Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Xu hướng của nền công nghệ kinh doanh potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186 KB, 26 trang )

Xu hướng của nền công nghệ kinh doanh
Tám xu hướng mới nổi lên này đang làm biến đổi các thị
trường cũng như các doanh nghiệp. Các chuyên viên nên
học hỏi để định hướng cho đầu ra của mình hơn là chỉ đối
phó lại điều đó. Bởi một mình nền công nghệ không thể
đóng vai trò quyết định cho việc thay đổi giá trị nền kinh tế
được mà chính việc các công ty tạo ra sự giàu có thật khi
họ kết hợp nền công nghệ với những cách thức mới trong
hoạt động kinh doanh mới làm nên điều đó.
Thông qua công việc và nghiên cứu của mình, chúng tôi
vừa xác định được tám xu hướng cho phép nền công nghệ
có thể sẽ giúp các doanh nghiệp định hướng được và cho cả
nền kinh tế trong những năm sắp tới. Những xu hướng này
được chia ra làm ba vùng hoạt động kinh doanh chính bao
gồm: quản lý các mối quan hệ, quản lý vốn và tài sản, và
cuối cùng là tiếp nhận được thông tin theo những cách mới.
Quản lý các mối quan hệ



1. Phân bố việc cùng sáng tạo


Internet và những công nghệ liên quan đã đưa cho các công
ty những cách hoàn toàn mới nhằm thu hút được khả năng
làm việc của những nhà cải cách mà không phải bận tâm
tới các ranh giới hợp tác. Ngày nay, trong nền công nghệ
cao, sản phẩm người tiêu dùng, và các lĩnh vực tự động,
cùng cả những cái khác, các công ty luôn luôn lôi kéo các
khách hàng, các nhà cung cấp, các doanh nghiệp chuyên
môn nhỏ và cả những nhà thầu độc lập vào việc sáng tạo


cho các sản phẩm mới. Bởi chính những người không có
chuyên môn lại thường đưa ra những nhận xét sáng suốt có
thể giúp cho việc định hướng phát triển sản phẩm, còn
trong khi các công ty lại chủ yếu kiểm soát quá trình đổi
mới. Nền công nghệ ngày nay cho phép các công ty giao
phó được việc kiểm soát quan trọng cho những người bên
ngoài – việc cùng sáng tạo – thực chất là việc thuê các đối
tác kinh doanh bên ngoài có thể làm việc cùng nhau qua
các mạng lưới để đưa ra được sự cách tân. Nhờ việc phân
bố sự cách tân thông qua chuỗi giá trị, các công ty có thể
giảm được chi phí và tiếp thị những sản phẩm mới của
mình ra thị trường nhanh hơn bằng cách loại bỏ được
những nút cổ chai có thể xảy ra do việc kiểm soát toàn bộ.

Nội dung phần mềm hay bản thảo chính là kết quả đối với
kiểu cải cách không tập trung, ví dụ như hệ điều hành
Linux được phát triển qua Internet bởi một mạng lưới các
chuyên gia, và các công ty thì đều có thể tạo ra được hàng
hóa vật chất bằng chính cách này. Như hãng Loncin, một
hãng sản xuất xe máy hàng đầu của Trung Quốc, vừa thiết
lập bảng các đặc tả cho các sản phẩm và sau đó để cho các
nhà cung cấp của hãng làm việc với nhau nhằm thiết kế các
thành phần, đảm bảo được mọi thứ được lắp ráp khít với
nhau và giảm được chi phí. Trước đây, hãng Loncin đã
không mở rộng việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm
quản lý cộng đồng nhà cung cấp – đây là một phương pháp
phản ánh được thực tế hoạt động kinh doanh ở Trung
Quốc và trên thị trường công nghiệp nói riêng. Nhưng
những tiến bộ gần đây theo các tiêu chuẩn mở dựa vào máy
vi tính (ví dụ như các chương trình máy tính hỗ trợ thiết kế

làm việc cùng các loại phần mềm khác rất tốt) đang làm
cho việc đồng sáng tạo hàng hóa vật chất trở nên dễ hơn
đối với những chuỗi giá trị phức tạp hơn trong các thị
trường cạnh tranh.

