Tải bản đầy đủ (.doc) (207 trang)

Đề tài: Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 207 trang )

Đề tài
Tổ chức lưu thông
phân bón vô cơ theo
cơ chế thị trường ở
Việt Nam
1
Mục lục
t iĐề à 1
T ch c l u thông phân bón vô c theo c ch th tr ng Vi tổ ứ ư ơ ơ ế ị ườ ở ệ
Nam 1
M c l cụ ụ 2
L i m đ uờ ở ầ 2
Ch ng 1ươ 5
Ch ng 2ươ 96
1.2.4.2 2 V n đ d trấ ề ự ữ 115
Ngu n tính t s li u c a t ng c c Thông kêồ ừ ố ệ ủ ổ ụ 126
Ch ng 3ươ 170
K t lu nế ậ 204
Lời mở đầu
1-/ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Nước ta là nước nông nghiệp thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa quanh
năm nóng ẩm. Diện tích trồng tra ở nước ta chiếm một tỷ trọng lớn trong đất
đai, dân số làm nghề nông ở nước ta nhiều. Do điều kiện thuận lợi về tự nhiên
và khí hậu thích hợp với cây trồng, Đảng ta đã xác định “Nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu” trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu
2
Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã cụ thể hoá bằng 3 chương trình kinh tế lớn là
“lương thực, thực phẩm - hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về lương thực, từ chỗ ta phải lo đủ ăn đến phấn đấu có xuất khẩu và
đến nay ta đã làm được điều đó, sản lượng lương thực năm 1993 đã ở mức 25
triệu tấn/năm song xu hướng những năm tới không những vừa phải đảm bảo


đủ lương thực tiêu dùng cho toàn quốc mà còn phấn đấu xuất khẩu một lượng
lớn hơn nhiều. Để làm được điều đó, một trong những vấn đề quan trọng là
phải đảm bảo đủ cả về số lượng, chủng loại và chất lượng phân bón vô cơ
đúng thời vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá
độ. Vấn đề lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở điều kiện cụ thể
của nước ta hiện nay phải được tổ chức như thế nào để vừa đảm bảo nhiệm vụ
đặt ra, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp làm công tác lưu thông tồn tại và có lãi.
Với tư cách là cán bộ công tác tại Tổng Công ty Vật tư Nông nghiệp tiếp xúc
với quá trình kinh doanh phân bón, tác giả xin chọn đề tài “Tổ chức lưu
thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu.
3
2-/ MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:
- Làm rõ cơ sở lý luận của lưu thông hàng hoá nói chung và đặc điểm
tổ chức lưu thông phân bón vô cơ nói riêng trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích thực trạng tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở nước ta hiện
nay rút ra những vấn đề mang tính quy luật của quá trình lưu thông phân bón.
- Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện việc tổ chức lưu thông phân bón
vô cơ phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta.
3-/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đề tài nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận về tổ
chức lưu thông phân bón vô cơ. Đề tài nghiên cứu việc lưu thông phân bón vô
cơ trong phạm vi cả nước.
4-/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Sử dụng phương pháp vật biện chứng, duy vật lịch sử nghiên cứu tổng
thể vấn đề. Các phương pháp toán, thống kê, phân tích cũng được sử dụng để
nghiên cứu các vấn đề cụ thể.
5-/ KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham

khảo. Đề tài gồm 3 chương:
CHƯƠNG I - Đặc điểm và nội dung cơ bản của tổ chức lưu thông
phân bón vô cơ trong nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG II - Nghiên cứu, phân tích tình hình lưu thông phân bón
vô cơ ở Việt Nam hiện nay.
Chương III - Phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện quá trình lưu thông phân bón vô cơ ở Việt
Nam hiện nay.
4
Chương 1
ĐĂC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1-/ TỔ CHỨC LƯU THÔNG TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1-/ Lưu thông và vị trí của lưu thông trong nền kinh tế quốc dân
Lưu thông là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, là cầu nối
trung gian một bên là sản xuất và phân phối và một bên là tiêu dùng.
Thực tế cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế công tác lưu
thông được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, các cơ
quan hành chính, kinh tế can thiệp sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp
phát và lao động sản phẩm. Lưu thông trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp
sản phẩm cho các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do Nhà nước định sẵn. Tóm lại
trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm của nền
kinh tế là: sản xuất cái gì? sản xuất bằng cách nào? sản xuất cho ai? đều do Nhà
nước quyết định thì lưu thông hàng hoá chỉ là việc bán sản phẩm hàng hoá sản
xuất ra theo kế hoạch và giá cả được ấn định trước.

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều có quyền tự chủ
trong sản xuất, kinh doanh hay nói khác đi các doanh nghiệp phải tự quyết
định ba vấn đề kinh tế trung tâm (sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản
xuất cho ai?) thì lưu thông hàng hoá không thể đơn thuần là việc bán sản
phẩm hàng hoá ra theo kế hoạch và giá cả ấn định trước.
5
Muốn thực hiện được chức năng là cầu nối trung gian giữa sản xuất,
phân phối và tiêu dùng thì lưu thông hàng hoá phải được hiểu là một quá trình
kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu
khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ,
xúc tiến bán hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Quan niệm lưu thông
hàng hoá là quá trình tiêu thụ sản phẩm, Hiệp hội kế toán quốc tế định nghĩa:
Tiêu thụ (bán hàng hàng hoá, lao vụ, dịch vụ) là việc chuyển dịch quyền sở
hữu sản phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng
thời thu được tiền hàng hoặc được quyền thu tiền bán hàng.
Lưu thông hàng hoá nếu xét trên mối quan hệ kinh tế quốc tế thì được
chia ra lưu thông hàng hoá trong nước và lưu thông hàng hoá nước ngoài, hay
được gọi là nội thương và ngoại thương (xuất nhập khẩu). Căn cứ vào tính
chất của hàng hoá lưu thông trên thị trường chia ra: lưu thông tư liệu sản xuất
(vật tư thiết bị); lưu thông tiền vốn; sức lao động và cuối cùng là lưu thông
vật phẩm tiêu dùng.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm bốn khâu: sản xuất - phân phối -
trao đổi (lưu thông) - tiêu dùng.
Sản xuất là khâu mở đầu, là quá trình con người sử dụng tư liệu sản
xuất để tạo ra sản phẩm (dưới hai dạng: tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu
dùng) cho con người.
Phân phối là một khẩu của quá trình tái sản xuất xã hội nói lên cách
chia sản phẩm (tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng) như thế nào tuỳ theo
việc ai là chủ tư liệu sản xuất đó.
Trao đổi là một khẩu trung gian đưa tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu

dùng đến nơi tiêu dùng. Trao đổi có thể tiến hành dưới dạng hiện vật hoặc
dưới dạng mua bán thông qua đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế phát triển
sản xuất hàng hoá, thì từ ngữ trao đổi thường được dùng với hàm ý là mua
6
bán, thông qua mua bán để trao đổi hàng hoá với nhau. Lưu thông cũng là
một hoạt động kinh tế trung gian gắn sản xuất với tiêu dùng. Tham gia khâu
lưu thông này có các hoạt động của các ngành vận tải, thu mua (lưu thông
nông sản vật tư) cung ứng vật tư và hoạt động trao đổi mua bán của nội
thương và ngoại thương. Như vậy khái niệm lưu thông bao hàm nội dung đầy
đủ hơn, rộng hơn khái niệm trao đổi.
Mỗi chu kỳ tái sản xuất bắt đầu từ khâu sản xuất và kết thúc ở khâu tiêu
dùng. Sản xuất là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, còn phân phối
trao đổi (lưu thông) là khâu trung gian, vì sản phẩm sau khi được sản xuất ra
muốn được tiêu dùng phải qua phân phối và trao đổi. Có thể thấy rõ vị trí của
lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội theo sơ đồ dưới đây.
Giữa các khâu của quá trình tái sản xuất có mối quan hệ quyết định và
tác động thúc đẩy lẫn nhau.
+ Xét hình thức bên ngoài, mối quan hệ này thể hiện, trong quá trình
sản xuất, các thành viên của xã hội thích nghi (tạo ra, cải biến) các sản phẩm
của tự nhiên cho phù hợp với yêu cầu của con người; phân phối xác định tỷ lệ
mỗi cá nhân tham gia vào sản phẩm đã sản xuất ra.
+ Lưu thông đem lại cho cá nhân những sản phẩm nhất định mà anh ta
muốn dùng phần nhận được do phân phối để trao đổi (lưu thông); cuối cùng,
trong tiêu dùng các sản phẩm trở thành đối tượng tiêu dùng và đối tượng của
việc chiếm hữu cá nhân. Sản xuất sáng tạo ra những sản phẩm thích hợp với
các nhu cầu, phân phối phân chia các vật đo ra theo những quy luật xã hội;
trao đổi (lưu thông) lại phân phối lại cái đã được phân phối theo những nhu
cầu cá biệt; cuối cùng trong tiêu dùng, sản phẩm vượt ra khỏi vận động xã hội
đó, trực tiếp trở thành đối tượng phục vụ cho một nhu cầu cá biệt và thoả mãn
7

Sản xuất Phân phối Lưu thông
Tiêu dùng
nhu cầu đó trong quá trình tiêu dùng. Như vậy sản xuất thể hiện ra là điểm
xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, phân phối trao đổi là điểm trung gian.
Điểm trung gian này lại có hai yếu tố và phân phối được coi là yếu tố xuất
phát từ xã hội và trao đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân.
+ Đi sâu phân tích mối quan hệ giữa các khâu của quá trình sản xuất, ta
thấy sản xuất luôn là cái quyết định, quy định đối với phân phối, trao đổi và
tiêu dùng. Song phân phối, trao đổi và tiêu dùng không phải chỉ đơn thuần
chịu sự quy định một cách thụ động mà nó còn có tác động trở lại trong mối
quan hệ biện chứng.
* Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất cũng trực tiếp là tiêu
dùng- Tiêu dùng về hai mặt, chủ quan và khách quan: cá nhân phát triển năng
lực của mình trong quá trình sản xuất, đồng thời cũng tiêu phí, tiêu dùng các
năng lực đó trong hành vi sản xuất, cũng giống như hành vi sinh con đẻ cái là
sự tiêu phí sức sống. Mặt khác sản xuất là tiêu dùng các tư liệu sản xuất mà
người ta sử dụng các tư liệu sản xuất đó hao mòn đi một phần phân giải thành
những yếu tố cơ bản của sản phẩm. Vì vậy bản thân hành vi sản xuất trong
mọi nhân tố của nó cũng đồng thời là hành vi tiêu dùng. Trong trường hợp
này, sản xuất được coi là trực tiếp đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng được
coi là trực tiếp ăn khớp với sản xuất. Và được các nhà kinh tế học gọi là tiêu
dùng sản xuất.
Tiêu dùng đồng thời cũng trực tiếp là sản xuất, cũng như trong tự
nhiên, tiêu dùng các nguyên tố hoá chất là sự sản xuất thực vật, hay trong quá
trình ăn uống, một trong những hình thức tiêu dùng con người sản xuất ra bản
thân cơ thể của mình. Điều đó cũng có giá trị đối với mọi hình thức tiêu dùng
khác, những hình thức tiêu dùng này về mặt này hay mặt khác, mỗi hình thức
một kiểu đã góp phần vào việc sản xuất ra con người. Đó là sự sản xuất có
tính chất tiêu dùng. Sự sản xuất có tính chất tiêu dùng này - mặc dù nó là một
sự thống nhất trực tiếp của sản xuất và tiêu dùng - về căn bản khác với sản

