Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế Tương lai của đồng Euro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.33 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

ĐỀ TÀI
TƯƠNG LAI CỦA ĐỒNG EURO.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông
Nhóm thực hiện: Nhóm 5
Lớp: Ngân hàng Đêm 2 – Khóa 22.
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2014
Tương lai của đồng EURO.
2
Danh sách nhóm 5
1. Trần Thị Duyên
2. Trần Quốc Huy
3. Đỗ Bá Linh
4. Phạm Văn Linh
5. Văn Tấn Ngọc
6. Nguyễn Văn Phương
7. Lê Trung Quốc
8. Đặng Thị Phương Trang
Tương lai của đồng EURO.
MỤC LỤC
MỤC LỤC 3
LỜI NÓI ĐẦU 4
I.TỔNG QUAN VỀ LIÊN MINH TIỀN TỆ CHÂU ÂU VÀ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH ĐỒNG
EURO 5
1.Khái quát lịch sử hình thành liên minh Châu Âu 5
2.Liên minh tiền tệ Châu Âu 10
3.Quá trình hình thành đồng tiền chung Châu Âu – Đồng Euro 13
II.VAI TRÒ CỦA ĐỒNG EURO 14
1.Đối với các quốc gia thành viên 14


2.Đối với nền kinh tế thế giới 16
III.PHÂN TÍCH CÁC ÁP LỰC ĐỐI VỚI ĐỒNG EURO 19
1.Vấn đề mở rộng EU 19
2.Nợ công ở các nước thành viên EU 20
IV.BÀI HỌC RÚT RA TỪ KHU VỰC ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU CHO KHU VỰC CHÂU Á
23
V.KỊCH BẢN CHO TƯƠNG LAI CỦA ĐỒNG EURO 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
3
Tương lai của đồng EURO.
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra
hết sức mạnh mẽ. Sự tham gia vào xu hướng chung đó gần như là lực chọn bắt buộc đối với
mỗi quốc gia nếu như muốn tồn tại và phát triển kinh tế theo kịp trình độ phát triển của nền
kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của từng quốc gia, khu vực mà mỗi nước tham
gia vào liên kết kinh tế quốc tế ở các mức độ khác nhau, khu vực mậu dịch tự do… cho tới
liên minh tiền tệ, đỉnh cao của liên kết kinh tế quốc tế.
Liên minh Châu Âu ra đời là kết quả của hoạt động liên kết kinh tế quốc tế, là kết quả
của quá trình hợp tác và đấu tranh giữa tranh chấp và thỏa hiệp của các nước thành viên
nhằm đi đến thống nhất và tạo ra sức mạnh tổng hợp từ sự liên kết. Năm 1999, đồng Euro
chính thức ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của liên minh Châu Âu nói riêng và
của hoạt động kinh tế quốc tế nói chung. Đồng Euro có ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống
kinh tế, xã hội của các nước thành viên và các nước có liên quan trong đó có Việt Nam. Vì
vậy, việc nghiên cứu Tương lai của đồng Euro là hết sức cần thiết và đang trở thành đề tài
đáng quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế hiện nay.
Được sự hướng dẫn của PGS.TS Trương Quang Thông, nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề
tài “Tương lai của đồng Euro” làm đề tài thảo luận nhóm. Rất mong Thầy và các bạn đóng
góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
4
Tương lai của đồng EURO.

I. TỔNG QUAN VỀ LIÊN MINH TIỀN TỆ CHÂU ÂU VÀ TIẾN TRÌNH HÌNH
THÀNH ĐỒNG EURO
1. Khái quát lịch sử hình thành liên minh Châu Âu
1.1. Giới thiệu chung về liên minh Châu Âu:
Liên minh châu Âu gồm28 nước có chủ quyền đã gia nhập Liên minh châu Âu (EU) từ
khi Liên minh này bắt đầu trên thực tế từ năm 1951 dưới tên Cộng đồng Than Thép châu Âu
(ECSC).
Trước khi được phép gia nhập Liên minh châu Âu, một nước phải hoàn tất các điều
kiện chính trị và kinh tế, thường được gọi là các tiêu chuẩn Copenhagen. Các yêu cầu cơ bản
này mà một nước ứng viên phải có là một chế độ dân chủ thế tục, cùng với các quyền tự do
và thể chế tương ứng, cũng như tôn trọng luật pháp. Trong điều kiện của Hiệp ước
Maastricht, việc mở rộng Liên minh phụ thuộc vào sự đồng ý của mỗi quốc gia hội viên
cũng như được Nghị viện châu Âu chấp thuận
Tôn chỉ: Đoàn kết trong đa dạng (Unity in diversity)
Trụ sở: Brussels (Bỉ)
Số ngôn ngữ chính thức: 23
Ngày châu Âu; Ngày 9 tháng 5
Diện tích: 4.422.773 km² (nước có diện tích lớn nhất là Pháp
với 554.000 km
2
và nhỏ nhất là Malta với 300 km
2
);
Dân số:


Khoảng 500 triệu người, chiếm 7,3% toàn thế giới
(thành viên có dân số lớn nhất là Đức với 82 triệu,
ít nhất là Malta với 0,4 triệu).
GDP (EU 27): 17,57 nghìn tỷ USD