Nếu phương pháp cách tân này đang ngày được chấp nhận
rộng rãi thì ảnh hường của nó đối với các công ty và các
ngành kinh doanh có thể sẽ trở nên quan trọng. Ví dụ,
chúng tôi ước tính rằng chỉ riêng nền kinh tế Mỹ cũng xấp
xỉ 12% hoạt động của tất cả các phòng thí nghiệm có thể sẽ
bị biến đổi nhờ các phương pháp cách tân được phân bố và
lập thành mạng lưới nhiều hơn – từ đó sẽ làm giảm bớt
được giá trị hoạt động quản trị và luật pháp, mà tài sản về
trí tuệ thường liên quan tới việc tái cơ cấu hoặc loại bỏ bớt
một số công việc nghiên cứu và phát triển truyền thống.

Các công ty đang theo đuổi xu hướng này sẽ ít kiểm soát
hơn qua sự đổi mới song tài sản về trí tuệ cũng vì thế mà sẽ
ít đi. Và như vậy các công ty cũng sẽ phải cạnh tranh để thu
hút được sự chú ý và thời gian của những người cộng tác có
khả năng lớn và tốt nhất.

2. Việc coi những người tiêu dùng cũng như các nhà cải
cách

Những người tiêu dùng cũng cùng sáng tạo vói các công ty;
từ điển bách khoa trực tuyến Wikipedia là một ví dụ có thể
được xem như một dịch vụ hoặc sản phẩm được tạo ra nhờ
chính những khách hàng được phân bố của nó. Nhưng cách
mà các công ty cùng sáng tạo với các đối tác lại là hoàn

toàn khác so với cách cùng sáng tạo với các khách hàng,
những sự khác biệt đó được thể hiện rõ đến nỗi mà cách
cùng với người tiêu dùng thực sự là một xu hướng riêng
biệt. Bởi những sự khác biệt đó bao gồm cả bản chất và
phạm vi của những tác động, tình trạng kinh tế của việc tạo
cho những tác động đó hoạt động và cả những thách thức
quản lý kết hợp với những tác động đó.

Ngay cả việc Internet vừa được tiến triển – sự tiến triển
được thúc đẩy một phần nhờ các công nghệ Web 2.0 mới –
thì nó cũng đã trở thành một nền tảng phổ biến hơn cho
việc tương tác, truyền thông và cả sự tích cực. Còn những
người sử dụng thì ngày càng muốn làm việc trực tuyến
cùng với người khác cũng như với các tổ chức của tất cả
các lĩnh vực. Và như thế thì các công ty có thể áp dụng
hình thức ràng buộc khách hàng mới này cho lợi ích kinh tế
của họ.

Chẳng hạn như OhmyNews là một trang báo được viết trực
tuyến phổ biến ở Hàn Quốc bởi sự đóng góp của hơn 60000
“cư dân phóng viên”, và nó nhanh chóng trở thành một
trong những phương tiện truyền thông có thế lực nhất Hàn
Quốc với khoảng 700000 lượt xem một ngày. Một công ty
khác cũng đã có một cách ràng buộc các khách hàng của
mình, đó là với cửa hàng quần áo trực tuyến Threadless, họ
yêu cầu mọi người gợi ý cho những mẫu thiết kế mới về áo
phông ngắn tay. Vì vậy mà mỗi tuần, hàng trăm người tham
dự đã đưa ra những ý tưởng và cộng đồng đó đã tổ chức
những cuộc bỏ phiếu lớn cho những mẫu được yêu thích.
Cứ như vậy, từ bốn đến sáu mẫu thiết kế hàng đầu sẽ được

in lên những chiếc áo phông và được bán trong cửa hàng,
còn những người chiến thắng thì sẽ được nhận những giải
thưởng bằng tiền mặt cùng với chứng nhận của cửa hàng.
Và tới tháng chín năm 2007, Threadless đã mở công ty
kinh doanh bán lẻ đầu tiên của mình ở Chicago.