8
xuất theo đúng nghĩa của nó. Sự thống nhất trực tiếp, trong đó sản xuất trực
tiếp với tiêu dùng, và tiêu dùng đồng nhất với sản xuất, vẫn giữ tính chất hai
mặt trực tiếp của chúng.
Vậy, sản xuất trực tiếp là tiêu dùng, tiêu dùng trực tiếp là sản xuất. Mỗi
cái trực tiếp là cái đối lập của nó. Nhưng đồng thời giữa hai cái đó có vận
động môi giới. Sản xuất là môi giới cho tiêu dùng, sản xuất tạo ra những vật
liệu cho tiêu dùng, không có vật liệu này thì tiêu dùng sẽ không có đối tượng.
Nhưng tiêu dùng cũng là môi giới của sản xuất vì chỉ có tiêu dùng tạo ra các
chủ thể cho các sản phẩm, mới làm cho sản phẩm trở thành sản phẩm đối với
chủ thể. Sản phẩm chỉ đạt đến sự kết thúc cuối cùng của nó trong tiêu dùng
mà thôi. Không có sản xuất thì không có tiêu dùng, nhưng không có tiêu dùng
cũng chẳng có sản xuất vì trong trường hợp đó sản xuất sẽ không có mục
đích. Tiêu dùng tạo ra sản xuất thể hiện chỉ có trong tiêu dùng thì sản phẩm
mới thực sự trở thành sản phẩm, mới đem đến cho sản phẩm một sự hoàn
thiện cuối cùng và tiêu dùng tạo ra nhu cầu về một sản phẩm mới.
Sản xuất tạo ra tiêu dùng bằng cách, tạo ra vật liệu cho tiêu dùng xác
định phương thức tiêu dùng, làm nảy ra ở người tiêu dùng các nhu cầu của đối
tượng là sản phẩm do sản xuất tạo ra, do đó sản xuất sản xuất ra đối tượng
tiêu dùng, phương thức tiêu dùng và sự kích thích tiêu dùng.
* Quan hệ giữa sản xuất và phân phối: cơ cấu của sự phân phối hoàn
toàn do cơ cấu của sản xuất quy định. Bản thân sự phân phối là sản vật của
sản xuất, không chỉ về mặt nội dung vì người ta có thể đem phân phối những
kết quả của sản xuất thôi mà về cả hình thức, vì phương thức nhất định của
việc tham gia vào sản xuất quy định hình thái đặc thù của phân phối, hình thái
theo đó người ta tham gia vào sự phân phối. Tuy nhiên phân phối có tính độc
lập tương đối đối với sản xuất. Bởi vì phân phối biểu hiện thành phân phối
sản phẩm và do đó hình như nó rất cách xa đối với sản xuất và tựa hồ như độc
lập với sản xuất. Nhưng trước khi là phân phối sản phẩm thì phân phối là
9

phân phối những công cụ sản xuất và phân phối các thành viên xã hội theo
những loại sản xuất khác nhau, cái đó tức là một sự quy định khác của mối
quan hệ trên (việc các cá nhân lệ thuộc vào những quan hệ sản xuất nhất
định). Rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối đó mà
thôi, sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và quyết
định cơ cấu sản xuất. Như vậy, sản xuất phải xuất phát từ một sự phân phối
nhất định về công cụ sản xuất, nên theo ý nghĩa đó thì phân phối ít nhất của
phải có trước sản xuất, là tiền đề của sản xuất và do đó quyết định sản xuất.
* Quan hệ giữa sản xuất và trao đổi: bản thân lưu thông chỉ là một yếu
tố nhất định của trao đổi, hoặc là của trao đổi xét trên toàn bộ của nó. Vì trao
đổi chỉ là một yếu tố trung gian, một mặt là giữa sản xuất và phân phối do sản
xuất quyết định, và mặt khác là với tiêu dùng, còn bản thân phân phối lại thể
hiện ra một yếu tố của sản xuất, nên rõ ràng là trao đổi bao hàm trong sản
xuất với tư cách là yếu tố của sản xuất. Trước hết, sự trao đổi hoạt động và
năng lực được thể hiện trong bản thân sản xuất là một bộ phận trực tiếp của
sản xuất và là mặt căn bản của sản xuất; Thứ hai, đối với trao đổi sản phẩm sự
trao đổi là phương tiện để sản xuất ra thành phẩm nhằm phục vụ cho sự tiêu
dùng trực tiếp. Trong phạm vi đó, bản thân trao đổi là một hành vi bao gồm ở
trong sản xuất; Thứ ba, sự trao đổi giữa các nhà kinh doanh với nhau xét về
mặt tổ chức của nó là hoàn toàn do sản xuất quyết định, đồng thời nó lại là
hoạt động sản xuất. Trao đổi chỉ độc lập với sản xuất, không dính gì với sản
xuất ở trong giai đoạn cuối cùng mà thôi - khi sản phẩm được trao đổi trực
tiếp để tiêu dùng. Nhưng không có phân công lao động thì không có trao đổi;
trao đổi tư nhân giả định phải có nền sản xuất tư nhân và cường độ của trao
đổi, tính chất phổ cập của trao đổi cũng như hình thái trao đổi là do sự phát
triển và kết cấu của nền sản xuất quyết định. Do đó trong mọi yếu tố của nó
trao đổi hoặc là trực tiếp bao gồm trong sản xuất, hoặc do sản xuất quyết định.
10
* Sự phân tích giữa quan hệ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất
cho thấy giữa sản xuất - phân phối- lưu thông - tiêu dùng là những bộ phận