Thu nhập bình quân: 32,900 USD/người/năm
5
Tương lai của đồng EURO.
Cơ cấu tổ chức:
EU là một thực thể kinh tế, chính trị đặc thù với mức độ liên kết sâu sắc. Về cơ bản,
EU có các định chế chính là: Hội đồng châu Âu, Hội đồng Bộ trưởng, Nghị viện Châu Âu,
Uỷ ban Châu Âu và Toà án Châu Âu.
• Hội đồng châu Âu (European Council):
Hội đồng châu Âu là cơ quan quyền lực cao nhất của EU gồm lãnh đạo 27 nước thành
viên, Chủ tịch Hội đồng châu Âu và Chủ tịch EC. Hội đồng đưa ra định hướng và ưu tiên
chính trị cho cả khối, cùng với Nghị viện châu Âu thông qua các đạo luật của EU và ngân
sách chung của Liên minh. Các quyết định của Hội đồng châu Âu chủ yếu được thông qua
theo hình thức đồng thuận.
Chủ tịch Hội đồng châu Âu (President of the European Council) có nhiệm kỳ 2,5 năm
(tối đa 2 nhiệm kỳ).
• Hội đồng Bộ trưởng (tên gọi sau Hiệp ước Lisbon của Council of the European
Union hoặc Council of Ministers hoặc The Council):
Hội đồng Bộ trưởng gồm đại diện (thường ở cấp Bộ trưởng) của các quốc gia thành
viên là cơ quan đưa ra định hướng chính sách trong các lĩnh vực cụ thể và khuyến nghị EC
xây dựng các đạo luật chung.
Ngoài Hội đồng Ngoại trưởng do Đại diện cấp cao về Chính sách đối ngoại và An ninh
chung của EU làm chủ tịch, Chủ tịch Hội đồng các Bộ trưởng khác do nước Chủ tịch luân
phiên đảm nhiệm.
• Nghị viện châu Âu (European Parliament – EP):
Nghị viện châu Âu có chức năng chính là cùng Hội đồng Bộ trưởng ban hành luật
pháp; giám sát các cơ quan của Liên minh châu Âu, đặc biệt là Ủy ban châu Âu. Nghị viện
6
Tương lai của đồng EURO.
có quyền thông qua hoặc bãi miễn các chức vụ ủy viên Ủy ban châu Âu; cùng Hội đồng Bộ
trưởng có thẩm quyền đối với ngân sách, đối với việc chi tiêu của Liên minh. Từ năm 1979,

các Nghị sĩ của Nghị viện EU được bầu cử trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm. Lần bầu cử mới đây
vào tháng 6/2009. Trong Nghị viện các Nghị sĩ phân chia theo nhóm chính trị khác nhau mà
không theo Quốc tịch.
• Ủy ban châu Âu (European Commission - EC)
Ủy ban châu Âu là cơ quan hành pháp của khối. EC hoạt động độc lập, có chức năng
xây dựng, kiến nghị các đạo luật của EU, thực thi, áp dụng và giám sát việc triển khai các
hiệp ước và điều luật của EU, sử dụng ngân sách chung để thực hiện các chính sách chung
của cả khối theo quy định.
Chủ tịch Ủy ban do chính phủ các nước thành viên nhất trí đề cử. EC có 26 ủy viên và
01 Chủ tịch từ 27 nước thành viên, các ủy viên được bổ nhiệm trên cơ sở thỏa thuận giữa các
nước thành viên và được Nghị viện phê chuẩn, nhiệm kỳ 5 năm
1.2. Nguyên nhân hình thành liên minh Châu Âu
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hai nước Liên Xô và Mĩ mạnh lên nhanh chống, trở
thành hai cực của thế giới khống chế toàn cầu, châu Âu bị đảy xuống hàng phụ thuộc, Đông
Âu chịu ảnh hưởng của Liên Xô, còn Tây Âu chiệu ảnh hưởng của Mĩ.
Trong khi Mĩ và Liên Xô ngày càng lớn mạnh nhanh chống, thì Tây Âu tuột hậu sau
chiến tranh, bị suy yếu toàn diện và đã thực sự mất vai trò trung tâm của thế giới cả về kinh
tế, chính trị và quân sự. chính trong bối cảnh so sánh lực lượng như vậy, Tây Âu không có
con dường nào khác là phải dựa vào Mĩ, chấp nhận sự chỉ huy và những áp đặt của Mĩ trong
tất cả mọi lỉnh vực kinh tế, chính trị cũng như quân sự đó chính là nguyên nhân quan trọng
khiến các nước Tây Âu tập hợp lại.
Thứ hai là các nước tư bản Tây Âu muốn liên kết với nhau thành một liên minh châu
Âu nhằm chống lại hệ thống xã hội chủ nghĩa, chống phong trào cách mạng vô sản đang
phát triển mạnh ở Tây Âu và chống phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Thứ ba về mặt kinh tế đây là sự liên kết có tính chất quốc tế của tư bản tài chính
7
Tương lai của đồng EURO.
nhiều nước, thành lập các cacten quốc tế kiểu mới, nhằm giải quyết hiện tượng sản xuất vô
chính phủ trong phạm vi quốc tế và nhằm điều hòa mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất
(tiến bộ khoa học - kĩ thuật đòi hỏi có những đơn vị sản xuất lớn, vốn lớn và thị trường

lớn…).
Cuối cùng, liên hiệp Tây Âu còn nhằm điều hòa mâu thuẫn giữa các nước Tây Âu và
nhằm chống lại sự cạnh tranh, xâm nhập của Mĩ.
Từ những nguyên nhân trên, một yêu cầu khách quan cấp thiết được đặt ra là phải
thiết lập một tổ chức quyền lực siêu quốc gia có sứ mệnh điều hành, phối hợp hoạt động
kinh tế của từng nước nhằm tăng cường liên kết kinh tế giữa các nước Tây Âu với nhau.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển liên minh Châu Âu
Ý tưởng thống nhất châu Âu đã có từ lâu. Từ năm 1923, Bá tước người Áo, ông Con-
denhove-Kalerg đã sáng lập ra Phong trào Liên minh châu Âu.
Đến năm 1929, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp ông A.Briand đã đưa ra đề án Liên minh
châu Âu thì đến sau Chiến tranh thế giới lần 2 những ý tưởng đó mới dẫn tới các sáng kiến
cụ thể .
- Có 2 hướng vận động cho việc thống nhất châu Âu, đó là:
+ Hợp tác giữa các quốc gia và bên cạnh việc bảo đảm chủ quyền dân tộc.
+ Hoà nhập hay là “nhất thể hoá”: Các quốc gia đều chấp nhận và tuân thủ theo một
cơ quan quyền lực chung siêu quốc gia.
Xuất phát từ hai hướng vận động trên, ngày 09/05/1950, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp
ông Robert Schuman đề nghị đặt toàn bộ nền sản xuất than, thép của Cộng hoà Liên bang
Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung trong một tổ chức “mở” để các nước châu
Âu khác cùng tham gia. Đây được coi là nền móng đầu tiên cho một “ Liên minh châu Âu”
để gìn giữ hoà bình. Với nỗ lực chung, Pháp và Đức đã phá đi hàng rào ngăn cách giữa hai
quốc gia được coi là ảnh hưởng to lớn tới tiến trình nhất thể hoá châu Âu. Bằng sự cố gắng
dàn xếp “cùng nhau gánh vác trọng trách chung thì đó sẽ là một bước tiến quan trọng về
phía trước” ( Phát biểu Thủ tướng Đức Konist Adanauer). Ngày 13/07/1952, Hiệp ước thiết
8
Tương lai của đồng EURO.
lập Cộng đồng than thép châu Âu (CECA) do sáu nước Pháp, Bỉ, Cộng hoà Liên bang Đức,
Italia, Hà Lan, Lucxămbua ký kết.
Các mốc phát triển của EU
1950 Tuyên bố Schuman đề xuất thành lập Cộng đồng than thép Châu Âu

