Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thuốc tiêm pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.65 KB, 6 trang )

Thuốc tiêm

Thay vì kê đơn thuốc viên để điều trị đau, bác sĩ có thể dùng thuốc
tiêm. Thuốc tiêm không chữa khỏi đau, nhưng có thể giúp bạn vượt qua giai
đoạn đầu của cơn đau dữ dội hoặc đợt bùng phát đau nặng.
Tiêm có hiệu quả nhất đối với đau khớp, cơ hoặc thần kinh khu trú ở
một vùng nhất định. Thuốc tiêm có thể là thuốc tê để giảm đau, steroid để
giảm viêm hoặc phối hợp cả hai. Ngoài ra, đôi khi người ta còn tiêm một
chất để cải thiện khả năng di động của khớp.
Lợi ích của tiêm là thuốc tác dụng chủ yếu ở một vùng giới hạn của cơ
thể. Do chỉ nhắm vào một vùng nhất định, tiêm có thể làm giảm lượng thuốc
cần thiết cũng như số lượng và mức độ nặng của tác dụng phụ.
Tiêm cũng có thể giúp chẩn đoán nguyên nhân đau.Thí dụ, giả định
rằng tiêm một lượng nhỏ thuốc gây tê vào một vùng nào đó làm giảm đau.
Điều này có thể chỉ ra rằng đau chủ yếu bắt nguồn từ khớp, cơ hoặc thần
kinh.
Để quyết định liệu việc tiêm thuốc có phù hợp với bạn không, cần nhớ
rằng bạn sẽ phải tới phòng khám mỗi lần tiêm. Ngoài ra, vị trí tiêm và loại
thuốc được dùng có thể hạn chế mức độ thường xuyên được tiêm thuốc của
bạn. Thí dụ, tiêm steroid có thể gây những tác dụng phụ nghiêm trọng và
nặng lên nếu dùng thường xuyên.
Hiếm khi thuốc tiêm được sử dụng đơn thuần để điều trị đau mạn tính.
Thay vào đó, chúng thường được dùng phối hợp với một chương trình gồm
vật lý trị liệu. Tiêm có thể khiến cho liệu pháp này thuận lợi hơn.
Kiểu tiêm có thể được phân thành 3 loại chính: Tiêm vào khớp, tiêm
mô mềm và tiêm phong bế thần kinh.
Tiêm khớp
Khi khớp bị viêm và đau, bác sĩ tiêm thuốc vào đó để giảm sự khó
chịu cho bạn. 2 loại thuốc được dùng để tiêm khớp là corticosteroid và acid
hyaluronic.
 Corticosteroid. Nếu viêm khớp làm khớp bạn bị viêm, sưng và


đau, bác sĩ có thể tiêm corticosteroid vào khớp bị bệnh. Corticosteroid có tác
dụng giống các hormon cortison và hydrocortison, do vỏ tuyến thượng thận
tiết ra. Khi kê đơn ở liều vượt quá nồng độ tự nhiên trong cơ thể,
corticosteroid ức chế viêm. Thuốc được tiêm vào một hoặc nhiều vùng bị
bệnh của cơ thể, như vai, khuỷu tay, háng hoặc khớp gối. Một số kiểu tiêm
khớp, như tiêm mặt khớp hoặc tiêm khớp cùng chậu, được áp dụng ở cột
sống.
Trong thời gian ngắn, corticosteroid có thể khiến bạn cảm thấy khá
hơn rõ rệt. Nhưng khi dùng trong nhiều tháng hoặc nhiều năm, thuốc có thể
kém hiệu quả và gây tác dụng phụ nghiêm trọng. Tác dụng phụ có thể gồm
làm yếu sụn và dây chằng, dễ bầm tím, loãng xương, đục thuỷ tinh thể, tăng
cân, mặt tròn, tiểu đường và cao huyết áp.
Tiêm corticosteroid có thể giảm đau trong 4 - 6 tháng.
 Acid hyaluronic. Hyaluronat (Hyalgan) và hylan G-F20
(Synvisc) là những thuốc tiêm được dùng để điều trị thoái hóa khớp gối.
Acid hyaluronic là một chất có trong dịch khớp bình thường. Dịch khớp hoạt
động như một chất bôi trơn. Hyaluronic và hylan G-F20 giúp giảm đau nhờ
bổ sung acid hyaluronic ở khớp. Những thuốc này có thể được kê nếu bạn
không thể giảm đau nhờ luyện tập, vật lý trị liệu hoặc thuốc giảm đau khác.
Vì thuốc được tiêm trực tiếp vào khớp gối, hyaluronat và hylan G-F20
không gây tác dụng phụ như thuốc uống giảm đau.
Hyaluronat được tiêm một loạt 5 mũi - mỗi tuần một mũi - vào khớp
gối. Thuốc tê tại chỗ được tiêm trước để giảm sự khó chịu do hyaluronat, là
loại thuốc đặc và phải được tiêm bằng kim cỡ lớn. Tác dụng giảm đau kéo
dài tới 12 tháng.
Hylan G-F20 được tiêm 3 mũi. Tác dụng giảm đau có thể kéo dài 6
tháng hoặc lâu hơn. Cả 2 thuốc đều làm giảm đau chậm hơn nhiều so với
corticosteroid. Không dùng hylan G-F20 nếu bạn bị dị ứng với trứng.
Hiệu quả của tiêm hyaluronat để điều trị đau khớp gối mạn tính do
thoái hóa khớp vẫn đang được nghiên cứu.