Những công ty lôi kéo các khách hàng vào việc thiết kế,
kiểm tra, tiếp thị (ngay cả việc tiếp thị lan truyền) hay cả
quá trình sau bán hàng nhằm để có được những hiểu biết
sâu sắc hơn về các nhu cầu và hành vi khách hàng của mình
cũng như có thể có khả năng giảm chi phí nhằm thu hút
được các khách hàng thì cần phải có sự chân thành hơn nữa
và phải tăng tốc được các chu trình phát triển. Bởi một
công ty công khai cho phép các khách hàng giúp mình cách
tân thì phải khẳng định được rằng điều đó hoàn toàn được
tác động chính đáng qua việc lượm lặt thông tin từ chính
nhu cầu của khách hàng. Thế nhưng công ty đó cũng phải
đề phòng được việc tập trung vào những nhu cầu trước mắt
hơn là lâu dài của khách hàng và phải cẩn thận tránh việc
gia tăng nhanh để rồi sau đó chìm dần vào quên lãng của
chính những người mong chờ nó.

3. Gia nhập vào thế giới nhân tài

Do càng ngày càng nhiều công việc tinh vi được thực hiện
trực tuyến tương tác cùng những công cụ cộng tác và
truyền thông mới xuất hiện mà các công ty có thể ngày
càng tăng việc gia công những phần công việc chuyên biệt
của mình và vẫn duy trì được sự liên kết về tổ chức. Tuy
rằng nền công nghệ cho phép các công ty phân bố được sự

cách tân thông qua các mạng lưới hoặc các khách hàng
nhưng nó cũng khiến các công ty phải chia công việc thành
nhiều phần hơn theo các nhóm như chuyên gia, người
không bị ràng buộc công việc và cả mạng lưới nhân tài.

Nhân tài xuất sắc cho một phạm vi hoạt động – từ tài chính
tới tiếp thị hay từ công nghệ thông tin tới điều hành – đều
có thể được tìm thấy ở bất kỳ đâu. Người tốt nhất cho một
công việc có thể là một người không bị ràng buộc công
việc ở Ấn Độ hoặc là một nhân viên của một công ty nhỏ ở
Ý hơn là một ai đó làm việc cho một nhà cung cấp các
dịch vụ kinh doanh toàn cầu. Các công nghệ phần mềm
và Internet đang làm cho điều này trở nên dễ dàng hơn còn
các công ty mất ít chi phí hơn nhằm hòa nhập và quản lý
được công việc của số người gia công đang được mở rộng,
cũng chính việc phát triển này đã mở ra nhiều lựa chọn ký
kết cho các nhà quản lý về trách nhiệm chung.

Ý nghĩa của viêc chia nhỏ công việc ra cho các cộng tác
viên đang được quan tâm bởi lý do các mô trình triển khai
nhân tài mới đã trỗi dậy. Chẳng hạn như TopCoder, một
công ty vừa tạo ra một mạng lưới các nhà phát triển phần
mềm, chính là một mô hình như vậy. TopCoder đưa cho
những tổ chức muốn có phần mềm do công ty phát triển
quyền truy cập vào mạng lưới nhân tài của mình. Lúc này,
các khách hàng chỉ cần trình bày kiểu phần mềm họ muốn
và đưa ra giá cho những người phát triển giỏi nhất về loại
phần mềm đó – phương pháp tiếp cận này đỡ tốn chi phí
hơn việc thuê những kỹ sư có kinh nghiệm. Hơn nữa,
những thay đổi về bản chất của các mối quan hệ lao động

có thể dẫn tới những mô hình trả giá mới làm thay đổi các
hình thức thanh toán từ trả khoán sang trả tương xứng theo
kết quả.

Xu hướng này nên được đưa ra trong các lĩnh vực như phần
mềm, tư vấn chăm sóc sức khỏe, các dịch vụ chuyên nghiệp
và cả bất động sản, những lĩnh vực mà các công ty có thể
phân khúc dễ dàng công việc thành những nhiệm vụ riêng
biệt cho các nhà thầu độc lập rồi sau đó lại tập hợp lại. Dù
cho các công ty có chuyển theo hướng này thì họ cũng cần
phải hiểu rõ hơn về giá trị vốn con người và phải quản lý
được các nhóm người cộng tác khác nhau một cách phù
hợp. Họ cũng sẽ phải xây dựng những khả năng để rằng
buộc được toàn bộ nhân tài hoặc ký kết với những nhóm
nhân tài chuyên gia trong việc cung cấp được những dịch
vụ như vậy. Lợi thế cạnh tranh này sẽ khiến cho các công
ty có thể làm chủ được việc chia nhỏ và tổ hợp lại các
nhiệm vụ.