1951 Hiệp ước Paris thành lập Cộng đồng Than Thép C hâu Âu (ECSC), tổ chức
tiền thân của EU, với 6 thành viên sáng lập là Pháp, Đức (Tây Đức), I-ta-li-a,
Bỉ, Hà Lan và Lúc-xăm-bua.
1957 Hiệp ước Rô-ma thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử C hâu Âu
(Euratom) và Cộng đồng Kinh tế C hâu Âu (EEC). EEC hướng tới thiết lập thị
trường chung, liên minh thuế quan (hoàn thành năm 1968) với sự di chuyển tự
do của vốn và lao động.
1967 Hiệp ước Hợp nhất 3 cộng đồng nói trên (ECSC, Euratom và EEC), gọi chung
là Cộng đồng Châu Âu (European Communities – EC)
1973 Kết nạp Đan Mạch, Ai-len và Anh
1981 Kết nạp Hy Lạp
1986 Kết nạp Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
1987 Đạo luật Thị trường Thống nhất châu Âu (Single European Act) sửa đổi Hiệp
ước Rô-ma (1957) nhằm hòan thiện việc thiết lập thị trường chung châu Âu.
1993 Hiệp ước Maastricht (còn gọi là Hiệp ước thành lập Liên minh Châu Âu),
đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể hóa Châu Âu.
1995 Hiệp ước Schengen (về tự do di chuyển) có hiệu lực
1995 Kết nạp Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển.
1997 Hiệp ước Amsterdam sửa đổi và bổ sung Hiệp ước Maastricht, chuẩn bị cho
việc mở rộng EU về phía Đông.
2001 Hiệp ước Nice tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để tiếp nhận các thành
viên mới, đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện Châu Âu.
2002 Đồng Euro chính thức được lưu hành tại 12 nước thành viên EU.
2004 Kết nạp thêm 10 thành viên mới là Síp, Séc, Xlô-ve-ni-a, Hung-ga-ry, Lát-via,
Li-thu-nia, Man-ta, Ba Lan, Xlô-va-ki-a và Estonia.
2007 Kết nạp Bungari và Rumani.
2009 Hiệp ước Lisbon, tên gọi đầy đủ là Hiệp ước sửa đổi Hiệp ước Liên minh
Châu Âu và Hiệp ước thành lập Cộng đồng Châu Âu.
2013 Kết nạp Croatia
Hiệp ước Lisbon (2009) sửa đổi nội dung của 2 hiệp định chủ chốt quy định bản chất,

9
Tương lai của đồng EURO.
tổ chức và hoạt động của EU là Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu – TEC (Hiệp ước
Rô-ma 1957) và Hiệp ước Maastricht về Liên minh châu Âu - TEU (1992). Những thay đổi
quan trọng nhất gồm:
• Cải tổ cơ chế vận hành của EU theo hướng “dân chủ, minh bạch và hiệu quả hơn”,
xoá bỏ cơ cấu 3 trụ cột của EU, đồng thời phân định rõ ràng và cụ thể thẩm quyền của
EU trên các lĩnh vực chính sách.
• Hiệp ước Lisbon lần đầu tiên trao cho EU tư cách pháp nhân “thay thế và thừa kế
tư cách pháp nhân của Cộng đồng châu Âu”. Ngoài ra, EU lập ra chức danh Chủ tịch
Hội đồng châu Âu và Đại diện cao cấp của EU về Ngoại giao và An ninh (đồng thời là
Phó Chủ tịch EC) đứng đầu Cơ quan đối ngoại mới giúp việc cho Đại diện cấp cao về
Chính sách đối ngoại và an ninh, độc lập với Ủy ban châu Âu nhằm tăng cường tính
nhất quán trong việc triển khai chính sách đối ngoại chung của cả khối.
2. Liên minh tiền tệ Châu Âu
2.1 Cơ sở của sự ra đời liên minh tiền tệ Châu Âu
Có thể nói, sự ra đời, phát triển kinh tế của liên kết kinh tế Châu Âu mà đỉnh cao là
việc thống nhất tiền tệ Châu Âu là một tất yếu khách quan không chỉ do đòi hỏi của sự phát
triển quan hệ kinh tế quốc tế, mà còn do đòi hỏi của sự phát triển của chính các quan hệ tiền
tệ quốc tế.
Cho đến những năm 60, hệ thống Đôla Châu Âu đã phát triển mạnh. Cùng thời gian đó
hai nhà kinh tế học người Mỹ R.Mundell và R. Mc Kinnon đã đưa ra lý thuyết
"Khu vực tiền tệ tối ưu". Lý thuyết này đề cập đến những cơ sở của sự thống nhất tiền tệ
Châu Âu và gây được sự chú ý lớn. Theo R. Mundell và R. Mc Kinnon “Khu vực tiền tệ tối
ưu” là lãnh thổ bao gồm những nước cùng chung những điều kiện, khả năng thích
hợp nhất để sử dụng một loại tiền tệ thống nhất hoặc chung những khả năng để thiết lập một
đồng giá vững chắc giữa các đồng tiền của quốc gia mình. Một trong những điều kiện cho sự
tồn tại của “Khu vực tiền tệ tối ưu” là tốc
độ lạm phát giữa các nước thành viên ít nhiều phải đồng đều để có thể thực thi các
chính sách về ngân sách, kinh tế và tiền tệ có hiệu quả. Đồng thời, phải đạt được

