và muối khoáng bằng hệ rễ, giành ánh sáng bằng hệ lá
Những sinh vật có quan hệ sinh thái càng gần nhau thì quan hệ cạnh tranh
giữa chúng càng gay gắt. Giữa các cá thể cùng loài cạnh tranh là gay gắt
nhất vì chúng có nhu cầu giống nhau về điều kiện sống, mà các đặc điểm
hình thái, cấu tạo, sinh lý trên cơ thể chúng lại càng không giống nhau

hoàn toàn.
Quan hệ đấu tranh trực tiếp, là quan hệ giữa các loài có nhu cầu đối
kháng. Ví dụ (i) quan hệ giữa thú ăn thịt và con mồi, (ii) giữa chim ăn sâu
và các loài sâu bọ, (iii) giữa nấm bệnh và cây trồng.
Quan hệ đấu tranh trực tiếp thường dẫn đến thương vong. Khi hoàn cảnh
sống khó khăn, quan hệ cạnh tranh có thể chuyển thành quan hệ đấu tranh
trực tiếp.
Tóm lại, trong các hình thức đấu tranh sinh tồn, cạnh tranh cùng loài có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với tiến hoá. Trong quá trình đấu tranh đó,
những cá thể nào mang nhiều biến dị có lợi sẽ có nhiều khả năng sống sót
và sinh sản, làm cho loài không ngừng cải biến theo hướng thích nghi với
hoàn cảnh sống. Khái niệm đấu tránh sinh tồn hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm nhiều dạng quan hệ phức tạp giữa sinh vật với hoàn cảnh sống có thể
tóm tắt như các dạng quan hệ gồm có quan hệ phụ thuộc, cạnh tranh và
đấu tranh trực tiếp. Cụ thể (i) quan hệ phụ thuộc luôn tồn tại giữa sinh vật
với các điều kiện khí hậu địa chất và giữa sinh vật với sinh vật, thể hiện
cả trong cùng loài hay khác loài; (ii) quan hệ cạnh tranh diễn ra thường
xuyên, với mức độ khác nhau có khi rất gay gắt giữa các cá thể cùng loài
cũng như khác loài và (iii) quan hệ đấu tranh trực tiếp là mối quan hệ
giữa các cá thể cùng loài hoặc khác loài thường tồn tại nhất thời, không
thường xuyên, nhưng có thể gây thương vong.
3. Đánh giá quan niệm của Darwin về đấu tranh sinh tồn
a. Cống hiến
Người đầu tiên trong lịch sử sinh học nêu lên vai trò đặc biệt quan trọng
của mối quan hệ giữa sinh vật với hoàn cảnh sống, trong đó đặc biệt là
mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật, đặt cơ sở cho một khoa học mới là
sinh thái học quần lạc. Thuyết đấu tranh sinh tồn nhấn mạnh mặt mâu
thuẫn trong nội bộ giới hữu cơ. Chính cạnh tranh sinh học trong từng loài,
từng nhóm loài là động lực thúc đẩy tiến hoá.
b. Tồn tại

Ch. R. Darwin chưa thành công khi dùng thuật ngữ đấu tranh sinh tồn. Do
ảnh hưởng của thuyết Mantuxơ, chính Darwin đã xem cuộc đấu tranh
giành thức ăn, chỗ ở là mặt chủ yếu của đấu tranh sinh tồn.
Nguồn gốc giống vật nuôi, cây trồng chọn lọc nhân tạo
1. Đặc điểm của vật nuôi cây trồng
Mỗi loài vật nuôi cây trồng bao gồm nhiều giống rất đa dạng, phong phú.
Ví dụ gà rừng chỉ có 1 loài, gà nhà có vài trăm giống khác nhau. Trên thế
giới có tới 400 giống bò, 350 giống chó, gần 1.000 giống nho.
Mỗi giống vật nuôi, cây trồng trong từng loài đều thích nghi với nhu cầu
nhất định của con người. Ví dụ, các giống ngựa thồ, ngựa kéo, ngựa đua
các giống săn, chó giữ nhà, chó cảnh
Muốn giải thích các giống vật nuôi, cây trồng không thể không chú ý đến
2 đặc điểm trên, đặc biệt là đặc điểm thứ hai.
2. Quan niệm về nguồn gốc vật nuôi, cây trồng
Nhân tố chính trong quá trình hình thành các giống vật nuôi, cây trồng là
chọn lọc nhân tạo. Sinh vật không ngừng phát sinh biến dị theo nhiều
hướng không xác định. Con người loại bỏ các cá thể mang biến dị không
phù hợp, đồng thời giữ lại và ưu tiên cho sinh sản những cá thể nào mang
biến dị có lợi. Quá trình này tiến hành qua nhiều thế hệ làm vật nuôi, cây
trồng biến đổi sâu sắc Sự chọn lọc theo những mục đích khác nhau làm
vật nuôi, cây trồng đã biến đổi theo những hướng khác nhau. Kết quả, từ
một vài loài hoang dại, đã tạo nhiều giống vật nuôi, cây trồng thích nghi
với nhu cầu nhất định của con người. Các giống vật nuôi, cây trồng trong
phạm vi một loài đều có chung một hoặc vài dạng tổ tiên hoang dại.
3. Bằng chứng về tác dụng của chọn lọc nhân tạo
Nhiều đặc điểm trên cơ thể vật nuôi cây trồng chỉ có lợi cho người , nhiều
khi có hại cho chính bản thân chúng. Ví dụ gà Lơgo có thể đẻ 300 - 350
trứng/năm, nhưng mất bản năng ấp trứng. Nhiều giống cây trồng mất khả
năng sinh sản bằng hạt như rau muống, khoai lang
Bộ phận nào trên cơ thể vật nuôi, cây trồng được con người chú ý thì biến