4. Tạo ra nhiều giá trị hơn từ những sự tương tác

Các công ty đang tự mình hoặc thuê bên ngoài làm gia tăng
sự cân đối về sản lượng giữa các hoạt động sản xuất với các
hoạt động văn phòng hoặc giao dịch. Dĩ nhiên, sự cân đối
phát triển nguồn lực lao động trong những nền kinh tế đã
phát triển chủ yếu phải có cam kết trong công việc, điều
này có liên quan tới các cuộc thương lượng và đám phán,
sự hiểu biết, óc phán đoán và cả sự hợp tác đặc biệt – và tất
cả điều này được gọi là những tương tác ngầm định. Chúng
tôi cho rằng tình trạng làm thuê trong mọi nghề chủ yếu

đều liên quan tới chính những tương tác ấy, và chính những
tương tác này lý giải được cho toàn bộ tình trạng làm thuê
ở Mỹ vào năm 2015 sẽ là 44%, cao hơn so với 40% hiện
nay. Châu Âu và Nhật Bản sẽ trải qua những thay đổi
tương tự như vậy trong tổ chức các lực lượng lao động của
mình.

Việc ứng dụng công nghệ vừa giảm bớt những sự khác biệt
giữa hiệu quả của những nhân viên sản xuất với những
nhân viên giao dịch, nhưng những mâu thuẫn lớn vẫn còn
tồn tại trong tình trạng sản xuất của các mâu thuẫn ngầm
định giá trị cao. Việc cải thiện nó lại thiên về việc làm gia
tăng hiệu quả của họ, chẳng hạn như bằng việc tập trung họ
vào những tương tác tạo nên giá trị và đảm bảo rằng họ có
được điều kiện và thông tin tốt, hơn là về năng lực của họ.
Các công cụ công nghệ thúc đẩy những tương tác ngầm
định chẳng hạn như các wiki, các môi trường nhóm ảo, và
cả các hội nghị truyền hình đều có thể trở nên phổ biến
không kém gì các máy vi tính bây giờ. Cho dù các công ty
có học được cách sử dụng các công cụ này thì họ cũng sẽ
phải phát triển những cách tân về quản lý – những cách
nhanh hơn và thông minh hơn đối với những cá nhân cũng
như các nhóm nhằm tạo ra giá trị thông qua chính những
cách tân đó – và điều đó sẽ trở nên khó khăn đối với những
đối thủ cạnh trạnh của họ nhằm nhái lại. Các công ty trong
các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe hay ngân hàng thì luôn
sẵn sàng thực hiện theo cách này.

Và tuy các công ty cải thiện được năng suất của những
người công nhân thì sẽ vẫn cần kết hợp những đầu tư trong

các nền công nghệ với sự phối hợp đúng lúc giữa những lời
động viên và các giá trị tổ chức nhằm định hướng việc sử
dụng hay chấp nhận của mình qua chính những người lao
động. Nhưng vẫn có lý do quan trọng khiến các công ty vẫn
phải tự mình làm các hoạt động giao dịch và việc trả lương
có thể được thấy thường nhanh hơn nhiều cũng như được
đánh giá rõ ràng hơn nhiều so với việc trả lương từ những
sự đầu tư nhằm tạo cho công việc ngầm định hiệu quả hơn.
Việc tạo ra trường hợp kinh doanh đối với việc đầu tư vào
các tương tác sẽ trở thành thách thức mà chủ yếu là đối với
các nhà quản lý.

Quản lý vốn và tài sản

5. Mở rộng lĩnh vực tự động hóa

Các công ty, các chính phủ và cả những tổ chức khác vừa
đưa vào các hệ thống những tiến trình và nhiệm được tự
động hóa như: các công nghệ dự báo và cung cấp chuỗi,
các hệ thống cho việc lập kế hoạch nguồn doanh nghiệp,
quản lý quan hệ khác hàng và quản lý nhân sự, các cơ sở dữ
liệu khách hàng và sản phẩm, và cả những trang Web.
Ngày nay, những hệ thống này đang được kết nối với nhau
thông qua những chuẩn chung trong việc trao đổi dữ liệu và
thể hiện các quy trình kinh doanh theo các bit và byte. Và
còn hơn nữa, thông tin này có thể được kết hợp theo những
cách mới nhằm tự động làm tăng thêm danh sách các hoạt
động chính từ việc quản lý kiểm kê tới dịch vụ khách hàng.