10
Tương lai của đồng EURO.
những mục đích như ổn định giá cả, có việc làm đầy đủ và sự cân bằng trong cán cân
thanh toán, tức là phải đạt được sự cân đối bên trong và bên ngoài.
Điều quan trọng nhất là đồng tiền của EEC phải dựa trên c
ơ sở của mọi đồng tiền
ở các nước thành viên và phải tính đến sự thay đổi tỷ giá các loại tiền chứ không phải
đến sức mua của đồng tiền mạnh nhất. Nhưng trước hết, đó phải là một đơn vị tiền tệ
đang lưu thông đồng thời với các đơn vị tiền tệ Châu Âu khác; được phép có những thay đổi
đồng giá và dao động của tỷ giá tiền tệ. Khi
các quy chế về tiền tệ tài chính đã thống nhất và có sự phối hợp của chính sách tiền tệ thì các
giao động của tỷ giá tiền tệ sẽ bị xóa bỏ. Lúc đó, một Liên minh
kinh tế và tiền tệ cũng được thành lập, đồng thời tiền của các nước cũng sẽ bị huỷ bỏ và thay
vào đó là một đồng tiền thống nhất. Thực chất của quan điểm này là sự
biểu hiện cách tiếp cận thiết chế đối với vấn đề thống nhất tiền tệ. Cách tiếp cận
này chú trọng đến việc tăng cường các biện pháp điều tiết liên quốc gia và siêu quốc gia
trong lĩnh vực tiền tệ, đến sự phối hợp chính sách kinh tế của các nước thành viên, hạn chế
chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tiền tệ và thiết lập các thiết chế siêu quốc gia.
2.2 Lịch sử hình thành liên minh tiền tệ Châu Âu
Trong văn bản Hiệp ước Ro6ma và Định ước Châu Âu duy nhất đã ghi nhận thị trường
nội địa Châu Âu, nhưng cho tới Hiệp ước về Liên minh Châu Âu ở Maastricht, Liên minh
Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu mới được chính thức ghi nhận. Mục tiêu của Liên minh Kinh tế
và Tiền tệ Châu Âu là thống nhất Châu Âu trong lĩnh vực tiền tệ. Đây là một quá trình lâu
dài với nhiều thành công và thất bại.
Vào thời điểm thành lập cộng đồng Châu Âu, nay gọi là Liên Minh Châu Âu, ít có
chính khách Châu Âu nào để ý đến việc thành lập một khu vực tiền tệ riêng của Châu Âu.
Bởi vì lúc đó tiền tệ nói chung được điều chỉnh bằng những tỷ giá nhất định trong hệ thống
tiền tệ Bretton Woods mà hệ thống này lại đang vận hành khá tốt. Hiệp ước Ro6ma chỉ có
một vài điều khoản liên quan đến việc hợp tác các chính sách tiền tệ, các chính sách hối đoái
và thành lập một ủy ban tiền tệ để đưa ra các ý kiến về lĩnh vực này. Kết quả là sự phụ thuộc

11
Tương lai của đồng EURO.
lẫn nhau giữa các thành viên trong Cộng đồng Châu Âu tăng lên đã thúc đảy sự hợp tác
trong lĩnh vực tiền tệ.
Năm 1964, Ủy ban Thống đốc các ngân hàng trung ương ra đời. Việc này đã hình
thành một khuôn khổ cho các cuộc tham khảo ý kiến thường xuyên vấn đề tiền tệ giữa các
nước trong cộng đồng Châu Âu. Tuy nhiên, sức ép đẩy các nước Châu Âu co cụm lại với
nhau trong vấn đề này chỉ thực sự tăng lên vào cuối những năm 1960 đầu những năm 1970
khi mà Hệ thống tỷ giá chuyển đổi cố định Bretton Woods bắt đầu rạn nứt và sụp đổ. Vào
tháng 1 – 1970, ủy ban Werner (tên của Thủ tướng Luýchxămbua) đã đưa ra một kế hoạch
đầy tham vọng: lập ra một “Liên minh kinh tế và tiền tệ” trong vòng 10 năm. Sau thời hạn
đó, Cộng đồng Châu Âu sẽ là một thực thể tiền tệ riêng biệt trong hệ thống tiền tệ quốc tế.
Các đồng tiền của các nước thành viên có khả năng chuyển đổi và có tỷ giá cố định với
nhau. Đồng thời các thể chế của cộng đồng sẽ được trao cho những quyền hành cần thiết để
có thể đưa ra các quyết định về chính sách kinh tế.
Để đảm bảo sự phát triển kinh tế, tháng 12-1978 một cơ chế tiền tệ mới gọi là “Hệ
thống tiền tệ Châu Âu” (EMS) đã được hoạch định và ngày 13-3-1979 bắt đầu hoạt động.
Mục tiêu của EMS là hình thành trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế Châu Âu một “khu vực
ổn định” với đồng tiền riêng của nó, nhằm tạo ra đối trọng với hệ thống tiền tệ quốc tế mới
dựa trên bá quyền của đồng dollar Mỹ; bảo vệ Cộng đồng trước sự bành trướng của đồng
dollar Mỹ và tiến đến xóa bỏ dollar Mỹ trong các tài khoản Tây Âu.
Và sau hai năm hoạt động của EMS, Quỹ tiền tệ Châu Âu (EMF) đã được thành lập
vào năm 1981. Sự thành lập EMF là một bước tiến quan trọng trên con đường đi tới thống
nhất kinh tế, tiền tệ, tạo điều kiện dễ dàng cho quá trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ và vốn
giữa các nước thành viên. Hệ thống tiền tệ Châu Âu đã trở thành một khối tiền tệ thứ ba bên
cạnh đồng dollar Mỹ và đồng Yên Nhật để ổn định hệ thống tiền tệ và kinh tế quốc tế. Trên
thực tế EMS vẫn còn phụ thuộc nhiều vào đồng dollar Mỹ và EEC cũng chưa có kế hoạch
làm giảm tỷ lệ lạm phát và hạn chế thiếu hụt ngân sách của các nước thành viên.
Đến năm 1987, việc thực hiện thống nhất tiền tệ Châu Âu đã được văn kiện Châu Âu
thống nhất. Tháng 6-1988, một ủy viên dưới quyền của Chủ tịch ủy ban EEC, ông Delors