của tổng thể, là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất. Trong
đó sản xuất chi phối bản thân nó với tất cả sự đối lập trong tất cả những tính
quy định của nó, cũng như nó chi phối các yếu tố khác chính là bắt đầu từ sản
xuất mà quá trình lặp lại không ngừng. Bản thân sản xuất đến lượt nó cũng do
các yếu tố khác quyết định. Khi thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng
ra thì quy mô sản xuất cũng tăng lên và sự phân công trong sản xuất cũng trở
nên sâu sắc hơn; phân phối biến đổi, sản xuất cũng biến đổi theo; cuối cùng
thì những yêu cầu của tiêu dùng quyết định sản xuất.
1.2-/ Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế kế hoạch tập trung
Lưu thông tư liệu sản xuất cũng là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, là
mắt xích không thể thiếu được giữa các chu kỳ sản xuất trong điều kiện phân
công lao động đã phát triển. Lưu thông không chỉ đơn thuần là việc “phân
phối ” tư liệu sản xuất trong quá trình tái sản xuất xã hội, nó thực sự là tấm
gương phản chiếu khá đầy đủ bộ mặt kinh tế của một đất nước; Mặc dù vậy
bản chất của nó đó là một khâu của tái sản xuất có thể xem là bắt đầu của sản
xuất và cũng là kết thúc của sản xuất. K- Mác đã tóm tắt lưu thông tư bản bởi
công thức:
T - H (sx) H-T- H(sx)- H
(1)
Lưu thông tư liệu sản xuất xảy ra ở (1) tức là nối sản xuất với sản xuất.
Mặt khác K.Mác đã chứng minh luận đề: Lưu thông không tạo ra giá trị hàng
hoá. Nhưng trong (1) Ta thấy có sức xuất hiện của tiền (T) tức là phải có sự
trao đổi thông qua hình thái tiền tệ. Xã hội phát triển hình thành một bộ phận
mới đó là những tổ chức và cá nhân chuyên kinh doanh trong lĩnh vực lưu
thông. Trong đó có kinh doanh tư liệu sản xuất. Lĩnh vực hoạt động này ngày
càng phát triển và trong sự phát triển đa dạng đó nảy sinh những hình thức
11
kinh doanh gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống xã hội, mà trước tiên là nó
gây thiệt hại cho chính những người làm lưu thông thực sự và chân chính.
Từ sơ đồ sau:

TLSX- SLĐ Sản xuất TLTD
Pk A P
k+1
TLSX.
Trong đó giả sử nền kinh tế sản xuất n loại hàng hoá .
Gọi: P
k
= (P
jk
) là giá hàng tại chu kỳ sản xuất thứ k của loại hàng hoá
J (J = 1,n)
A = (a
ij
)nxn - là ma trận chi phí
Để đơn giản giả định tiêu dùng SLĐ khi tính chi phí sản xuất như
TLTD
Như vậy trong điều kiện cân bằng và nếu kinh tế hầu như đóng trên thị
trường khu vực thì:
Hay P= A.P
Nếu tính theo chu kỳ ta sẽ có:
Trong đó α là tỷ xuất lợi nhuận bình quân, tức là:
P
k+1
= (1+α) A P
k.
Do đó, sau t chu kỳ sản xuất:
P
t
= (1 + α )
t

A
t
P
0.
12
PjaijPi
n
j

=
=
1
∑ ∑ ∑
= = =
+=+=+
n
j
n
j
n
j
aijPjkaijPjkaijPikPik
1 1 1
)1(1
αα
Trong điều kiện bình thường ta có thể chọn α sao cho P
t
hội tụ đến P,
với một giá gốc nhất định. Và công thức P = A.P chính là cơ sở để giải thích
nguồn gốc của lợi nhuận- đó là sức lao động, là chi phí lao động sống. Đương

nhiên không phải vì thế mà lao động vật hoá không có vai trò quan trọng, đôi
khi là quyết định trong việc tạo ra lợi nhuận. Vì vậy vấn đề đặt ra là: Muốn
thực hiện đúng bản chất của lưu thông thì bất kỳ một loại tư liệu sản xuất nào
cũng cần xác định một con đường qua lưu thông ngắn nhất, có thể hiểu theo
nghĩa chi phí chứ không chỉ có ý nghĩa địa lý. Thường thì lưu thông hàng hoá
nói chung hay tư liệu sản xuất nói riêng của các nước phát triển hay chưa phát
triển, thì các tổ chức, cá nhân hay các doanh nghiệp thực hiện công tác lưu
thông cũng không thể bán rẻ và không chịu mua rẻ.
Ở Việt Nam trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung các hàng hoá
mua bán trên thị trường chưa phải đã vận động theo quy luật Cung- cầu,
nhiều yếu tố của sản xuất chưa trở thành hàng hoá, chẳng hạn: đất đai, sức lao
động, phân bón, xăng dầu, chất xám, tiền tệ Nó là nền kinh tế với nhiều
hoạt động kinh tế trong xã hội chưa hoàn toàn theo đúng các quy luật của nền
kinh tế, trong đó việc mua bán tư liệu sản xuất là một trường hợp điển hình.
Trong thời kỳ này lưu thông tư liệu sản xuất ở nước ta được đánh giá là: Lộn
xộn, vòng vèo, tính xã hội thấp.
Điều đó thể hiện ở chỗ người mua của người làm lưu thông không phải
là người sản xuất tức là xảy ra hiện tượng lưu thông -lưu thông sản xuất,
trong đó mục đích của lưu thông về mặt xã hội hầu như không phải là sản
xuất dù người mua là người sản xuất. Từ đó dẫn đến tình trạng lộn xộn kinh
doanh theo kiểu “cò mồi, chỉ trỏ”. Mặt khác tạo nên nhu cầu giả tạo hạn chế
sức sản xuất, giá cả không phản ánh đúng quy luật giá trị, quy luật cung cầu.
Hàng hoá tư liệu sản xuất lưu thông vòng vèo như một “vật ngon” thách thức
người sản xuất. Và cuối cùng chi phí sản xuất tăng do phải chấp nhận giá tư
liệu sản xuất quá cao (giá hạch toán). Còn lưu thông hầu như chỉ để lưu
13
thông- để kiếm lời, qua quá trình lưu thông nhiều cấp. Vậy các tổ chức, cá
nhân hay các doanh nghiệp làm công tác lưu thông trong nền kinh tế kế hoạch
hoá thu được lợi nhuận ở đâu ra. Và điều này đựoc khẳng định là chắc chắn
do một chủ thể kinh doanh mạnh dạn bỏ vốn ra, do đó phải thu lãi. Nên mỗi

