Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số môn thể thao thi đấu trong Đại hội thể thao Đông Nam Á năm 2011 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.19 KB, 6 trang )

Một số môn thể thao thi đấu trong Đại
hội thể thao Đông Nam Á năm 2011
1. Cử tạ là một môn thể thao trong đó người tham dự phải thực hiện một cú đẩy với trọng
lượng tối đa của một thanh gậy được gắn với những tấm đĩa trọng lượng.
Phân loại
Hiện nay có hai kiểu đẩy trong bộ môn cử tạ là cử giật và cử đẩy.
 Cử giật là đưa tạ lên đầu,
 Cử đẩy là đưa tạ vào ngực rồi mới đẩy lên đầu.
Trong thi đấu
Khi thi đấu trọng tài gồm ba người ngồi ba phía trước mặt vận động viên. Khi hoàn thành
động tác trọng tài thổi còi để vận động viên thả tạ. Động tác hoàn thành chỉ khi vận động
viên nhấc được lên đầu và đứng dậy. Thả tạ khi chưa có hiệu lệnh còi của trọng tài cũng
phạm quy, nhấc được lên đầu khi tay cong cũng phạm quy.


Một vận động viên Iraq với thanh tạ 180kg.

2. Shōrinji Kempō (少林寺拳法, âm Hán Việt: Thiếu Lâm Tự Quyền Pháp) là một
trong chín môn võ thuật lớn của Nhật Bản (theo nhận định của tổ chức Nippon Budōkan -
Nhật Bản Võ Đạo Quán) và là một chi phái của võ Thiếu Lâm, do Sō Dōshin (tên thật là
Nakano Michio) sáng lập vào năm 1947 trên cơ sở môn Kungfu của Trung Quốc (người
Nhật gọi môn này là kempo).
Nakano Michio vốn được lục quân Nhật Bản gửi sang Trung Quốc học võ để về xây
dựng lực lượng đặc công của Nhật. Tại Trung Quốc, Nakano được Trần Lương, một cao
thủ Kungfu của Nghĩa Hòa Đoàn nhận làm đệ tử và đặt cho tên Tôn Đạo Thần (âm Hán-
Nhật là Sō Dōshin). Sau khi bị điều tới vùng Đông Bắc Trung Quốc, Sō Dōshin tiếp tục
học võ từ Văn Thái Tôn, sư phụ đời thứ hai mươi của Bắc Thiếu Lâm Nghĩa Hòa Môn
Quyền.
Sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh năm 1945, tinh thần người Nhật suy sụp
ghê gớm. Để góp phần động viên tinh thần cho người Nhật, Sō Dōshin lập ra môn võ
Shōrinji Kempō.


Từ Nhật Bản, môn võ này đã được phổ biến ra thế giới. Tại Đại hội thể thao Đông Nam
Á XXIV tổ chức năm vào năm 2007 tại Thái Lan, Shorinji Kempo đã được đưa vào làm
một môn biểu diễn.

3. Điền kinh là môn thể thao tổng hợp bao gồm đi bộ, chạy các cự li, nhảy cao, nhảy xa,
ném lao, ném đĩa, ném búa, ném lựu đạn, đẩy tạ và nhiều môn phối hợp khác. Cơ sở của
môn điền kinh chính là các động tác tự nhiên có tác dụng phát triển toàn diện về thể lực
và tăng cường sức khỏe. Chính vì vậy, điền kinh được xem là rất quan trọng trong giáo
dục thể chất cũng như trong chương trình tập luyện vì sức khoẻ của mọi người. Tại các
kỳ thi đấu thế vận hội, điền kinh cũng là nội dung quan trọng hàng đầu. Nó xuất hiện
ngay từ những kỳ thế vận hội cổ đại. Ngoài thi đấu điền kinh tại Thế vận hội, trên thế giới
còn nhiều giải điền kinh khác.
[1]

 Đi bộ thể thao
Đặc điểm cơ bản của kĩ thuật đi bộ thể thao là suốt quá trình đi, cơ thể không được bay
trên không mà luôn luôn có một hoặc cả hai chân cùng chạm đất và từ khi chân chống
trước đến khi kết thúc đạp sau, chân phải luôn giữ thẳng. Tập luyện và thi đấu đi bộ có
thể tiến hành được trên mọi loại đường khác nhau. Đi bộ có thể không đi theo cự li mà đi
theo thời gian.
 Chạy:
Gồm có:
 Chạy cự li ngắn 100m; 200m; 400m.
 Chạy cự li trung bình (gồm các cự li 500m đến 2000m, trong đó môn Chạy 800m
và 1500m là nội dung thi trong Đại hội thể thao Ôlympic).
 Chạy cự li dài (gồm các cự li từ 3000m đến 30000m, trong đó môn Chạy 3000m
(nữ), 5000m (nam) và 10.000m (nam) là nội dung thi trong Đại hội thể thao
Ôlympic.



