Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

THAM KHẢO VỀ BỆNH ĐỐM TRẮNG ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.54 KB, 11 trang )

THAM KHẢO VỀ BỆNH ĐỐM TRẮNG
Nuôi ghép tôm với các loài cá có khả năng ăn động vật
Tác giả đưa ra một khái niệm về một hình thức nuôi kết
hợp nhằm hạn chế sự bùng nổ của bệnh đốm trắng ở tôm sú
nuôi.
Từ tháng 7 năm 1994, hội chứng đốm trắng (WSS) gây ra
do virus hội chứng đốm trắng (WSSV) đã làm giảm đáng
kể sản lượng tôm nuôi dọc theo vùng ven biển phía Đông
và Tây ấn Độ. Hội chứng đốm trắng bùng nổ với tốc độ rất
nhanh trong nhiều hoàn cảnh và biểu hiện khác nhau, một
khi bệnh đốm trắng đã xuất hiện trong ao nuôi thì có rất ít
khả năng có thể cứu vãn tôm nuôi khỏi khả năng thất thu.
Trong những năm qua, một số chiến lược quản lý sự bùng
phát hội chứng đốm trắng ở tôm nuôi đã được thử nghiệm ở
ấn Độ. Biện pháp ngừng nuôi một thời gian giữa một hay
hai vụ nuôi đã không mang lại hiệu quả đáng kể. Mô hình
nuôi tôm trong những năm gần đây đã chuyển từ hình thức
nuôi trong hệ hở sang nuôi tôm ít thay nước với sự hỗ trợ
của các ao chứa lắng đã được sử lý clorine, nhằm hạn chế
sự bùng nổ của hội chứng đốm trắng, nhưng sự nhiễm
WSSV với tôm nuôi vẫn chưa được giải quyết.
Mặc dù tôm post đã được kiểm tra thường xuyên bằng
phương pháp PCR nhưng WSS vẫn xuất hiện kể cả ở tôm
đã được chứng nhận là không bị nhiễm WSSV. Biện pháp
giảm mật độ nuôi kết hợp với cho ăn thức ăn có chất lượng
cao và áp dụng các biện pháp quản lý chất lượng môi
trường nước tốt cũng không giúp ngăn chặn được sự phát
sinh WSS. Việc sử dụng các loại thuốc có tác dụng miễn
dịch, kháng sinh, thuốc có nguồn gốc thảo mộc và hoá trị
liệu cũng chỉ giúp một phần làm tăng cơ hội thành công
việc ương nuôi tôm ở một số vùng nhất định, nhưng cũng


không có tác dụng trong việc ngăn cản sự bùng phát của
hội chứng đốm trắng.
Gần đây, biện pháp nuôi luân canh được đề xuất là chiến
lược quản lý môi trường tốt hơn. Một biện pháp vệ sinh tốt
và làm gián đoạn chu trình phát sinh bệnh có thể giảm thiểu
những tác động của bệnh đối với nghề nuôi tôm. Việc xác
định rõ ký chủ của mầm bệnh, sự khác biệt ký chủ của từng
tác nhân gây bệnh, và sự khác biệt giữa các loài được sử
dụng trong hệ nuôi luân canh được xem là những ý kiến
đang được tranh luận như một biện pháp phòng ngừa bệnh
bằng phương pháp sinh học.
Cá rô phi và tôm được xem là hai đối tượng có thể dùng để
kiểm tra tác dụng vệ sinh môi trường cuả cá trong hệ nuôi
luân canh tôm - cá. Tuy nhiên, khi WSS xuất hiện thì ngay
cả mô hình này cũng không mang lại hiệu quả gì vì VWSS
có khả năng lây lan theo phương thẳng đứng, tôm khoẻ bị
lây virus từ tôm mắc bệnh mà không qua bất cứ yếu tố
trung gian nào. Yêu cầu đặt ra là cần có một chiến lược đặc
biệt quản lý WSSV. Điều này phải được dựa trên sự hiểu
biết yếu tố phát sinh và điều kiện bùng nổ WSS trong ao
nuôi.
Các điều kiện và cơ chế nhiễm VWSS với tôm nuôi đến
nay đã được hiểu rõ. Giai đoạn ủ bệnh với WSSV ở tôm
nuôi thường kéo dài trong vòng một vài tháng, giai đoạn
này không có bất kỳ một triệu chứng lâm sàng nào, tuy
nhiên sự phát triển sang giai đoạn phát bệnh có thể sảy ra
sau vài giờ trong điều kiện tôm nuôi bị sốc.
Thời gian chuyển từ giai đoạn ủ bệnh sang giai đoạn phát
bệnh ở tôm phụ thuộc vào một số yếu tố. Trong đó kích cỡ
tôm và sự xuất hiện của các yếu tố gây stress là hai nhân tố