12
Tương lai của đồng EURO.
được giao nhiệm vụ đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện thống nhất tiền tệ Châu
Âu.
3. Quá trình hình thành đồng tiền chung Châu Âu – Đồng Euro
Sự có mặt trong lưu thông của mỗi đồng tiền bao giờ cũng là một hiện tượng xã hội, là
kết quả của ý chí pháp lý của mỗi thể chế chính trị cụ thể, được cộng đồng chấp nhận. Đồng
tiền đó trở thành đại diện tiền tệ cho một nền kinh tế cụ thể, vận hành theo một cơ chế nhất
định. Đối với đồng EURO cũng vậy. Việc cho ra đời và vận hành đồng EURO xuất phát từ
một ý tưởng nghiêm túc với quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo Châu Âu ngay từ những
ngày đầu mới thành lập Cộng đồng Châu Âu cho đến nay.
EURO ra đời theo một lịch trình được thiết kế hợp lý, thận trọng, thích hợp với sự vận
động của thực tế. Có thể nói, EURO là kết quả của quá trình chuẩn bị lâu dài và tuần tự,
khởi đầu bằng việc sáng lập đơn vị tiền tệ chung của Cộng đồng trên cơ sở tập hợp các đồng
tiền quốc gia thành viên, thường gọi là "rổ" tiền tệ (ECU - 1975), tiếp theo là thành lập và
vận hành Hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS - 1979), rồi đến quá trình triển khai Liên minh
kinh tế và Tiền tệ theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Bắt đầu từ 1-7-1990 và kết thúc vào 31-12-1993. Nội dung chủ yếu của
giai đoạn này là tăng cường phối hợp chính sách tiền tệ quốc gia và rút ngắn sự cách
biệt giữa các nền kinh tế của các nước thành viên. Theo lịch trình của giai đoạn này,
từ 1-7-1990, tư bản được tự do lưu thông trong các nước thành viên EU, từ 1-1-1993,
thị trường nội địa bắt đầu vận hành.
Giai đoạn 2 : Được coi là giai đoạn chuyển tiếp và bắt đầu từ 1-1-1994 đến 31-12-
1998. Theo lịch trình của giai đoạn này, để chuẩn bị cho sự ra đời của Ngân hàng
trung ương châu Âu ở giai đoạn cuối cùng, một Viện tiền tệ châu Âu đã được thành
lập và chính sách tiền tệ vẫn chủ yếu thuộc thẩm quyền của các quốc gia.
Giai đoạn 3 : Từ 1-1-1999 bắt đầu đưa đồng EURO vào lưu hành. Giai đoạn đầu từ
1-1-1999 đến 1-1-2002 đồng EURO chỉ lưu hành không bằng tiền mặt. Từ 1-1-2002
đến tháng 7-2002 bắt đầu lưu hành đồng EURO (1) bằng tiền giấy và tiền kim loại
song song với các đồng tiền bản địa, và từ tháng 7-2002 các đồng tiền bản địa không

13
Tương lai của đồng EURO.
còn tồn tại.
Đồng EURO đã ra đời trong hoàn cảnh rất nhiều thuận lợi. Do cuộc khủng
hoảng tiền tệ (1997) diễn ra ở đâu cũng dính đến đồng dollar nên các nước vừa sợ, vừa ghét
đồng dollar. Khối Đông Nam Á đã bàn đến việc dùng các đồng tiền trong khối để thanh toán
XNK và vay trả giữa các nước trong khối từ năm 1997 để tránh bớt dính dáng đến đồng
dollar. Xu hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ đã đẩy các nước phát triển tới chỗ chọn các
loại ngoại tệ mạnh khác như Mác Đức, Franc Pháp để thay thế cho đồng dollar.
Đồng EURO là tổng hợp sức mạnh của các ngoại tệ mạnh Châu Âu, vì thế đồng
EURO sẽ chiếm phần lớn trong dự trữ ngoại hối của các nước trên thế giới. Bên
cạnh đó, thị trường tài chính nhiều nước chao đảo, đồng EURO ra đời sẽ làm cho thị trường
tài chính Châu Âu hấp dẫn hơn. Vì thế, chỉ mới ra đời đồng EURO đã làm thị trường chứng
khoán Châu Âu lên giá. Hơn nữa, EURO là đồng tiền của một khu vực 300 triệu dân, chiếm
14,9% mức sản xuất và 18,6% thương mại toàn cầu.
II.VAI TRÒ CỦA ĐỒNG EURO
1. Đối với các quốc gia thành viên
Đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá
trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế tiền tệ châu
Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần
hoàn thiện thị trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại,
tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo
bản báo cáo năm 1988 và Uỷ ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi
cho các nước EU khoảng 200 tỷ ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành
viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc
phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như việc các nhà
đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự
phát triển chung của toàn khối.
14

Tương lai của đồng EURO.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ. Để thu hút
ngoại tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế bị phá sản của
Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm cho các nhà tư bản quốc
tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với mục tiêu chống lạm phát,
Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất cả các đồng tiền trong EMS vốn liên
quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng
phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc
đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá
giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào
năm 1992-1993 đã làm cho hệ thống tiền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành
viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu đã làm cho các
nước thành viên EU bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với mục tiêu
thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển
không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách
tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và
phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành
viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà
kinh tế cho rằng việc này sẽ tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1%
GDP của các nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi
hàng hoá bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ
làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử
dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước
EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không còn tình trạng
đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá.
Tuy nhiên, việc ra đời Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) và duy trì đồng tiền
15