Trong suốt những năm cuối 1990, FedEx và UPS đã hoàn

toàn kết nối dữ liệu thông qua các hệ thống lưu vết nội bộ
của họ tới Internet – một nhiệm vụ rất quan trọng thời điểm
đó – để cho phép các khách hàng theo dõi được các bưu
kiện từ những trang Web của mình mà không cần bất kỳ sự
can thiệp nào từ phía công ty. Nhờ việc áp dụng và kết nối
các hệ thống nhằm làm tự động các tiến trình trong việc trả
lời các yêu cầu từ các khách hàng mà đã làm giảm chi phí
đáng kể về việc phục vụ khách hàng trong khi lại làm tăng
được sự hài lòng và niềm tin từ họ. Gần đây hơn thì
Carrefour, Metro, Wal-Mart Stores và cả những công ty
bán lẻ lớn nữa cũng tham gia sử dụng (và yêu cầu cả những
nhà cung cấp cùng sử dụng) những nền công nghệ tạo thẻ
kỹ thuật số chẳng hạn như nhận dạng tần số radio (radio
frequency identification - RFID) và tích hợp chúng theo
đúng với các hệ thống chuỗi cung cấp khác nhằm tự động
cung cấp thêm việc quản lý chuỗi và kiểm kê. Tỉ lệ chấp
nhận tồn tại này đã làm thất vọng những người ủng hộ các
nền công nghệ nhưng khi giá của những thẻ kỹ thuật số này
giảm xuống thì chúng cũng có thể giảm đáng kể chi phí
việc quản lý sự phân bố và làm tăng doanh thu cho các
công ty bằng cách trợ giúp các công ty quản lý việc cung
cấp hiệu quả hơn.

Các công ty thì vẫn còn có rất nhiều các công việc được lặp
đi lặp lại có thể được làm tự động mà không nhất thiết phải
qua trung gian là những chiếc máy vi tính – chẳng hạn như
trong các lĩnh vực và các vùng mà công nghệ thông tin phát
triển với tốc độ chậm hơn – hay để nối “những điểm đứng
riêng tự động” với nhau và như vậy thì đưa cho những nhà
quản lý và các khách hàng khả năng để làm những điều

mới. Tự động hóa là một sự đầu tư tốt nếu nó không chỉ
làm giảm được chi phí mà còn trợ giúp những người sử
dụng có được cái họ muốn nhanh chóng và dễ dàng hơn,
nhưng nó có thể không phải là một ý tưởng hay nếu điều đó
đưa lại cho họ những kinh nghiệm khó chịu. Đó chính là bí
quyết để có được sự cân bằng chuẩn giữa việc làm tăng lợi
nhuận và làm cho các khách hàng thấy thoải mái.

6. Không đóng gói sản phẩm chuyển đi

Nền công nghệ trợ giúp các công ty sử dụng các tài sản cố
định một cách hiệu quả hơn bằng việc phân bố các hệ thống
lớn thành những phần có thể tái sử dụng, đánh giá và xác
định được việc sử dụng của mỗi phần và việc quảng cáo sử
dụng còn giảm được chi phí một cách đáng kể. Các nền
công nghệ thông tin và truyền thông kiểm soát được cơ bản
việc lưu vết và xác định những mô hình mới cũng như làm
cho nó có thể có được những hệ thống phân phối và lập kế
hoạch sản xuất hiệu quả.