rất quan trọng. Sự nhanh chóng chuyển từ giai đoạn ủ bệnh
sang giai đoạn phát bệnh khi có các yếu tố gây stress cho
thấy vai trò của stress trong sự bùng phát của WSS. Điều
này đặc biệt đúng trong những vùng có tỷ lệ nhỏ các ao
đầm có tôm nuôi đang ở trạng thái ủ bệnh nhưng chưa biểu
hiện triệu chứng bệnh lý.
Sự phát bệnh có thể được định nghĩa là một tỷ lệ lớn tôm
nuôi bị chết trong một khoảng thời gian ngắn khi bị nhiếm
WSSV. Sự bùng phát của bệnh xuất hiện là hệ quả của
mầm bệnh lây nhiễm trong vật chủ và trong môi trường
nước. Các khía cạnh làm mầm bệnh tăng một cách đột ngột
trong môi trường nước và vật chủ gây nên sự bùng phát
dịch bệnh cần được xem xét kỹ hơn. WSSV có tính hướng
vào các tế bào có nguồn gốc ngoại bì và trung bì, nhưng
không lây nhiễm vào các tế bào có nguồn gốc nội bì
(đường ruột và tuyến ruột). Do các tế bào có nguồn gốc nội
bì có phản ứng âm tính với WSSV, biện pháp loại trừ virus
thông qua loại trừ các chất thải do tôm sống thải ra là
không có tác dụng.
Kiểm tra các mô có tính hướng với WSSV cho thấy tôm
nuôi bị nhiễm virus ở các giai đoạn khác nhau dường như
không đóng góp virus để lây bệnh theo phương pháp ngang
(lây bệnh gián tiếp). Chính vì vậy, chỉ có các sự kiện trong
ao đầm, tiếp theo là tôm bị bệnh và chết là quan trọng. Hai
sự kiện quan trọng nhất có thể xảy ra là tôm còn khoẻ ăn
các tôm bị phát bệnh hoặc tôm chết và quá trình phân huỷ
của các tôm chết do đốm trắng là các nguyên nhân chính
của sự bùng phát virus và dịch bệnh trong ao nuôi tôm.
Các chiến lược can thiệp nhằm ngăn chặn sự bùng nổ bệnh
đốm trắng ở một vùng cần tập trung vào tôm ở giai đoạn

