Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bệnh tụ huyết trùng gia cầm ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.34 KB, 5 trang )

Bệnh tụ huyết trùng gia cầm
1. Giới thiệu
Bệnh tụ huyết trùng gia cầm (THTGC) là bệnh truyền
nhiễm do vi khuẩn tụ huyết trùng (Pasteurella multocida)
gây ra ở tất cả các loài gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng và ở
các lứa tuổi đều có thể mắc bệnh. Tỷ lệ chết có thể lên tới
80-90% nếu không can thiệp thuốc kháng sinh kịp thời.
Bệnh xảy ra quanh năm nhưng thường tập trung nhất vào
những lúc giao mùa như từ mùa xuân sang hè và thu sang
đông ở miền Bắc và từ mùa mưa sang mùa khô (hoặc
ngược lại) ở miền Nam. Bệnh có thể lây nhiễm trực tiếp từ
gia cầm mắc bệnh sang gia cầm mẫn cảm hoặc qua gián
tiếp như dụng cụ chăn nuôi, côn trùng, người chăn
nuôi…vv.
2. Triệu chứng lâm sàng
Khác với hầu hết các bệnh mà ta thường gặp trên gia cầm
như bệnh Newcastle, dịch tả vịt (DTV), bệnh do E.coli,
bệnh Gumboro… gà, vịt khi mắc bệnh tụ huyết trùng, trong
ổ dịch thường chết bất ngờ, không có biểu hiện triệu chứng.
Sau 2-3 ngày trong đàn gia cầm có hiện tượng bỏ ăn, lười
vận động, tiêu chảy phân trắng lẫn máu, thở khó, sốt cao ở
một số con trong đàn (biểu hiện này xảy ra ở vịt rõ hơn gà),
vào giai đoạn cuối số gà, vịt bị tiêu chảy phân trắng nhớt,
viêm khớp tăng lên.
3. Bệnh tích
Tim xuất huyết vệt hoặc lấm tấm ở vành tim, cơ tim, bao
tim có dịch vàng, phổi xuất huyết, bề măt gan có điểm hoại
tử lấm tấm nhỏ bằng đầu đinh ghim hoặc là vệt sáng tối dọc
theo chiều dài gan, gan không sưng, buồng trứng xuất
huyết, ruột xuất huyết từng mảng lớn hay lấm chấm, dịch
ruột chứa phân có lẫn máu, viêm khớp cẳng chân hay đùi


(hay gặp trong những trường hợp mãn tính)
4. Chẩn đoán
Khác với các bệnh gia cầm khác, bệnh THTGC có dấu hiệu
đầu tiên của ổ dịch là: chết xảy ra bất ngờ (đang đẻ, đang
ăn). Triệu chứng này chỉ giống với bệnh cúm gia cầm
(CGC), nhưng sang đến ngày thứ 2 trở đi các triệu chứng
có thể phân biệt được rõ như gia cầm bị cúm biểu hiện liệt
xoắn vặn cổ, co giật, mí mắt phù nề, lớp da gần khớp chân
gà xuất huyết trong khi đó bệnh THTGC không có những
biểu hiện này. Bệnh THTGC, gan có chấm hoại tử giống
như gan bệnh CGC, nhưng gan không sưng, bở, bụng
không chứa nhiều dịch vàng có hồng cầu như bệnh CGC và
dạ dày tuyến, cơ không có vệt hay điểm xuất huyết như
bệnh NCX, DTV, CGC. Lá lách không sưng như bệnh do
Salmonella, hay bệnh CGC. Tuyến fabricius của gà trong
bệnh THTGC cũng không sưng như trong bệnh Gumboro.
5. Phòng ngừa và điều trị
Cần giữ cho gia cầm không bị stress. Chuồng trại phải
thông thoáng, sạch sẽ, thức ăn đầy đủ dưỡng chất và
vitamin, nước cung cấp phải sạch, không để con vật quá
nóng hoặc lạnh. Thực hiện chặt chẽ nội qui về an toàn và
vệ sinh thú y trong chăn nuôi, con người, dụng cụ trang
thiết bị khi tiếp xúc với gia cầm phải bảo đảm an toàn dịch
bệnh. Không nuôi các vật khác loài cùng trại.
Chủ động phòng bệnh bằng vacxin cho gia cầm, đặc biệt
trước các thời điểm chuyển mùa. Hiện nay vacxin THTGC
do Công ty Thuốc thú y TW–NAVETCO sản xuất là
vacxin vô hoạt với chất bổ trợ là keo phèn hoặc nhũ dầu.
Vacxin được sản xuất dùng chủng phân lập từ các ổ dịch
THTGC tại Việt Nam nên có tính tương đồng kháng

nguyên cao và hiệu quả bảo hộ của vacxin rất tốt so với
vacxin nhập từ nước ngoài vào hoặc vacxin chế tạo trong
nước nhưng dùng chủng vi khuẩn của nước ngoài. Liều
vacxin được sử dụng từ 0,5 – 1ml/con/tiêm dưới da hoặc
bắp thịt. Đối với đàn gia cầm giống nên sử dụng vacxin nhũ
dầu.
Trong trường hợp, đàn gia cầm khỏe mạnh, nhưng đang
trong vùng dịch và có nguy cơ cao, ngoài bổ sung kháng
sinh trực tiếp vào thức ăn hoặc nước uống, nên tiến hành
tiêm vacxin cho toàn đàn. Đối với đàn gia cầm bị mắc
bệnh, cần nhanh chóng sử dụng kháng sinh với liệu trình 3-
5 ngày, đồng thời bổ sung vitamin, dung dịch điện giải giúp
nâng cao sức đề kháng con vật, tăng hiệu quả điều trị. Sau
thời gian điều trị, tuy tình hình sức khỏe của đàn gia cầm.
Kết hợp với các biện pháp nêu trên, cần tiến hành công tác
tiêu độc khử trùng chuồng trại và môi trường xung quanh
bằng các loại thuốc thông dụng như nhóm Navet –
Benkocid, Navet- Kons, Navet-Iodine.

×