Lấy ví dụ như Amazon.com vừa mới mở rộng mô hình
kinh doanh bằng cách cho phép những nhà bán lẻ khác sử
dụng các dịch vụ phân bố và tổ chức của mình. Đồng thời
Amazon.com cũng đưa ra những cơ hội cho những người
phát triển phần mềm độc lập có được khả năng xử lý trên
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của mình đến nỗi mà họ
không phải mua về riêng cho mình. Các nhà điều hành
mạng ảo di động là một ví dụ khác của xu hướng này, họ
cung cấp các dịch vụ không dây mà không cần phải đầu tư
cho một hạ tầng cơ sở mạng lưới. Và với mức cơ bản nhất

của sản phẩm không đóng gói thì tới 80% tất cả các công ty
đều đang cố gắng đáp ứng, và theo một nghiên cứu gần đây
về các xu hướng Web thì các công ty đều định đầu tư vào
các dịch vụ Web và các công nghệ có liên quan, dù cho các
ứng dụng rất đa dạng và nhiều công ty sử dụng các nền
công nghệ này nhằm đưa ra cho các công ty khác – các nhà
cung cấp, các khách hàng và cả những người tham dự xung
quanh – khả năng truy cập vào các phần kiến trúc công
nghệ thông tin của họ thông các giao thức chuẩn.

Việc không đóng gói làm việc hoàn toàn theo cơ chế vật lý.
Ngày nay bạn có thể mua những bộ phận nhỏ trên một
chiếc máy bay phản lực, hay của một chiếc xe hơi thể thao
đắt tiền hoặc thậm chí là những chiếc túi xách thời trang.
Việc không đóng gói thực sự hấp dẫn giới cung cấp bởi vì
nó cho phép các hoạt động kinh doanh chuyên về tài sản –
các nhà máy, các cửa hàng, ngành vận tải, các tòa nhà văn
phòng, các trung tâm dữ liệu, các mạng lưới và tất cả
những điều đó – gia tăng được tỉ lệ sử dụng và hơn nữa họ
có thể xoay vòng được vốn đầu tư. Còn với giới tiêu dùng
thì việc không đóng gói đưa ra khả năng truy cập vào các
nguồn và các tài sản mà theo cách khác có thể đòi hỏi phải
có sự đầu tư cố định hoặc quy mô lớn mới không bị mất
nhiều chi phí cạnh tranh. Đối với những công ty và các nhà
đầu tư đang tìm kiếm khả năng (hoặc khả năng phụ có thể
thay đổi) thì việc không đóng gói khiến họ có thể có được
khả năng truy cập vào các tài sản một cách nhanh chóng,
mở rộng được quy mô các hoạt động kinh doanh nhưng
vẫn giữ được việc cân bằng tài sản của họ, cũng như tận
dụng được việc tiêu thụ hấp dẫn và cả việc ký kết các mô

hình có thể dễ hơn cho việc báo cáo thu nhập của họ.

Các công ty mà làm cho các tài sản của mình có khả năng
sử dụng được cả trong lẫn ngoài thì sẽ cần phải quản lý các
xung đột nếu cầu vượt quá cung. Một thuận lợi cạnh tranh
thông qua quy mô có thể khó duy trì được khi có quá nhiều
người tham gia, kể cả lớn lẫn nhỏ, với quyền truy cập như
nhau tới các nguồn và chi phí thì lại thấp.

Tiếp nhận thông tin theo những cách mới

7. Việc đưa khoa học nhiều hơn vào quản lý

Không chỉ các công cụ sản xuất và Internet đều mở rộng
phạm vi và đưa ra việc tiếp nhận với các công nhân làm
việc ở bàn giấy, mà nền công nghệ còn đang giúp cho các
nhà quản lý khai thác được những khối lượng dữ liệu lớn
hơn để đưa ra được những quyết định thông minh hơn, và
phát triển được những hiểu biết sâu sắc có thể tạo ra những
thuận lợi cạnh tranh và các mô hình kinh doanh mới. Từ
“ideagoras” (eBay – các thị trường cho những ý tưởng) để
dự báo được những thị trường tới những phương pháp quản
lý thực hiện, những tiêu chuẩn phổ biến dựa trên các nền
công nghệ thúc đẩy sự kết hợp, việc xử lý và việc tạo quyết
định dựa vào sử dụng việc phát triển các nguồn dữ liệu dồi
dào.