đang bị bệnh Cần ngăn chặn hiện tượng các tôm khoẻ ăn
phải các tôm đã bị nhiễm virus và hiện tượng phân huỷ khi
các tôm này bị chết.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng một giả thiết rằng WSSV là một
loại đặc trưng riêng và xảy ra ở tôm ở mức độ thấp. Chỉ khi
trong những hoàn cảnh nhất định (stress), những tôm bị
nhiễm, có hình thái khoẻ mạnh bình thường, mới chuyển
sang giai đoạn phát bệnh. Tôm mắc bệnh bị yếu và chết là
những dấu hiệu đầu tiên của sự bùng nổ dịch bệnh. Trong
suốt thời gian phát bệnh, sự tiêu thụ thức ăn tổng hợp giảm
đột ngột. Trong cùng thời gian này quan sát thấy các dải
phân của tôm có màu đỏ trong các khay kiểm tra (quan sát
cá nhân). Điều này chỉ ra rằng những con tôm khoẻ trong
ao đã ăn những tôm đã bị yếu hoặc tôm chết do bệnh.
Những con tôm khoẻ mạnh trong ao rất thích ăn những tôm
sắp chết do nhiễm bệnh thay vì ăn thức ăn nhân tạo và
nhanh chóng bị lây nhiễm virus do ăn phải tôm bệnh. Tôm
là loại động vật ăn chậm và trong quá trình ăn chúng xé
nhỏ những tôm bị chết bệnh. Điều này làm hàng triệu mảnh
vụn có nhiễm virus phát tán ra môi trường tạo cơ hội lây
nhiễm sang những tôm khác qua con đường gián tiếp. Theo
ý kiến của các tác giả, sự bùng nổ hội chứng đốm trắng của
tôm nuôi trong ao đầm là hậu quả của quá trình tôm khoẻ
ăn phải những tôm yếu và chết do nhiễm bệnh đốm trắng.
Sự yếu đi và chết của một số ít tôm bệnh là nguyên nhân
lây lan và bùng nổ dịch bệnh trong quần đàn tôm nuôi.
Có hai giải pháp có thể áp dụng nhằm ngăn chặn sự bùng
nổ của hội chứng đốm trắng ở khu vực có bệnh. Giải pháp
thứ nhất là quản lý các nguyên nhân gây stress. Phương
pháp này cần xác định rõ và ngăn chặn các nhân tố gây nên

sự chuyển từ trạng thái ủ bệnh của tôm nuôi sang trạng thái
phát bệnh. Các nhân tố này có sự khác biệt giữa các vùng
nuôi cũng như giữa các ao nuôi khác nhau. Theo kinh
nghiệm của chúng tôi, một số nhân tố liên quan đến ao nuôi
như : Mưa trái mùa, những ngày trời nhiều mây, tảo nở
hoa, v.v đều liên quan đến sự bùng nổ của bệnh. Chính vì
vậy, quản lý được hết các nhân tố gây stress liên quan đến
sự bùng nổ của hội chứng đốm trắng ở tôm nuôi là rất khó
khăn.
Giải pháp thứ hai là loại trừ những tôm yếu và chết do bị
nhiễm bệnh ra khỏi ao đầm nuôi càng nhanh càng tốt trước
khi những tôm khoẻ ăn phải tôm bị bệnh này.
Hàng loạt những biện pháp đã được thử nghiệm nhằm loại
trừ những tôm bị yếu do nhiễm bệnh ra khỏi ao đầm. Biện
pháp dùng tay nhặt những tôm bị chết ở ven bờ, lặn và nhặt
bỏ tôm chết, xử lý formaline và loại bỏ tôm yếu đã được
thử nghiệm. Mỗi biện pháp có những hạn chế về cách thức
tiến hành và chi phí nhất định. Dựa trên những cơ sở này,
chúng tôi đề xuất mô hình dùng các loài cá ăn động vật để
loại bỏ các tôm bệnh khi chúng đã bị yếu.
Hệ thống này cần phải làm việc một cách liên tục. Mô hình
sẽ loại trừ khỏi ao nuôi thật nhanh nguồn mầm bệnh (tôm
bị nhiễm bệnh). Theo phương cách này, sự lây truyền bệnh
do tôm khoẻ ăn phải tôm bệnh và lây lan qua môi trường
nước được hạn chế một cách đáng kể.
Một câu hỏi rất giá trị là lựa chọn loài/những loài cá nuôi
nào thích hợp cho mô hình nuôi kết hợp này. Đây phải là
những loài cá có khả năng ăn động vật và không săn đuổi
tôm khoẻ trong ao nuôi. Các loài cá này phải có khả năng
lựa chọn, bắt và nuốt các tôm đã bị yếu hoặc chết thay vì