Tương lai của đồng EURO.
chung ổn định và mạnh không chỉ có những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho
những nước tham gia EMU;
− Trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ; Việc ngân hàng Trung ương châu Âu
đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước
tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các
nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng.
− Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các nước tham
gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau, mỗi
nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một cuộc
đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để đảm
bảo cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm bảo các chỉ
tiêu EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo
trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu
cho phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân
chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn ra ở
nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho các chính phủ
đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
2. Đối với nền kinh tế thế giới
• Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua
bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng
EURO chi phối. Vào thời điểm hình thành năm 1999, với một nền kinh tế phát triển của 11
nước châu Âu có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm tới 19,6% của thế giới và
18,6% thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối
thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ USD,
chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với GDP là
8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Nếu đồng EURO giữ
được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày
16

Tương lai của đồng EURO.
càng bị suy giảm mạnh.
• Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh vực dự
trữ ngoại tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng
khoán.
Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở
thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu về
dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng
Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng EURO
trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là
Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để
mua thêm đồng EURO (mức độ ít nhiều còn tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng
EURO). Đây có thể là một nhân tố gây tác động làm giảm giá đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó
nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và
USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy
trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà chúng
ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương, trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất khẩu)
dùng nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn chặt với đồng mác
Đức cũng có xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là bằng mác Đức) nay chuyển
sang thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị
giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD
chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU
gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân
tích kinh tế, sau khi ra đời, đồng EURO có thể chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch
và buôn bán quốc tế. Trong buôn bán với Mỹ, các nước EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng
đồng EURO, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với thương mại thế giới khi đồng
EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có xu hướng các nước
cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch ngoại thương với
17

Tương lai của đồng EURO.
nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng
USD trong thương mại thế giới.
Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau
Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm
40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Theo dự đoán của một số
chuyên gia tài chính, có khả năng sau năm 2002 có khoảng 3000 tỷ đô la vốn đầu tư quốc tế
sẽ chuyển sang đồng EURO, trong đó có từ 700 đến 1000 tỷ là từ đồng đô la Mỹ. Do đó, khi
EURO xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới thì trong các giao dịch tại thị trường chứng
khoán và trong việc phát hành công trái, các nước trước hết là các nước EU sẽ dùng EURO,
do vậy nhu cầu về USD trên thị trường tài chính sẽ giảm một cách đáng kể.
Tóm lại, sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới sẽ bị thay đổi cơ bản.
Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả
các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự trữ ngoại tệ ở các quốc
gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây, trên thị trường sẽ xuất hiện thêm
EURO, do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc
giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời của EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ
mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia.
• Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số
rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm
trong quan hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng
EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân tích,
đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước
làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO ổn định và vững
mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ
cần phải có những chính sách bảo vệ và khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc
chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số
thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở
18

Tương lai của đồng EURO.
châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn.
- Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát
triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU
sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước
được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra
đời. Trong mấy năm qua, các công ty lớn của Mỹ và Nhật đã có những biện pháp và chuẩn
bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập được chỗ đứng của mình thông qua các đối tác
nội địa để tận dụng được lợi thế của việc sản xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng
và tránh được thuế nhập khẩu khi liên minh hình thành.
- Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành
viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy
đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi
ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng
những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư bằng đồng tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả
đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng
lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các
nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích
hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO.
III. PHÂN TÍCH CÁC ÁP LỰC ĐỐI VỚI ĐỒNG EURO
1. Vấn đề mở rộng EU
Tính đến nay, Liên minh châu Âu (the European Union, gọi tắt là EU) hiện bao gồm 28
nước thành viên: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Anh, Ai Len, Đan Mạch, Hy
Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo, Thuỵ Điển, Phần Lan, Séc, Hung-ga-ri, Ba Lan, Slô-
va-kia, Slô-ve-nia, Lít-va, Lát-vi-a, Exờ-tô-nia, Man-ta, Síp, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni và Croatia.
Từ khi được hình thành và phát triển cho đến nay, EU không ngừng mở rộng, kết nạp các
thành viên mới. Việc mở rộng gây ra một số áp lực đối với đồng Euro:
- Để kết nạp các nước thành viên mới thì EU cần phải có một khoản tài chính không
phải là nhỏ để giúp các nước này về mặt kỹ thuật và cơ cấu. Chính việc này đã góp
phần dẫn đến tình trạng nợ công khó kiểm soát và ảnh hưởng không nhỏ đến đồng

19
Tương lai của đồng EURO.
Euro.
- Sự chênh lệch về mức sống giữa mặt bằng chung của EU với mức sống của các nước
ứng cử viên được kết nạp mới. Mức sống của công dân trong Liên minh nhìn chung
khá cao, trong khi nền kinh tế của các nước ứng cử viên vẫn còn thấp. Đơn cử như
năm 2000, GDP theo đầu người của Slovenia chỉ bằng 59% bình quân GDP của EU,
tại Ba Lan con số này chỉ tương đương với 31%, ở Hungari là 37% và với Cộng hoà
Séc là 55%.Trình độ phát triển của các nước này vẫn còn chưa tương xứng với mặt
bằng chung của EU, chính vì vậy rất có thể các nước này sẽ là "lực ỳ" cản trở sự phát
triển của châu Âu. Như vậy EU sẽ gặp phải khó khăn khi kết nạp thêm các nước này,
vì nếu xét theo logic thì Liên minh châu Âu sẽ bị giảm sức mạnh của mình. Theo
phân tích của các nhà nghiên cứu, nếu kết nạp thêm 5 nước đầu tiên xin gia nhập thì
GDP bình quân theo đầu người của EU sẽ giảm từ 17.260 Euro xuống còn 15.740
Euro. Do đó, kéo theo việc giảm sức mạnh của đồng Euro.
- Kết nạp quá nhiều các quốc gia có nền văn hoá và chế độ chính trị khác nhau sẽ có
ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện các chính sách chung của châu Âu. Do đó,
việc thực hiện các chính sách để giúp đồng Euro ứng phó với những biến động bất
thường của nền kinh tế sẽ gặp nhiều trở ngại và khó kịp thời. Bên cạnh đó, chính sách
điều hành đồng tiền chung cũng sẽ gặp khó khăn hơn trong quá trình triển khai thực
hiện.
- Một sự biến động về kinh tế, chính trị của bất kỳ một nước nào trong liên minh Châu
Âu cũng sẽ có ảnh hưởng nhất định đến đồng Euro, do đó, càng mở rộng thì áp lực
đối với đồng Euro càng gia tăng, và đồng Euro càng dễ biến động trước sự biến động
của thị trường.
2. Nợ công ở các nước thành viên EU
Có thể nói, hầu hết các quốc gia đều có nợ công, dù ít hay nhiều, tạm thời hay mạn
tính. Nợ công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nhưng sẽ trở thành quốc nạn
khi bắt đầu gây tổn hại đến nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến lạm phát, làm cho quốc gia mất
khả năng thanh toán và các nhà đầu tư mất hết niềm tin…

