Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

NHÓM BỆNH DO MÔI TRƯỜNG VÀ DINH DƯỠNG TRÊN TÔM CÁ NUÔI docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.72 KB, 8 trang )

NHÓM BỆNH DO MÔI TRƯỜNG VÀ
DINH DƯỠNG TRÊN TÔM CÁ NUÔI
+ Bệnh do thiếu Oxy: Mùa nước kiệt mực nước xuống
thấp, bức xạ mặt trời dễ dàng làm cho nhiệt độ nước tăng
cao, làm cho sự phân hủy chất hữu cơ trong môi trường
nước diễn ra nhanh hơn và quyết liệt hơn. Quá trình này đòi
hỏi phải tiêu tốn một lượng Oxy hòa tan trong nước rất lớn.
Đây là nguyên nhân gây thiếu Oxy cục bộ trong ao nuôi
cũng như trên các dòng chảy cạn. Cho nên cần phải theo
dõi nhiệt độ nước trên sông nơi neo đậu bè cũng như nhiệt
độ nước trong ao nuôi để tránh hiện tượng thiễu Oxy cục
bộ vừa nêu. Nhiệt độ thích hợp cho các loài cá nuôi bản địa
vùng ĐBSCL nằm trong khoảng: 26 - 30OC
+ Bệnh do tảo: Trong điều kiện nhiệt độ nước tăng cao
như đã nói trên quá trình phân hủy các vật chất hữu cơ
hoàn toàn sẽ tạo ra nhiều CO2:
Chính hàm lượng CO2 góp phần làm cho pH nước tăng lên
tạo điều kiện cho các loài tảo phát triển rất mạnh gây nên
hiện tượng “nở hoa nước” (nước ao và sông có nhiều váng
tảo màu xanh nổi trên mặt nước mà bà con hay gọi là
“trứng nước”). Các váng tảo này nổi trên mặt nước lại bị
bức xạ mặt trời làm cho chúng chết đi và lụi tàn dần để đi
vào chu trình phân hủy chất hữu cơ như đã nói trên. Mặt
khác trong quá trình nở hoa nước do các loài tảo phát triển
mạnh về số lượng cho nên vào ban đêm hiện tượng hô hấp
của các loài tảo có diệp lục tố sẽ xảy ra mãnh liệt làm tiêu
hao lượng Oxy hòa tan trong môi trường nước gây nên hiện
tượng thiếu Oxy vào khoảng 0H – 6H giờ sáng. Cá sẽ nổi
đầu trên tầng mặt rất nhiều để lấy Oxy từ không khí (đối
với các loài cá trắng) hoặc nhào lộn liên tục để đớp Oxy từ
khí trời (đối với cá tra, basa). Quá trình này làm cá suy yếu,


giảm sức đề kháng với bệnh tật và tạo điều kiện cho các tác
nhân cơ hội như ký sinh trùng và vi khuẩn xâm nhập gây
bệnh cho cá nuôi.
Nên cần lưu ý khống chế sự phát triển của tảo bằng cách
thay nước thường xuyên, cho ăn vừa phải tránh lượng thức
ăn dư thừa vô tình như động tác bón phân cho ao nuôi làm
cho môi trường nước trở nên “phú dưỡng”.
+ Bệnh do thiếu vitamin C: Vit C có tác dụng làm tăng
sức đề kháng cho cá, bảo vệ thành mạch máu, đồng thời
góp phần làm tăng khả năng hấp thu Canxi giúp các khớp
xương của cá rắn chắc hơn. Thiếu Vit C có thể gây nên các
bệnh hoại tử các tế bào máu, đối với các loài cá da trơn có
thể bị nứt xương trán do thiếu Vit C.
Định kỳ bổ sung Vit C cho cá nuôi với liều lương 20 - 30
mg/kg thức ăn, tuần cho ăn hai lần. Tùy theo loại Vit C trên
thị trường và hướng dẫn của nhà sản xuất mà có chế độ bổ
sung Vit C thích hợp.

BỆNH TRÊN TÔM CÀNG XANH
Một số bệnh thường gặp
1/ Bệnh đóng rong
Lý do của bệnh đóng rong là do Zoothamnium sp. hoặc các
loại Protozoa bám trên vỏ và mang tôm làm tôm stress nếu
bị nặng thường tôm sẽ không thể lột vỏ được. Nếu người
nuôi tôm không trị được thì sau này tôm sẽ từ từ bỏ ăn, yếu
đi và chết.
Nhận diện bệnh đóng rong và cách kiểm tra: Kiểm tra tôm
trong sàn ăn (vó), thấy vỏ tôm trơn giống như có nhớt bám
trên vỏ tôm và có nhiều khi thấy có rong / tảo bám trên vỏ
tôm,vỏ tôm không sạch. Kiểm tra trong phòng thí nghiệm