rỉa những con tôm này. Loài cá có khả năng ăn đáy được
cho là phù hợp. Mật độ cá thả, cỡ cá thả là những yếu tố
chính quyết định mô hình đối với loài cá đã được xác định.
Có thể thả cá với kích cỡ phù hợp tại bất kỳ thời điểm nào
trong chu trình nuôi khi thấy thích hợp. Một điều cần đề
cập ở đây là thông thường thấy tôm thu hoạch với năng
suất cao luôn đi kèm với kết quả cá nuôi thu hoạch có nhiều
kích cỡ khác nhau kể cả cá ăn động vật. Sự có mặt của cá
nuôi trong ao không ảnh hưởng đến lượng tôm thả như dự
kiến. Tỷ lệ sống của tôm nuôi đạt trên 80% đã được ghi
nhận ở những ao nuôi tôm kết hợp với cá chẽm (Lates
calcarifer) với số lượng đáng kể (quan sát cá nhân). Giả
định rằng cá ăn động vật loại trừ những tôm bị bệnh có
trong ao, điều cần thiết là phải kiểm tra phân của cá nuôi có
bị nhiễm bệnh hay không.
Sự thành công đã được thấy ở những hệ thống nuôi kết hợp
sử dụng cá ăn tạp như cá rô phi kết hợp với tôm nuôi ở các
nước như Ecuađo và Inđônêxia, các nông dân đã nuôi cá rô
phi kết hợp với tôm trong ao đầm và đã giảm được những
thiệt hại do hội chứng virus Taura (Taura Syndrome Virus
TSV) và cải thiện tốc độ tăng trưởng.
Khả năng cá rô phi ăn các tôm bị yếu và chết do nhiễm
TSV và vì vậy hạn chế những rủi ro lây nhiễm qua con
đường ăn uống của tôm nuôi, điều này đã được tranh luận
là có tác dụng nâng cao sức tăng trưởng của tôm nuôi trong
hệ thống nuôi kết hợp.
Ngoài lợi ích này, hình thức nuôi kế hợp với cá như cá rô
phi cũng đã cho thấy có những tác dụng tích cực khác trong
cải thiện chất lượng nước, đáy ao v.v Một loài cá ăn tạp
như cá rô phi có tác dụng tích cực, nhưng không có đủ khả

năng đáp ứng hết những yêu cầu nhằm ngăn chặn sự bùng
phát của WSS. Khi ăn các tôm yếu và tôm chết do bị nhiễm
bệnh, cá rô phi thường rỉa con mồi và điều này sẽ dẫn đến
sự phân rã của tôm bệnh, đây là điều không mong đợi.
Các bằng chứng gần đây của một nghiên cứu dịch tễ đã cho
những kết quả rất thú vị. Kết quả điều tra 3951 nông trại
nuôi tôm ở 13 nước châu á đã cho thấy ở các nông trại nuôi
tôm kết hợp có tỷ lệ nhiễm bệnh thấp hơn.
Các nông dân ở nhiều nước trên thế giới kể cả Ấn Độ đã sử
dụng một khoản kinh phí lớn nhằm ngăn ngừa và quản lý
WSS. Chúng tôi cảm nhận rằng giải pháp dùng sự can thiệp
sinh học sử dụng cá ăn động vật nhằm loại trừ những tôm
yếu và tôm chết do nhiễm bệnh nhằm ngăn chặn sự lây
nhiễm của tôm bị bệnh sang tôm khoẻ là một sự khám phá
có ý nghĩa ở cả hai mức độ thực tiễn và trong phòng thí
nghiệm của các nhà khoa học trong sự nỗ lực phối hợp
nghiên cứu. Tìm ra loài cá thích hợp cũng như các yêu cầu
khác về kỹ thuật nuôi kết hợp sẽ đem lại thắng lợi cho biện
pháp mới này.
Aquaculture Asia số VI (1)
tháng 1-3/2001 B.T.T

×