lần mua bán lại phải tuân theo quá trình là: Khi người sản xuất bán tư liệu sản
xuất cho người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất thì phải trích ra một phần
lợi nhuận ròng của mình để “nhờ ”bán hàng. Phần trích đó sẽ không bé hơn
công sức người kinh doanh tư liệu sản xuất sẽ bỏ ra để bán hộ hàng cho mình.
(K.Mác cũng đã chỉ ra lợi nhuận thương nghiệp hình thành như vậy). Hoặc ở
góc độ khác nếu người kinh doanh đầu tiên không chia lợi nhuận đủ cho
người kinh doanh tiếp theo và sau nữa thì phần lợi nhuận đó có người ứng
trước cho họ- đó chính là người sản xuất hay đúng hơn là chu kỳ sản xuất sau
đó. Vì 2 lý do: Thứ nhất có thể họ vẫn còn lãi dù lãi ít ; Thứ hai là họ buộc
phải sản xuất nếu không muốn phá sản và cho không toàn bộ phần vốn cố định
đã mua sắm. Hệ quả dẫn đến là sự luẩn quẩn trong lưu thông và làm ảnh hưởng
đến các tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong trường hợp đó chỉ có một cách
duy nhất là phá sản một số ngành và giảm lương của bản thân người lao động
để có thể làm cho chi phí sản xuất giảm tối thiểu. Điều này dẫn đến thất nghiệp
tương đối và sức lao động, kể cả số người được đào tạo ngày càng hao mòn,
năng suất lao động giảm. Mặc nhiên do yếu tố tâm lý lưu thông chu kỳ sau sẽ
chấp nhận giá cao hơn một chút và chính điều đó làm cho người chuyên kinh
doanh tư liệu sản xuất thấy có thể chấp nhận giá mua vào cao hơn, nếu xét một
chu kỳ sản xuất, lưu thông thì thấy họ có lãi, nhưng nếu kéo dài, chu kỳ tăng
lên thì tỷ lệ lãi giảm dần mà thuế doanh thu tăng dần, quan hệ đó có thể mô tả
như sau:
P
t
T
D
t
L C
14
T
T

0
t
D
t
: Doanh thu
T: Thuế
C: Chi phí (giả định đơn giản)
Khi đó nếu ta thấy không có sự can thiệp đủ mạnh thì sau chu kỳ(t),
kinh doanh bắt đầu thua lỗ thậm chí phá sản điều đó dẫn đến một nghịch lý
đối với người kinh doanh tư liệu sản xuất chuyên nghiệp, chuyên doanh là
càng buôn càng lỗ chứ không phải buôn gì cũng lãi. Vậy lãi vào tay ai-đó là
những nhà kinh doanh thương mại cấp 2, cấp 3 thậm chí không cần vốn mà
chỉ bằng vay ngân hàng hoặc môi giới - đó là những nhà làm lưu thông kiểu
“cò mồi, chỉ trỏ” Những người tham gia phá trật tự lưu thông này thu lãi. Về
mặt lý thuyết lãi còn được chi vào thuế ngân sách nhà nước, song thực tế
không hẳn như vậy. Trong khi đó rõ ràng thị trường khu vực cũng như thị
trường thế giới thông thường có tính ổn định theo thời kỳ, như vậy một đất
nước quá nhiều tư liệu sản xuất như nước ta thời kỳ này, thì giá tư liệu sản
xuất trên thị trường thực chất phụ thuộc vào giá nhập khẩu. Giá các loại tư
liệu sản xuất không trực tiếp phụ thuộc vào sức sản xuất trong nước mà phụ
thuộc vào giá chuyển đổi đồng ngoại tệ mạnh và các chính sách xuất nhập
khẩu. Ở đây lại xuất hiện một nguy cơ cho người sản xuất cũng như người
chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất, là làm cho quá trình thua lỗ vừa kéo dài
vừa đột biến không dự báo được.
Trên cơ sở những phân tích đối với hoạt động lưu thông TLSX trong
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một số kết luận được rút ra là:
- Nhà nước không kiểm soát được mạng lưới làm lưu thông TLSX bằng
pháp luật, do thị trường chỉ có một giá; mặt khác một số TLSX cần cho sự
15
phát triển của đất nước, các TLSX chủ chốt cần nhập khẩu nhà nước đã độc

quyền - độc quyền nhập và độc quyền qua chính sách thuế quan.
- Đối với tất cả các cá nhân đơn vị sản xuất, kinh doanh nhà nước chưa
thực hiện được chế độ kiểm toán, chưa buộc các cá nhân, đơn vị phải ghi chép
hạch toán, theo một hệ thống chứng từ thống nhất nhằm đảm bảo thu quốc
doanh, thuế không bị thất thoát.
- Nhà nước chưa tổ chức được những cơ quan thông tin kinh tế chuyên
ngành nhằm thông báo không chỉ giá cả mà còn có chức năng hướng dẫn, làm
cầu nối giữa cung- cầu về thông tin qua việc bán tin, bán những bộ số liệu khởi
thảo cũng như đã xử lý. Làm cho Cung- cầu gặp nhau và giảm đáng kể hình
thức lưu thông TLSX không trực tiếp đến người sản xuất. Các doanh nghiệp
nhờ đó có thể kết hợp các thông tin khác nhau mà quyết định sử dụng TLSX.
- Đối với các nhà sản xuất cũng như các tổ chức, cá nhân đăng ký kinh
doanh vật tư cần hoàn thiện dần qui trình nghiên cứu thị trường của mình. Sở
dĩ trong thòi kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung lưu thông rối loạn một
phần cũng do chính người sản xuất không nghiên cứu thị trường cẩn thận, mặt
khác, người kinh doanh TLSX cũng không có cách nắm chắc Cung- cầu hàng
mình kinh doanh. Điều đó tất yếu dẫn đến việc xuất hiện lớp người làm lưu
thông chỉ với mục đích kiếm lời nêu trên. Làm được việc này bản thân các
doanh nghiệp phải được trang bị đầy đủ kiến thức về thị trường đặc biệt là thị
trường TLSX cộng với kinh nghiệm đặc thù thực tiễn khi kinh doanh mỗi
ngành hàng.
- Về sở hữu nhà nước chưa có người chủ thực sự của tài sản đó theo
nghĩa chủ sở hữu. Đây là vấn đề phức tạp và không dễ giải quyết ngay.
Nguyên nhân không thể mua rẻ cũng chính từ vấn đề sở hữu sinh ra, thậm chí
sản xuất không cần có lãi (Lãi thực chứ không phải lãi giả) cũng xuất phát từ
vấn đề sở hữu.
16
1.3-/ Kinh tế thị trường và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất.
1.3.1. Kinh tế thị trường và vai trò của lưu thông.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó

sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai đều được quyết định thông qua thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các
doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Thái độ cư xử của các thành viên tham gia thị trưòng là hướng vào tìm kiếm
lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, đến lượt nó, cơ chế
thị trường tác động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi
trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của thị trường, cơ chế thị trường là hàng hoá tiền tệ,
người bán, người mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị
trường là quan hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự
do. Cơ chế này có một số đặc trưng sau:
-Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao
động, vốn được quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các
quy luật kinh tế.
-Hầu như tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều
được tiền tệ hoá.
- Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trường dùng lỗ lãi để quyết định
các vấn đề kinh tế cơ bản.
- Cạnh tranh là môi trường hoạt động của cơ chế thị trường, là yếu tố
thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất.
17
- Cơ chế thị trường không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự
kinh tế, trật tự này được hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của
thị trường.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của
hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường có khả năng duy trì được sự cân bằng
của sức cung và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và
thiếu thốn hàng hoá.
Quá trình tái sản xuất xã hội có liên quan mật thiết với sự tuần hoàn và

chu chuyển của vốn sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện ở lao
động xã hội trong những hình thức khác nhau của nó. Sự vận động của lao
động xã hội tạo thành nội dung các quá trình trao đổi phát sinh từ trong cơ cấu
của nền kinh tế quốc dân và nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường.
Do có mối liên hệ lẫn nhau trong quá trình chu chuyển vốn kinh doanh
nên đòi hỏi phải có sự trao đổi hoạt động giữa những người lao động, giữa
những tập thể sản xuất và các doanh nghiệp v.v. Trong nền kinh tế hàng hoá
việc trao đổi được thực hiện được thông qua mua bán trên thị trường. Thường
thì sự trao đổi các hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp mang tính chất trực
tiếp kỹ thuật còn sự trao đổi diễn ra giữa các doanh nghiệp mang tính chất lưu
thông hàng hoá. Rõ ràng lưu thông chỉ là một giai đoạn trao đổi nhất định bao
trùm một lĩnh vực các quan hệ sản xuất rộng lớn hơn.
Lưu thông hàng hoá phát sinh trong lĩnh vực lưu thông; Vậy lĩnh vực lưu
thông là gì? và thực chất là gì? Trước hết cần khẳng định lĩnh vực lưu thông là
lĩnh vực hoạt động mà dựa vào đó sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn kinh
doanh của doanh nghiệp được thực hiện. Nó cũng đòi hỏi có đối tượng lao
động và tư liệu lao động cho việc thực hiện hoạt động đó. Việc hoạt động bình
thường của lĩnh vực này, phù hợp với nhiệm vụ và chức năng xã hội của nó đòi
hỏi hình thành hệ thống các tổ chức kinh doanh như doanh nghiệp thương mại,
vận tải, kho vận, chuẩn bị hàng hoá v.v. Thông qua hệ thống này một khối
lượng hàng hoá khổng lồ, nhất là về tư liệu sản xuất được lưu chuyển.
18
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi mà chuyên môn hoá sản xuất
và phân công lao động xã hội phát triển cao độ thì hầu như mọi sản phẩm đều
được sản xuất và tiêu dùng dưới hình thức hàng hoá. Vì vậy, sự vận động của
một số lượng lớn sản phẩm xã hội từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh tiêu dùng đã
hình thành quá trình lưu thông. Trên thực tế, quá trình lưu thông chính là quá
trình hàng hoá không ngừng tách rời người sản xuất để tiếp cận với người
tiêu dùng, cũng chính là sự tổng hoà các hành vi chuyển nhượng phát sinh
giữa các chủ thể của thị trường khác nhau. Vì thế trao đổi là tế bào riêng biệt

và yếu tố cấu thành lưu thông. Do mâu thuẫn bên trong của quá trình trao đổi
sản sinh ra tiền tệ, cho nên trong lưu thông, một mặt là hiện tượng biểu hiện
trong lưu thông của một số lượng lớn hàng hoá, mặt khác là sự vận động của
tiền tệ ngược lại với phương hướng lưu thông hàng hoá. Sự tổng hợp các vận
động của tiền tệ trên phương hướng khác nhau đã hình thành lưu thông tiền
tệ. Vì vậy quá trình lưu thông trên thực tế là sự thống nhất của lưu thông hàng
hoá và sự lưu thông tiều tệ. Lưu thông hàng hoá quyết định lưu thông tiền tệ,
nhưng lưu thông tiền tệ lại có tác động ngược lại đến lưu thông hàng hoá nó
là chất kích thích lưu thông hàng hoá, thậm chí sự vận động của tiền tệ còn có
tác dụng hướng hàng hoá chảy về đâu.
Như vậy, lưu thông là một quá trình khách quan có liên hệ với sự vận
động của giá trị sản phẩm xã hội. Lưu thông là sự thay đổi hình thức giá trị
của hàng hoá. Dù là những hàng hoá dùng cho tiêu dùng sản xuất tiêu dùng cá
nhân thì cũng như thế. Bản chất của quá trình lưu thông hàng hoá là mua và
bán những hàng hoá này hay hàng hoá kia được thực hiện khác nhau. Điều
này là do đặc tính về công dụng của những hàng hoá ấy quyết định. Điều cần
nhấn mạnh ở đây là lưu thông hàng hoá là một quá trình thống nhất không
phụ thuộc vào công dụng của hàng hoá nhưng các hình thức tổ chức để
chuyển đưa đến tay người tiêu dùng lại khác nhau.
Vai trò của lưu thông trong nền kinh tế thị trường: Dưới góc độ vi mô,
lưu thông đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
19
nghiệp. Khi quá trình lưu thông kết thúc, tức là sản phẩm của doanh nghiệp
được tiêu thụ, là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu
cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp thể hiện ở mức bán
ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu
người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác lưu
thông hàng hoá phản ánh đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Lưu thông hàng hoá gắn giữa người sản xuất với người tiêu dùng, nó
giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu

của khách hàng.
Trên giác độ vĩ mô, lưu thông hàng hoá có vai trò quan trọng trong việc
cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với
những cân bằng, với những tương quan tỉ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra
được tiêu thụ (lưu thông) tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường,
trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng
thời lưu thông giúp các đơn vị, ngành, xác định phương hướng và bước đi của
kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Thông qua lưu thông hàng hoá có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã
hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ
sở đó các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm đạt
hiệu quả cao nhất.
1.3.2. Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường là quá trình hoạt
động kinh tế đưa sản phẩm vật tư sản xuất sang lãnh vực tiêu dùng. Nó là tên
gọi chung của hoạt động trao đổi vật tư sản xuất dùng cho sản xuất giữa các
hình thức kinh tế, các ngành kinh tế và giữa các doanh nghiệp. Vật tư lưu
thông là sản vật được xã hội phân công, nó phát triển theo sự phát triển của
phân công xã hội và sự phát triển của sản xuất. nó lấy sản xuất làm điểm khởi
20
đầu, lấy ngành sản xuất khác làm điểm kết thúc, đồng thời nó là cầu nối giữa
sản xuất và tiêu dùng mang tính sản xuất. Sản xuất quyết định lưu thông, lưu
thông lại tác động ngược lại sản xuất. quá trình lưu thông thông suốt, thúc đẩy
sản xuất phát triển nhanh. Ngược lại, quá trình lưu thông ngưng trệ sẽ ảnh
hưởng đến sản xuất. Quá trình đổi mới cơ chế kimh tế đã phá vỡ dần chế độ
lưu thông tư liệu sản xuất quá tập trung trước đây, thay đổi cách làm cũ không
hợp lý như: quá nhiều khâu lưu thông, cơ cấu tổ chức trùng lặp, kho bãi mọi
nơi, vận chuyển vòng vèo dựa vào các khu vực kinh tế để tổ chức lưu thông
tư liệu sản xuất hợp lý, tức là dựa vào các nhân tố như: phân bố sản xuất,
phân bố các xí nghiệp, quan hệ cung cầu, quan hệ sản xuất, quan hệ tiêu dùng,

giao thông vận tải phải thực hiện hợp lý hoá, khoa học hoá và tối ưu hoá lưu
thông vật tư. Từ đó, thông qua lưu thông tác động đến sản xuất. Trong nền
kinh tế thị trường thì thị trường, gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá,
thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất: Cần sản
xuất những hàng hoá gì? với số lượng bao nhiêu? cần có những dịch vụ gì?
đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Qua thị trường nhu cầu của cả
người sản xuất lẫn người tiêu dùng được thoả mãn. Người sản xuất cần bán
hàng, chuyển tiền thành những giá trị sử dụng khác nhau.
Như vậy, ta có thể thấy rõ thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao
đổi, mua bán hàng hoá, thị trường có tính không gian và thời gian, theo nghĩa
này thị trường có thể là các chợ, các địa danh hoặc các khu vực tiêu thụ phân
theo mặt hàng, ngành hàng.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu
thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở
rộng. Thị trường hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá
thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua
lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
21
Nếu nói đến thị trường, trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu
thành thị trường, đó là hàng và tiền, người mua và người bán, từ đó hình
thành các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua-bán, cung-cầu và giá cả hàng hoá.
Nói tới thị trường là phải nói tới cạnh tranh tự do, ở đây luôn diến ra sự
ganh đua, cọ sát lẫn nhau giữa các thành viên tham gia thị trường để giành
phần có lợi cho mình, động lực của cạnh tranh là lợi nhuận. Với động lực đó
trên thị trường khó tránh khỏi sự lừa gạt và gian lận.
Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh tự do mua bán, thuận mua
vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường là bình đẳng.
Theo lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường có thể chia thị trường
thành 2 loại:
Một là: Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, ở thị trường này, người

ta mua bán những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ như: lương thực, thực phẩm,
vải, quần áo, các phương tiện sinh hoạt gia đình, thuốc chữa bệnh vv. Những
hàng hoá tiêu dùng ngày càng nhiều theo đà tăng của sự phát triển kinh tế
hàng hoá. Ngoài những hàng hoá vật chất phục vụ tiêu dùng cho cá nhân và
gia đình, có những hàng hoá phi vật chất được coi là dịch vụ như: sửa chữa,
phương tiện đi lại, sửa chữa Rađio, tủ lạnh, may vá, cắt tóc, làm đầu các
hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển và đưa lại thu nhập ngày càng cao.
Hai là: Thị trường các yếu tố sản xuất: trên thị trường này người ta mua,
bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất và kinh doanh như các loại
nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, sức lao động
Sự phân chia thành 2 loại thị trường như trên là dựa trên cơ sở chủng
loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường và dựa vào sự mở rộng, phát triển
của chính phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở rộng ra tới đâu thì thị trường cũng
mở rộng ra tới đó.
22
Thị trường giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Thị trường là trung tâm, của toàn bộ quá trình tái sản xuất là lực lượng hướng
dẫn, đặt nhu cầu cho sản xuất.
Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo một
mối quan hệ nhất định, quan hệ tỷ lệ tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản
xuất, nếu như kỹ thuật tiên tiến thì với một lượng sức lao động nhất định sẽ vận
hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn. Để sản xuất, cần phải có các yếu tố của
sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó, bảo đảm cho quá
trình sản xuất của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường.
Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán, thị trường là nơi tiêu
thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp; thông qua thị trường, giá trị hàng
hoá được thực hiện, doanh nghiệp thu hồi được vốn và có lãi.
Như vậy doanh nghiệp là người mua các yếu tố của sản xuất và bán các
sản phẩm mình làm ra. Qui mô của việc mua vào và bán ra sẽ quyết định qui
mô của sản xuất. Nếu coi doanh nghiệp như một cơ thể sống thì thị trường là