Tiêm vào mô mềm
Khi những vùng nhất định của cơ thể - như cơ hoặc bao khớp - bị
viêm và đau, có thể tiêm thuốc trực tiếp vào mô mềm xung quanh.
 Tiêm phong bế vùng hoặc điểm khởi phát đau. Điểm khởi phát
là những vùng nơi cơ và mô sợi xung quanh (cân) nhạy cảm khi sờ nắn.
Điểm khởi phát thường nằm ở cơ lưng trên và cơ lưng dưới, nhưng cũng có
thể xuất hiện ở bất cứ đâu. Tiêm thuốc vào điểm khởi phát được dùng khi cơ
nhạy cảm với sờ nắn và là nguyên nhân gây đau. Tùy theo loại thuốc, tiêm
vào điểm khởi phát có thể làm giảm đau ở cơ, giảm viêm hoặc giãn cơ.
Bác sĩ có thể tiêm vào cơ bạn chế phẩm thuốc tê tại chỗ và
corticosteroid. Thuốc sẽ giảm đau và giúp tăng vận động. Thuốc tê làm giảm
đau trong khi corticosteroid làm giảm viêm. Corticosteroid bắt đầu phát huy
tác dụng trong 3 - 4 ngày và có thể làm giảm lâu dài cả viêm và đau. Đôi khi
chỉ có thuốc tê được sử dụng nếu ít hoặc không có viêm và mục đích là làm
giãn cơ để việc tập kéo giãn hiệu quả hơn.
 Tiêm bao hoạt dịch. Bao hoạt dịch là những túi rất nhỏ chưa
đầy dịch bôi trơn và đệm giữa xương và gân, cơ gần khớp. Bạn có hơn 150
bao hoạt dịch trong cơ thể, chúng giúp bạn cử động mà không bị đau. Khi
bao hoạt dịch bị viêm (viêm bao hoạt dịch), cử động hoặc áp lực đè lên khớp
bị bệnh sẽ gây đau. Viêm bao hoạt dịch thường xảy ra ở vùng vai, khuỷu tay
hoặc háng. Tiêm corticosteroid có thể làm giảm viêm.
Tiêm phong bế thần kinh
Để phong bế dây thần kinh, bác sĩ sẽ tiêm thuốc tê xung quanh các sợi
của dây thần kinh đó. Thuốc sẽ ngăn chặn việc truyền tín hiệu đau theo
đường đi của dây thần kinh tới não. Phong bế dây thần kinh thường được sử
dụng để giảm đau trong thời gian ngắn, như trong phẫu thuật. Nếu có viêm
quanh thần kinh, tiêm corticosteroid phối hợp với phong bế thần kinh có thể
đem lại tác dụng giảm đau lâu hơn. Có 3 loại phong bế thần kinh chính:
 Ngoại biên. Đối với đau khu trú, thuốc tê được tiêm xung quanh
thần kinh phát xuất từ tủy sống, như ở cổ chân. Kết quả là làm giảm cảm

giác và giảm đau ở vùng đó.
 Tủy sống. Đối với đau ở vùng rộng hơn, như thắt lưng hoặc
cẳng chân, thuốc tê được tiêm vào trong hoặc gần cột sống. Tiêm trực tiếp
vào dịch tuỷ sống gọi là tiêm trong màng cứng. Cách tiêm này thường được
sử dụng trong phẫu thuật bụng hoặc cẳng chân.
Nếu tiêm không vào dịch tuỷ sống, gọi là tiêm ngoài màng cứng.
Tiêm ngoài màng cứng thường được dùng để giảm đau khi đẻ và đôi khi để
giảm một số loại đau lưng, như đau thần kinh tọa.
 Thần kinh giao cảm. Một số dạng đau mạn tính, như hội chứng
đau theo vùng phức hợp (CRPS), tên cũ là loạn dưỡng giao cảm phản xạ
(RDS), có thể do hoạt động bất thường của hệ thần kinh giao cảm. Thần
kinh giao cảm kiểm soát tuần hoàn và mồ hôi và là một phần của hệ thần
kinh tự động. Tiêm thuốc tê để phong bế thần kinh giao cảm có thể giảm
đau.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×