Chạy 400 mét nữ
4. Thuyền buồm được hiểu đơn giản là 1 chiếc thuyền chạy bằng sức gió nhờ vào 1 bộ
phận gọi là buồm. Con người đã bắt đầu biết sử dụng thuyền buồm ngay từ buổi đầu của
nền văn minh. Người La Mã cổ đại là những người đầu tiên gắn những lá buồm vào con
thuyền chèo để kết hợp cả hai loại năng lượng sức người và sức gió.
Ngày nay,thuyền buồm được sử dụng ở mọi nơi trên thế giới. Ở các quốc gia phương tây
như Mỹ, Úc, Newzealand, và các nước châu Âu, môn thể thao thuyền buồm rất được ưa
chuộng. Ở châu Á, Hồng Kông, Singapore, và Thái Lan cũng có rất nhiều thuyền buồm.
Riêng ở Việt Nam ta, kể từ ngày động cơ diesel xuất hiện, thì những con thuyền buồm
cũng càng lúc càng ít đi. Chỉ có ở Hạ Long, người dân vẫn dùng thuyền buồm để đánh
bắt hải sản và kinh doanh du lịch.
Cấu tạo
Thuyền buồm gồm có các bộ phận chính:
1. Thân thuyền (Hull)
Thân thuyền thường được làm từ gỗ, sắt, nhôm, nhựa polyester, nhựa Epoxy. Nhôm là
vật liệu tốt nhất để đóng thuyền, nhưng giá rất cao, vì thế sắt và nhựa được dùng nhiều
hơn. Tuy nhiên,để đóng những con thuyền nhỏ dưới 10 m, người ta thường dùng ván ép
bọc nhựa Epoxy vì giá rẻ và độ bền cao. Gỗ cũng là loại vật liệu rất tốt để đóng thuyền,
đặc biệt là những chiếc du thuyền sang trọng. Lợi thế của gỗ là nó nhẹ, đẹp, cách âm tốt,
và nó rất thích hợp để đóng những chiếc thuyền buồm mang phong cách truyền thống.
Tại Việt Nam các thuyền buồm xưa của ngư dân ven biển dài 12 m thường dùng nan cật
tre, đang lại thành tấm có diện tích 12 m X 6,5 m xong "lận" (kết cấu lại) bằng 2 nẹp gổ
diện tích 15 m X 25 cm,hai tấm hoặc ba tấm ván gổ chò chỉ, bằng cách khoan lổ cấy chốt
bằng gốc tre ghép 2 tấm lại với nhau,cuối cùng dùng dầu rái và phân bò sơn lên tám nước
sơn, 4 nước đầu là phân bò pha nước cho có độ sền sệt như hồ, phơi thật khô xong sơn
lên 4 nước dầu rái cho không thấm nước cả hai mặt, còn hai tấn ván ghép lại người ta
trộn chai chò giả nhỏ mịn trộn chung với cật tre đập dập thành sợi phơi khô,để nhét vào
khe hở ghép nối,loại thuyền buồm này không có long cốt, để vào vung đảo hoàng sa đánh
cá không bị mắc cạn, chỉ có ống lô đặt bánh lái sau đuôi, bánh lái trước mủi thuyền,phía
bên trong lòng thuyền người ta dùng đà gổ đẻo củng bằng cật tre chống ngang từ bên nầy

sang bên kia cho chắc lòng thuyền,sau đó bắt đà gổ 10 cm X 10 cm làm sườn gia cường
để lót 2 lớp ván mỏng 2 cm,mổi lớp cách nhau 65 cm, phía trước, giửa có mui che mưa
nắng củng đang bằng tre và củng sơn như dưới lòng thuyền và phía sau thuyền .
2. Long cốt (Keel):
Là bộ phận quan trọng, nằm ở dưới đáy thuyền theo trục dọc, kéo dài từ trước ra sau. Nó
đóng vai trò như xương sống của 1 con thuyền. Bắt đầu từ trục xương sống này, người ta
sẽ gắn vào những mảnh xương sườn (tức là công đà), để hình thành nên bộ khung của
con thuyền. Long Cốt chính là điểm tựa để từ đó người ta gắn vào các bộ phận khác, nó
còn có tác dụng "chẻ nước", giúp con thuyền tiến thẳng về phía trước thay vì dạt sang hai
bên.
Đối với các loại thuyền chèo hoặc thuyền máy, đôi khi người ta không dùng Long Cốt,
nhưng đối với thuyền buồm thì nó là bộ phận không thể thiếu. Long Cốt của thuyền
buồm thường sâu hơn rất nhiều so với thuyền máy, và đôi khi người ta còn đổ chì vào 1
đoạn Long Cốt để tăng thêm trọng lượng làm cho con thuyền hoạt động vững vàng hơn
và không bị lật. Tuy nhiên ở 1 số thuyền buồm nhỏ người ta không muốn có Long Cốt
sâu, vì nó sẽ cản trở con thuyền khi đi vào những vùng nước cạn. Để khắc phục điều đó,
người ta đã phát minh ra các loại Long Cốt giả (Center board). Long Cốt giả có thể được
kéo lên khi thuyền đi vào vùng nước cạn, và hạ xuống khi đi vào vùng nước sâu.
Có 2 loại Long Cốt giả: Loại có thể kéo lên bằng cách bật về phía sau được gọi là "Center
Board", loại còn lại có thể kéo thẳng lên được gọi la "Dagger Board".
3. Bánh lái (Rudder)
Là bộ phận nằm ở phía sau chót của con thuyền. Nếu Long cốt là bộ phận giúp con
thuyền giữ thăng bằng để tiến về phía trước, thì bánh lái lại giúp ta điều khiển hướng đi
của con thuyền. Thông thường, bánh lái gồm 2 bộ phận chính là bánh lái và tay lái. Tuy
nhiên ở 1 số con thuyền, người ta không dùng tay lái mà dùng vô lăng để lái.
4. Buồm (Sail)
[sửa] Phân loại
1. Sloop
2. Fractional Rig Sloop
3. Cutters

4. Catboats
5. Ketches
6. Schooner
7. Yawl
8. Dhoni
9. Dinghy

×