Những người tham gia đang được dẫn tới việc khai thác sự
bùng nổ thông tin này bằng một loạt các kỹ thuật quản lý
khác nhau. Như Google cổ vũ sự cách tân thông qua một

thị trường nội bộ: những người làm công này đóng góp ý
tưởng, còn những người làm công khác lại quyết định liệu
một ý tưởng đó là đáng được theo đuổi hoặc liệu họ có sẵn
sàng làm việc hết mình vì nó không. Còn Intel lại tích hợp
một “thị trường dự đoán” bằng những tiến trình dự đoán
ngắn hạn nhằm xây dựng việc đánh giá nhu cầu hợp lý hơn
và ít bị thay đổi hơn. Nhà sản xuất xi – măng Cemex tối ưu
hóa việc vận chuyển và định hướng nhờ việc kết hợp những
phân tích phức tạp với một mạng viễn thông và lưu vết
không dây cho những chuyến hàng của mình.

Lượng thông tin và khả năng sử dụng thông tin của một nhà
quản lý bị gia tăng một cách bùng nổ không chỉ với những
tiến trình nội bộ mà còn với cả sự ràng buộc của các khách
hàng. Và như vậy một công ty càng biết nhiều thông tin
hơn thì khả năng để tạo ra nhưng thứ mà họ muốn đưa ra,
nhằm mục đích bằng thông điệp để có được sự phản ứng và
để rút ra được kinh nghiệm từ chính những thứ họ đưa ra
ngày càng tốt hơn. Lợi ích của việc hiểu rõ được khách
hàng – việc phân khúc ngày nhỏ hơn, chi phí thử nghiệm
thấp hơn và đáp ứng được nhiều khách hàng hơn – đang trở
nên có khả năng gia tăng thông qua những đổi mới công
nghệ trong việc tập hợp và xử lý dữ liệu cũng như trong sản
xuất.

Nhiều ví dụ đang dần xuất hiện trên một phạm vi rộng lớn
của các ngành kinh doanh. Chẳng hạn như Amazon.com là
điển hình cho sự phân khúc khách hàng tiến bộ. Công cụ
giới thiệu của nó thể hiện được các quá trình mua sắm của
riêng từng khách hàng với những khách hàng khác có cùng

sự mua sắm tương tự nhằm đưa ra những đề nghị cho
những thứ mà anh ta hoặc chị ta có thể mua. Mặc dù người
mua vẫn hoàn toàn dựa vào giá trị thực của những công cụ
giới thiệu này thì các kỹ thuật dường như cũng đang trở nên
có tác dụng: CleverSet, một nhà cung cấp công cụ giới
thiệu trò chơi thuần túy khẳng định rằng cứ 75 các nhà bán
lẻ trực tuyến sử dụng công cụ này thì trung bình tăng được
22% doanh thu trên một khách hàng. Trong khi đó, các nhà
điều hành thu phí cầu đường mới đang bắt đầu phân mảnh
các lái xe và tính giá với họ theo những mức giá khác nhau
dựa trên các điều kiện tĩnh (ví dụ như thời gian trong ngày)
và cả những điều kiện động (như khối lượng hàng vận
chuyển). Công nghệ cũng làm giảm chi phí thử nghiệm một
cách đáng kể và đưa ra cho những nhà lãnh đạo sáng tạo cơ
hội suy nghĩ như những nhà khoa học bằng việc xây dựng
và phân tích các lựa chọn. Các dịch vụ tài chính tập trung
Capital One mỗi ngày kiểm soát hàng trăm thử nghiệm
nhằm xác định được sự pha trộn phù hợp giữa các sản
phẩm mà nó nên hướng tới những nhóm khách hàng cụ thể.
Tương tự, các sòng bạc ở Harrah cũng khai thác dữ liệu
khách hàng nhằm mục đích thúc đẩy và định hướng dịch vụ
khách hàng mẫu.

Ngày nay, các nguồn lớn được đưa ra đang dần được đưa
vào lưu trữ và xử lỹ thông tin, và thật khó tin rằng chúng ta
mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của xu hướng này. Nhưng
đúng là như vậy. Chất lượng và khối lượng thông tin có khả
năng cho phép bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng
được tiếp tục phát triển một cách nhanh chóng trong khi chi
phí cho việc theo dõi và quản lý các tiến trình lại hạ xuống.


Các nhà lãnh đạo nên đi đầu xu hướng này để khẳng định
rằng thông tin đã khiến cho các tổ chức hiệu quả hơn chứ
không phải là kém hiệu quả hơn. Thông tin giờ đây có
nghĩa là sức mạnh: việc mở rộng truy cập và tăng sự minh
bạch chắc chắn sẽ có ảnh hưởng tới các chính sách tổ chức
và những cấu trúc năng lực. Những môi trường thuận lợi
cho việc tạo ra các lựa chọn dựa trên một nền tảng thực sự
thì phải thận trọng với tình trạng tê liệt phân tích.