Nhưng yếu tố thực sự gây ra cuộc khủng hoảng ở châu Âu không phải là nợ công mà là
những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng, cộng thêm chiến dịch tấn công
làm suy yếu đồng euro trên các thị trường quốc tế.
Vậy thực chất nợ công là gì? Theo Jimmy Group, nợ công là tổng giá trị các khoản tiền
mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách. Do đó, nợ công, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính
đến một thời điểm nào đó.
20
Tương lai của đồng EURO.
Để tính toán quy mô của nợ công, các chuyên gia kinh tế thường tính khoản nợ dựa
trên phần trăm so với GDP. Nợ công thường được phân thành nợ trong nước và nợ nước
ngoài. Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính
phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân.
Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì
chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn.
So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng
ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có
thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối
đoái.
Ngoài ra, chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể
chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hay Ngân hàng thế giới (WB). Nhưng
hình thức vay này thường được chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng
vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
Và khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn
thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài.
Cụ thể, chính phủ các nước thường buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay và nếu nợ
nước ngoài lớn thì lại phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và giảm chi tiêu công
– điều kiện tiên quyết để nhận được các gói cứu trợ.
Vì vậy, khi xét đến nợ công, điều cốt lõi không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hằng
năm phải trả mà phải quan tâm đến rủi ro và cơ cấu nợ. Nghĩa là phải tính đến khả năng trả

nợ và rủi ro trong tương lai chứ không phải là con số tổng nợ trên GDP.
Trong trường hợp với các quốc gia ở châu Âu, cuộc khủng hoảng nợ công bắt nguồn từ
những sai lầm trong quản lý hệ thống tài chính của từng quốc gia và của cả EU.
Ví dụ như chính sách tiền tệ của EU không đi cùng với cách thu thuế và lao động và
khi sự cố xảy ra, chính phủ các nước lại chỉ tập trung vào giảm thâm hụt ngân sách nên lại
càng làm gia tăng rủi ro. Đó là chưa kể đến những phản ứng chậm của EU và Ngân hàng
trung ương châu Âu (ECB).
Một nguyên nhân cũng đáng chú ý là phần lớn các quốc gia châu Âu sau một thời gian
phát triển kinh tế ở mức độ trung bình, không có đột phá, lại quá nôn nóng với chính sách
kích cầu và chịu thêm áp lực từ các nhóm tài phiệt nên tạo một mớ bòng bong trong hệ
thống tài chính - ngân hàng.
Một số nhà phân tích kinh tế còn chỉ ra rằng, vấn đề hiện nay ở khu vực châu Âu được
biết đến trên toàn thế giới như là cuộc khủng hoảng nợ công. Nhưng cuộc khủng hoảng thực
sự đang xảy ra lại chính là khủng hoảng nợ nước ngoài.
21
Tương lai của đồng EURO.
Điển hình như ở Bồ Đào Nha, tuy nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách của nước này
chỉ bằng Pháp nhưng do các khoản nợ nước ngoài cao của khu vực tư nhân nên chính quyền
đã buộc phải xin cứu trợ từ EU và ECB. Điều này có nghĩa là trong khủng hoảng, các khoản
nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một
quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ
chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang
mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn
công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản.
Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân
tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách
nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế
rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách – "thắt lưng buộc bụng" – tác động tiêu cực đến tăng
trưởng.

Bên cạnh những nguyên nhân được cho là xuất phát từ bên trong EU, các nhà phân tích
kinh tế cũng nhắc nhiều đến yếu tố tác động từ bên ngoài dưới tên gọi “chiến dịch tấn công
làm suy yếu đồng euro”.
Tháng 2/2010, tức là chỉ một vài tháng sau khi Hy Lạp nổi lên là quốc gia đầu tiên ở
châu Âu có nguy cơ bị phá sản, Bộ trưởng Giao thông và Việc làm Tây Ban Nha Jose
Blanco Lopez đã cảnh báo rằng có một chiến dịch tấn công đồng euro trên các thị trường thế
giới mà mục tiêu nhằm vào Tây Ban Nha.
Khi đó, một số nhà kinh tế học cũng đồng tình với quan điểm này và cho rằng Anh và
Mỹ đã tạo ra chiến dịch này để hạ bệ đồng euro đúng vào lúc đồng tiền này đang giữ thế
thượng phong so với đồng USD trên thị trường quốc tế.
Còn đối với đồng bảng Anh, euro đã “bóp chết” đồng tiền này ở các nước châu Âu. Dù
đây chỉ là một giả thuyết trong vô vàn giả thuyết khác nhau về cuộc khủng hoảng nợ công ở
châu Âu song nếu suy xét cặn kẽ, người ta cũng thấy nó không phải là không có lý.
Bởi lẽ, ngay sau khi Hy Lạp xin giải cứu, đồng euro đã trượt dài theo dốc đi xuống trên
thị trường và đồng USD nhanh chóng lấy lại vị trí độc tôn của mình. Còn đồng bảng Anh thì
trở thành hình mẫu, có nghĩa là nhiều quốc gia muốn được trở lại như Anh, có đồng tiền
riêng để khỏi phụ thuộc vào đồng euro và tránh nguy cơ bị kéo vào hiệu ứng domino của
cuộc khủng hoảng nợ công.
Từ đây, Anh cũng bắt đầu có những động thái tiếp theo, đe dọa tính bền vững của khu
vực Eurozone khi giới chức nước này liên tục tuyên bố xem xét việc rút xứ sở sương mù ra
khỏi EU.
22
Tương lai của đồng EURO.
Chưa hết, thời điểm khủng hoảng của Eurozone, nhất là khi các nền kinh tế bị hạ bậc
tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia
khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay cũng chính là cơ hội cho các hoạt
động đầu cơ tài chính của giới tài phiệt.
Do đó, mớ bùng nhùng của tài chính châu Âu lại càng trở nên rối ren, khiến các quốc
gia liên tục rơi vào vòng xoáy của tình trạng thâm hụt ngân sách, buộc phải tăng thuế, thắt
chặt chi tiêu để rồi lại rơi sâu vào suy thoái…