nơi bảo đảm các yếu tố cho sự sống và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất
để sự sống tồn tại và phát triển. Trên ý nghĩa đó, thị trường chính là điều kiện,
là môi trường cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng về chủng loại hàng hoá cũng như
chất lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối
với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó có thể nói thị trường điều tiết sản xuất
kinh doanh và là động lực của sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường,
hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp ngày càng năng động, sáng tạo hơn,
hiệu quả của sản xuất kinh doanh ngày càng được nâng cao.
Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển những lao động tư nhân, lao
động cá biệt thành lao động xã hội.
Cung và cầu là khái quát hoá hai lực lượng cơ bản của thị trường là
người bán và người mua, người sản xuất và người tiêu dùng. Quan hệ cung cầu
chỉ ra rằng, mặc dù giá trị xã hội hay giá trị thị trường đã được hình thành trong
23
quá trình sản xuất song nó có thể được thực hiện cao hơn, thấp hơn hay ngang
bằng tuỳ theo tương quan cung cầu bằng một mức giá cụ thể. Quan hệ cung cầu
ảnh hưởng trực tiếp đến từng hành vi trao đổi. Trên thị trường, người sản xuất
đứng về phía cung và người tiêu dùng đứng về phía cầu gặp nhau để xác định
giá cả và khối lượng hàng hoá như bán ra, mua vào. Vì vậy cung- cầu giữ vai
trò quan trọng đối với việc hình giá cả thị trường và xác định lượng mua vào.
Cầu là số lượng hàng hoá và người tiêu dùng muốn mua và có khả
năng mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định(Các
yếu tố khác không đổi). Có 2 khái niệm liên quan là cầu cá nhân và cầu thị
trường. Cầu thị trường là tổng hợp của tất cả các cầu cá nhân lại với nhau theo
chiều ngang. Quy luật cầu được biểu hiện số lượng hàng hoá được cầu trong
khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá cả của hàng hoá giảm xuống và
ngược lại. Quy luật cầu tương ứng với trực giác, khi giá cả giảm xuống, người
tiêu dùng đã cho có thể sẵn sàng và có khả năng mua một lượng nhiều hơn và
các người tiêu dùng mới cũng sẵn sàng và có khả năng xâm nhập thị trường.

Giá cả của chính hàng hoá nào đó là yếu tố quan trọng, song không
phải là yếu tố duy nhất quyết định lượng hàng cần mua. Quyết định lượng nhu
cầu còn có nhiều yếu tố khác.Trên thực tế giá cả còn phụ thuộc vào các biến
số như: Thu nhập của người mua; giá cả của hàng hoá và dịch vụ có liên
quan; dự đoán về sự thay đổi của chính hàng hoá đó trong tương lai; thị hiếu
của người tiêu thụ.
Cung hàng hoá được định nghĩa là những số lượng khác nhau của cùng
một loại hàng hoá nhất định mà những người bán sẵn sàng và có khả năng
cung ứng ra thị trường ở mức giá khác nhau. Cung thị trường là tổng hợp của
tất cả các cung cá nhân.Quy luật về cung được biểu hiện, khi giá cả thị trường
tăng lên, người sản xuất thu được lợi nhuận họ sẽ mở rộng thêm sản xuất,
hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động và đưa ra thị trường nhiều sản
phẩm hơn, làm cho cung tăng lên. Ngược lại khi giá cả thị trường giảm
24
xuống, người sản xuất thu được lợi nhuận ít, hoặc không có lợi nhuận, họ sẽ
thu hẹp sản xuất, lượng sản phẩm được đưa ra thị trường vì thế sẽ ít hơn, vì
thế giá cũng sẽ giảm xuống. Ngoài giá bán hiện tại của sản phẩm lựơng hàng
hoá và dịch vụ tung ra thị trường còn phụ thuộc vào các yếu tố: thuế- thuế là
công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, thuế có ảnh hưởng đến đường cung của
doanh nghiệp vì rằng thuế là chi phí mà doanh nghiệp phải chịu. Khi đánh
thuế vào hàng hoá thì đường cung dịch chuyển; trình độ công nghệ có thể áp
dụng; giá của các hàng hoá liên quan trong sản xuất; giá của các yếu tố đầu
vào; số lượng người sản xuất
Kết hợp qui mô về cung và quy luật về cầu chúng ta sẽ hiểu về quy luật
cung cầu.
Theo quy luật cung- cầu thì hàng hoá sẽ được bán theo giá cả vừa phù
hợp với cung, lại vừa phù hợp với cầu.
Giá thị trường có xu hướng vận động xung quanh điểm cân bằng cung
cầu. Nếu giá cả lên cao điểm thì cung sẽ tăng lên, cầu sẽ giảm xuống. Điều
này làm xuất hiện dư thừa, dư thừa sẽ gây ra áp lực làm giá cả giảm xuống,

khi giá cả giảm thấp hơn điểm cân bằng cung cầu thì cung sẽ giảm và cầu lại
tăng lên.
Điều này,làm xuất hiện tình trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm là
điều kiện để nâng cao giá lên, giá cả có xu hướng vận động trở về điểm cân
bằng cung cầu.
1.3.3. Yêu cầu của tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh
tế thị trường
Phân tích ở tên cho thấy lưu thông là cầu nối giữa một bên là sản xuất
và phân phối, một bên là trao đổi. Các khâu của quá trình tái sản xuất, có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong đó, sản xuất là điểm xuất phát, là khâu quyết
định quá trình tái sản xuất. Do vậy, tổ chức lưu thông không thể đơn thuần là
25

×