đổi nhiều và nhanh. Ví dụ bò cày u vai phát triển, trái lại bò sữa có bầu vú
phát triển. Các giống rau thì lá phát triển nhưng quả, hạt ít biến đổi.
Nhu cầu, thị hiếu của người thay đổi đã quyết định sự biến đổi, phát triển
hay diệt vong của một giống vật nuôi, cây trồng. Ví dụ về hoa Dạ Hương
Lan ở Anh, người ta thống kê năm 1597 thấy có 4 thứ, vì được nhiều
người ưa thích nên năm 1768 có 2000 thứ. Về sau người ta không ưa
chuộng nên năm 1869 chỉ còn 200 thứ.
4. Thực chất của quá trình chọn lọc nhân tạo
Tính chất của chọn lọc nhân tạo là do con người tiến hành, vì lợi ích của
người.
Nội dung gồm hai quá trình đồng thời, đó là đào thải những biến dị không
có lợi cho con người, bằng cách hạn chế sinh sản hoặc loại bỏ, và tích luỹ
những biến dị có lợi cho con người bằng cách chọn để riêng, ưu tiên cho
sinh sản.
Tính biến dị của sinh vật cung cấp nguyên liệu vô tận cho quá trình chọn
lọc.
Tính di truyền là cơ sở đảm bảo cho quá trình chọn lọc có thể dẫn tới kết
quả bảo tồn và tích luỹ các biến dị có lợi, đáp ứng nhu cầu của con người.
Động lực thúc đẩy chọn lọc nhân tạo là nhu cầu kinh tế, thị hiếu, thẩm mỹ
của con người.
Kết quả của chọn lọc nhân tạo là tạo ra nhiều giống vật nuôi, cây trồng
trong phạm vi một loài từ một hoặc vài dạng tổ tiên hoang dại.
Vai trò sáng tạo của chọn lọc nhân tạo là tích luỹ những biến dị nhỏ xuất
hiện riêng rẽ thành những biến đổi lớn sâu sắc, phổ biến cho cả một
giống.
5. Phân ly dấu hiệu
Phân ly dấu hiệu là quá trình từ một dạng ban đầu dần dần biến đổi theo
hướng ngày càng sai khác nhau.
Nguyên nhân là sự chọn lọc tiến hành theo những hướng khác nhau trên
cùng một đối tượng.

Nội dung của phân ly dấu hiệu bao gồm hai mặt vừa đào thải những
hướng biến đổi trung gian không đáng để ý, vừa có sự tích luỹ, tăng
cường những hướng biến đổi đặc sắc nhất.
Kết quả là từ một loài tổ tiên hoang dại ban đầu hình thành nhiều giọng
khác nhau rõ rệt, mỗi giống thích nghi cao độ với nhu cầu nhất định của
con người.
Tóm lại, chọn lọc nhân tạo, thông qua quá trình phân ly dấu hiệu đã có
thể giải thích nguồn gốc chung của các giống vật nuôi cây trồng trong
từng loài từ dạng tổ tiên hoang dại. Ví dụ sự phân ly của các giống cải
cho thấy từ 1 loài cải dại đến nay hình thành các giống bắp cải, su hào,
súp lơ
6. Hình thức chọn lọc nhân tạo
Chọn lọc không tự giác, còn gọi chọn lọc tự phát, là một hình thức tồn tại
ở những nơi có trình độ canh tác còn thấp kém. Trong hình thức này con
người không có mục đích rõ ràng là nhằm cải tạo một giống theo tiêu
chuẩn nào đó. Họ chỉ đơn giản là giữ lại những cá thể tốt nhất để làm
giống, cá thể xấu thì loại bỏ.
Chọn lọc có phương pháp, là hình thức chọn lọc do con người tiến hành
chọn lọc một cách tự giác, có phương pháp, kế hoạch với mục đích rõ rệt
là cải tiến giống hiện có, tạo giống mới theo tiêu chuẩn định trước. Người
ta thường kết hợp chọn lọc với lai giống để đạt kết quả tốt và nhanh.
7. Đánh giá quan niệm của Darwin về chọn lọc nhân tạo
Cống hiên
Quan niệm chọn lọc nhân tạo ( CLNT) là nhân tố chính định hướng sự
biến đổi của vật nuôi, cây trồng.
Chọn lọc nhân tạo trong mối liên hệ giữa biến dị và di truyền đã giải thích
vì sao mỗi giống vật nuôi, cây trồng lại thích nghi với nhu cầu nhất định
của con người.
Chọn lọc nhân tạo thông qua sự phân ly dấu hiệu đã giải thích nguồn gốc
chung của giống vật nuôi, cây trồng.

Thuyết CLNT vạch rõ khả năng của con người trong cải biến vật nuôi,
cây trồng.
Tồn tại
Do chưa nghiên cứu sâu vào nguyên nhân và cơ chế phát sinh biến dị,
Darwin cho rằng, con người không thể chủ động gây ra biến dị mong
muốn, con người chỉ vô tình đặt vật nuôi, cây trồng vào những điều kiện
sống khác nhau, biến dị sẽ phát sinh một cách ngẫu nhiên


×