Theo nhà báo người Đức David Froje, bài học lớn nhất mà thế giới rút ra từ cuộc
khủng hoảng nợ công tại châu Âu là bất kỳ nền kinh tế nào, nếu lơ là quản lý, đều có thể sụp
đổ vì nợ nần.
Qua đây, châu Âu, vốn luôn tự hào là những thể chế minh bạch, cho phép người dân có
thể giám sát mọi hoạt động của chính quyền, lại phải học thêm bài học về tăng cường minh
bạch bởi nhiều chính phủ đã không làm tròn trách nhiệm trong chi tiêu những đồng tiền thuế
của người dân một cách hợp lý và minh bạch.
Và thiếu sự minh bạch ấy, các cơ quan có vai trò giám sát như Quốc hội, các tổ chức
xã hội, công chúng không có đủ thông tin và không thể phản biện, hành động kịp thời.
IV. BÀI HỌC RÚT RA TỪ KHU VỰC ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU CHO
KHU VỰC CHÂU Á
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên minh châu Âu (EU) có những
đặc điểm xã hội và kinh tế rất khác nhau. Căn cứ vào GDP thì sức mạnh kinh tế của EU gấp
hơn 9 lần so với ASEAN. EU bắt đầu tiến trình hội nhập từ năm 1958, một khoảng thời gian
dài trước khi có Tuyên bố Băng Cốc về thành lập ASEAN vào năm 1967. Dù có sự khác biệt
như vậy, nhưng cuộc khủng hoảng nợ ở khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) hiện
nay có thể mang lại cho ASEAN bài học quý giá cho tương lai.
1. Đồng tiền chung Châu Âu và xu hướng của nó trong thời gian tới
Châu Âu được biết đến là nơi có điều kiện sống hàng đầu thế giới với cuộc sống vật chất
và tinh thần rất cao, chế độ chính trị và xã hội khá ổn định, đồng tiền chung của 16 quốc gia
ngày càng khẳng định được vị thế, tạo sự tin cậy, từng bước thay thế vị trí độc tôn của USD
trong gần chục năm qua về thanh toán và dự trữ quốc tế Tỷ trọng của Euro trong quỹ dự
23
Tương lai của đồng EURO.
trữ của các Ngân hàng Trung Ương trên thế giới vào cuối năm 2009 đã lên tới gần 30%, so
với mức 17,9% từ khi ra đời. Nhưng khi một số nước Châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng
nợ, các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau được lộ rõ, thì sức mua của Euro suy giảm sút
mạnh. Tính đến tháng 7/2010, Euro đã giảm giá khoảng 15,7% so với USD, 8,5% so với
GBP và 20% so với JPY… Những gì đang diễn ra bên trong Eurozone, khiến nhiều người
phải đặt câu hỏi về sự gắn kết ở khu vực này.Tương lai của Euro sẽ ra sao? Tiếp tục tồn tại

và phát triển hay đồng tiền chung Châu Âu bị tan vỡ…?
Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010
Nguồn: RatesFX
Nhận định về xu hướng này cho rằng các nước trong khu vực không dễ dàng để Euro
chết yểu, Euro vẫn tồn tại, nhưng sẽ bị giảm giá trong trung hạn. Nhận định này được xuất
phát từ ba lý do sau:
Một là, cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước Eurozone cùng với các kế hoạch cắt
giảm chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế
của eurozone. Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ.
Kế hoạch cứu trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,… sẽ tác
động xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro.
24
Tương lai của đồng EURO.
Vì thế, Châu Âu khó tránh khỏi cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2011 và tình trạng trì
trệ vào những năm tiếp theo. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của khu vực này sẽ chậm hơn các
nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh tế phát triển khác, trong khi lượng
tiền không nhỏ đưa ra để cứu trợ, sẽ đẩy nhanh đà mất giá của Euro.
Hai là, Sự suy giảm niềm tin của giới đầu tư và người tiêu dùng sẽ tiếp tục đặt áp lực
giảm giá Euro. Niềm tin đối với triển vọng kinh tế của 16 quốc gia khu vực sử dụng Euro đã
sụt giảm trong quí 2 và 3 năm 2010. Theo số liệu của IMF, chỉ số niềm tin của giới chủ
doanh nghiệp và người tiêu dùng tại Eurozone đã giảm từ mức 100,6 điểm trong tháng 4
xuống 94,5 điểm trong tháng 6, trong đó, tại Hy Lạp giảm từ mức 69,1 điểm xuống còn 51,9
điểm, tại Bồ Đào Nha giảm từ 93,8 điểm xuống còn 87,1 điểm. Xu hướng giảm giá Euro
càng thể hiện rõ khi Liên minh Châu Âu và IMF phải đưa ra quyết định về việc thành lập
Quỹ cứu trợ khẩn cấp trị giá 1.000 tỷ USD, nhằm ngăn ngừa sự sụt giảm liên tục của Euro
hiện tại và trong tương lai.
Ba là, Khi các gói cứu trợ nhằm giúp các nước trong Eurozone thoát khởi cuộc khủng
hoảng nợ, phục hồi tăng trưởng kinh tế, thì việc Euro suy yếu cũng tạo cơ hội để khu vực
này phát triển. Bởi khi Euro mất giá, hàng hóa nhập khẩu vào Châu Âu trở nên đắt hơn, sẽ
giúp giảm thâm hụt thương mại, đồng thời tăng cường xuất khẩu, cải thiện sức cạnh tranh

25

×