bằng Kính hiển vi sẽ thấy Zoothamnium sp. bám trên vỏ và
chân tôm. Sau khi bị nhiễm bệnh, tôm từ từ yếu đi, giảm
ăn, vào nằm vùi trong đống bùn ao. Nếu không trị tôm sẽ từ
từ chết vì nhiễm bệnh từ các vi khuẩn.
Cách trị bệnh: Giảm số lượng các chất hữu cơ trong ao
bằng cách thay nước (nếu có ao lắng nước). Giảm thức ăn
xuống từ 5 - 10 % trong một thời gian (để giảm chất hữu cơ
thừa). Dùng các vi sinh vật có lợi ích để phân hủy các chất
hữu cơ (Ví dụ: Bacillus subtilis 1070 hoặc BS-I). Dùng
Formalin (thuốc để diệt Zoothamnium sp. vào buổi tối).
Chú ý: Trong thời gian tôm đang bị bệnh nên trộn Vitamin
C vào thức ăn để giúp tôm giảm stress.
2/ Bệnh đen mang
Bệnh đen mang (có thể thấy màu vàng) thường có nguyên
nhân từ đáy ao nuôi không sạch, có chất hữu cơ nhiều.
Kiểm tra thấy khí độc (Ammonia) ở đáy ao cao vì có bùn
đáy ao nhiều, các chất hữu cơ thừa nhiều (từ thức ăn thừa -
do thức ăn nhiều tôm ăn không hết, từ tảo chết v.v ).
Thường phát hiện bệnh này trong ao nuôi thả tôm mật độ
cao, trong ao nuôi theo hệ thống không thay nước hoặc ít
thay nước. Ammonia sẽ làm ảnh hưởng tới mang tôm làm
mang có màu đen và nhiều khi có các chất hữu cơ hoặc vô
cơ vào trong mang tôm, nếu không xử lý sẽ làm tôm nhiễm
bệnh từ vi khuẩn. Bình thường bệnh đen mang xảy ra lúc
tôm lớn (tôm được hai tháng rưỡi tới ba tháng trở lên).
Cách xử lý: Thay nước ao (nên có ao xử lý nước trước khi
sử dụng nước). Dùng Granulite (Zeolite dạng hạt) để hấp
thụ các khí độc đáy ao mỗi 5 -7 ngày một lần. Có thể dùng
thêm kháng sinh theo đúng hướng dẫn kỹ thuật pha trộn với
thức ăn cho tôm để phòng trị bệnh từ vi khuẩn (nên dừng

sử dụng thuốc kháng sinh trước khi thu hoạch bốn tuần.
Dùng vi sinh vật (BS-I ) để giúp phân hủy chất hữu cơ .
Cách phòng bệnh: Quản lý việc cho thức ăn tôm cho tốt,
đừng để cho thức ăn thừa nhiều trong ao. Dùng loại thức ăn
chất lượng cao. Nên có ao lắng nước để xử lý nước và thay
nước khi thấy cần thiết (kiểm tra thấy Ammonia nhiều
hơn 0,1 ppm). Nếu không thể thay nước được nên dùng vi
sinh vật nói trên để giúp phân hủy chất hữu cơ đáy ao và
kết hợp với dùng Zeolite (loại có thể hấp thụ Ammonia
được như: Asahi Zeolite /Sitto Zeolite/ Granulite) để quản
lý chất khí độc trong và đáy ao nuôi.
3/ Bệnh đốm nâu hay Bệnh ăn mòn phụ bộ
Bệnh thường xảy ra sau khi nuôi 2-3 tháng trở đi, trên cơ
thể tôm xuất hiện các đốm màu nâu và sau đó chuyển sang
màu đen. Khi nhiễm bệnh, thường xuất hiện ăn mòn các
phần phụ như đuôi, chân bụng, râu, trên thân tôm.
Tôm bị bệnh sẽ rất yếu, hoạt động chậm chạp, con bị nặng
sẽ chết. Tác nhân gây ra bệnh chủ yếu do vi khuẩn
Aeromonas.
Phòng trị: Khi tôm bị bệnh thay dần nước ao. Kiểm soát
phòng ngừa bênh đốm nâu bao gồm: cải thiện môi trường
nuôi thông qua sự chăm sóc, quản lý và đầy đủ dinh dưỡng,
đáy ao phải bằng phẳng, tăng cường trú ẩn cho tôm, hạn
chế tối đa sự tụ tập của tôm chống hiện tượng ăn thịt lẫn
nhau bằng cách cung cấp đầy đủ thức ăn và giữ cho chất
lượng nước ao luôn tốt.

MỘT SỐ ĐIỀU LƯU Ý TRONG PHÒNG TRỊ BÊNH

- Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh,

sử dụng kháng sinh, hóa chất cấm theo Quyết định số
07/2005/QĐ-BTS ngày 24/2/2005 của Bộ trưởng Bộ Thủy
sản đặc biệt là Malachite Green trong suốt quá trình nuôi,
bảo quản và chế biến thủy sản.
- Hạn chế dùng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản. Sử
dụng thuốc, hoá chất phòng và trị bệnh thủy sản phải theo
hướng dẫn của cán bộ chuyên ngành.
- Để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng thuỷ
sản, người nuôi phải ngừng sử dụng thuốc trước khi thu
hoạch theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Tất cả các cơ sở kinh doanh thuốc thú y thủy sản khi bán
thuốc cho người nuôi phải kê toa, chứng từ rõ ràng và
hướng dẫn cho người nuôi biết, sử dụng đúng liều lượng và
thời gian điều trị.

Trần Anh Dũng, Chi cục Thủy sản An Giang (Website
SNN An Giang, 4/2005)

×