8. Tạo ra các hoạt động kinh doanh từ thông tin

Những nguồn tích lũy dữ liệu được thu thập theo một số
các hệ thống trong các các tổ chức lớn hoặc được tích hợp
từ nhiều nơi ban đầu trên Web đều là nguyên liệu thô cho
thông tin mới dựa trên những cơ hội kinh doanh.

Những người góp phần thường xuyên vào việc này được
các nhà kinh tế học gọi là thị trường những điều chưa hoàn
chỉnh bao gồm những thông tin chưa phù hợp và sự bất lực
thường xuyên của những người đưa ra quyết định để có
được dữ liệu liên quan về các cơ hội thị trường mới, những
kết quả tiềm năng, việc ra giá khác nhau giữa các nhà cung
cấp và cả những hoàn cảnh kinh doanh khác. Những điều
chưa hoàn chỉnh này thường cho phép những người tham
gia và cả những người ở giữa có nhiều thông tin và là
những thông tin tốt hơn nhằm tạo ra được nhiều công việc
hơn bằng việc kết hợp và tạo ra các hoạt động kinh doanh
quanh nó. Chẳng hạn như Internet mang lại sự minh bạch
lớn hơn cho nhiều thị trường, từ việc đặt vé máy bay tới cổ

phiểu, mà như vậy thì nhiều lĩnh vực khác cũng cần có sự
minh bạch tương tự. Và việc đánh giá thực tế là một trong
những điều đó. Trong một lĩnh vực khi các điểm vừa phát
triển bằng việc theo dõi cả người bán lẫn người mua một
cách bí mật thì những nơi mới sẽ bất ngờ xuất hiện nhằm
soi sáng “một luồng sáng vào bóng tối để nắm được khúc
quanh cung cấp” như Rich Barton đã nói – là người sáng
lập ra Zillow (một cổng điện tử cho việc đánh giá thực
thông tin), đồng thời Barton cũng là nhà lãnh đạo chính của
trang du lịch điển tử Expedia – trước đó đã bị rớt xuống do
luôn trong bóng tối.

Hơn nữa, việc tập hợp dữ liệu thông qua việc số hóa các
tiến trình và các hoạt động có thể tạo ra nhờ các sản phẩm,
hoặc “làm cạn dữ liệu” bằng cách các công ty khai thác nó
để thu lợi nhuận. Lấy ví dụ, một người bán lẻ lắp các máy
quay kỹ thuật số nhằm ngăn chặn việc ăn cắp trong cửa
hàng có thể cũng phân tích được các mẫu mua hàng và
những luồng lưu lượng khách hàng thông qua hàng hóa và
sử dụng những hiểu biết đó để cải tiến được việc bố trí
hoặc sắp xếp hàng hóa tiện luôn cho việc quảng cáo. Và
như thế cũng có thể bán dữ liệu đó cho các nhà bán sản
phẩm đó tới mức họ có thể sử dụng những quan sát thực tế
về hành vi khách hàng để định hình lại những phương pháp
bán hàng của mình.

Một loại thông tin kinh doanh khác cũng đóng một vai trò
thực tế và tập hợp thuần túy đó chính là việc lùng sục trên
Web để thu thập được dữ liệu theo những chủ đề cụ thể.
Nhiều trang Web bán hàng từ doanh nghiệp tới khách hàng

và những danh bạ sản phẩm từ doanh nghiệp tới doanh
nghiệp cũng đều đang hoạt động theo kiểu thế này. Nhưng
kiểu cạnh tranh đó có thể có sự chồng chéo: chẳng hạn như
những cái được tập hợp hôm nay thì bản thân chúng lại sẽ
được tập hợp vào hôm sau. Và như thế thì các công ty đang
phụ thuộc vào thông tin dựa trên thị trường những điều
chưa hoàn chỉnh cần phải đánh giá được ảnh hưởng của
những mức minh bạch mới liên tục được đưa ra trong nền
kinh tế thông tin ngày nay.


Kết luận

×