Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

HÓA CHẤT DÙNG TRONG NÔN NGHIỆP- THUỐC BVTV VÀ PHÂN BÓN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.85 KB, 6 trang )

HÓA CHẤT DÙNG TRONG NÔN
NGHIỆP- THUỐC BVTV VÀ PHÂN BÓN


Đạm nitrat với cây lúa nước

HCNN - Phân đạm chủ yếu ở 2 dạng:
Nitrat (NO
3
-
) và Amôn (NH
4
+
). Cây trồng
hấp thu, sử dụng 2 dạng đạm này như
thế nào, sự thất thoát khi bón vào ruộng
lúa ra sao? Các ứng dụng trong sản xuất
phân bón? Đó là những nội dung mà TS
Katja Bogdan thuộc Trung tâm nghiên
cứu Hanninghof của Tập đoàn phân bón
Yara đã trình bày tại cuộc hội thảo mới
đây tại Cần Thơ.
DẠNG AMÔN THẤT THOÁT NHIỀU HƠN
DẠNG NITRAT
Nghiên cứu của Dobermann & Fairhurst
cho thấy, để có năng suất 6T/ha, cây lúa
cần 162kg N/ha, trong đó có 115kg N từ
phân bón, 2kg N từ nước mưa, 5kg N từ
nước tưới và 40kg N từ cố định khí N
2
. Tuy


nhiên cây chỉ sử dụng 63kg N cho hạt lúa,
40kg N cho rơm rạ, còn lại 60kg N bị thất
thoát do trực di (10kg) và bay hơi (50kg).
Với dạng đạm Amôn, sự thất thoát là do
quá trình bay hơi khi NH
4
+
chuyển đổi thành
NH
3
(khí amoniac). Còn với đạm Nitrat, sự
thất thoát là do quá trình khử nitrat: NO
3
-
(
NO
2
-
( N
2
O ( N
2
. Con đường thất thoát nào
xảy ra mạnh hơn?
Hiện tượng bay hơi NH
3
xảy ra ngay sau
khi chúng ta bón urê hay đạm amôn vào
ruộng. Sự thất thoát này phụ thuộc vào
nhiệt độ, gió và đặc biệt là độ pH của nước

ruộng. Ban ngày khi tảo quang hợp thì pH
tăng, làm tăng sự mất đạm; ban đêm, lúc
tảo hô hấp thì pH giảm, sự mất đạm cũng
giảm theo. Việc rải phân vào những chân
ruộng cạn, có mật độ thực vật thủy sinh
cao, ánh sáng dối dào có thể làm thất thoát
đến 60% lượng đạm amôn do bay hơi NH
3
.
Quá trình khử Nitrat trong ruộng lúa diễn ra
chậm hơn và xảy ra ở tầng đất khử (cách
lớp đất mặt chừng 0,5 – 1 cm và dày từ 10
– 20 cm), do hoạt động của các vi sinh vật.
Đất càng yếm khí thì quá trình khử diễn ra
càng mạnh, do vậy có một số người tưởng
rằng nếu sử dụng đạm amôn hay urê sẽ
tránh được hiện tượng khử nitrat và từ đó
giảm được sự mất đạm.
Trên thực tế thì sự thất thoát đạm qua con
đường khử Nitrat ít hơn và chậm hơn so
với dạng amôn. Đặc biệt, dạng đạm Nitrat
lại thích hợp cho cây lúa ở giai đoạn cây
cần nhu cầu đạm cao, như giai đoạn làm
đòng, do đó lượng đạm thất thoát qua con
đường khử nitrat là rất ít. Khảo sát của các
nhà khoa học IRRI trên phân urê và
KNO
3
năm 1990 và 1991 cho thấy, sau 11
ngày, 50% lượng phân đạm Amôn bón vào

ruộng bị mất do bay hơi NH
3
, trong khi đó
lượng N bị mất do khử Nitrat chỉ vào
khoảng 20%.
CÂY SỬ DỤNG NITRAT NHIỀU HƠN
AMÔN
Nghiên cứu trên cây lúa trồng trong chậu
của Kronzucker công bố năm 2000 cho
thấy “khẩu vị“ cây lúa thích dạng đạm NO
3
-
hơn NH
4
+
. Trong điều kiện nồng độ NO
3
-
và NH
4
+
như nhau và trong cùng thời gian,
thì lượng NO
3
-
đi vào rễ của giống lúa IR72
bốn tuần tuổi cao gần gấp đôi so với lượng
NH
4
+

. Nghiên cứu của Duan năm 2007 cho
biết thêm, chính sự có mặt của NO
3
-
đã
kích thích cây hấp thu NH
4
+
nhiều hơn 20-
30%.
Ngoài ra ở môi trường nhiễm mặn, các
nghiên cứu của nhiều tác giả trên hầu hết
các loại cây đều cho thấy dạng đạm Nitrat
có tác dụng tích cực làm giảm sự hấp thu
Clo, trong lúc dạng Amôn lại làm tăng khả
năng hấp thu Clo, do vậy bón phân đạm
dạng nitrat có bổ sung canxi sẽ giúp giảm
thiểu tác hại của mặn và tăng chất lượng
nông sản.
ỨNG DỤNG TRONG SẢN XUẤT
Mặc dù cần có nhiều nghiên cứu sâu hơn
để giải thích rõ ràng những biểu hiện trên,
nhưng kết quả sơ bộ của những thí nghiệm
đã chứng tỏ việc sử dụng phối hợp giữa 2
dạng đạm Nitrat và Amôn chắc chắn sẽ
mang lại hiệu quả cao hơn so với sử dụng
từng dạng riêng lẻ. Tập đoàn Yara đã tiên
phong trong lĩnh vực này, bằng cách sản
xuất ra những loại phân chứa cả 2 dạng
đạm như nhóm sản phẩm YaraMila,

YaraMila Winner, YaraMila Grower,
YaraMila Unik15 để sử dụng cho nhiều loại
cây trồng, trong đó có cây lúa.
Kết quả bón phân theo quy trình Yara
khuyến cáo cho cây lúa nước, với các loại
phân chứa đạm Nitrat có bổ sung canxi tại
các nước châu Á như Indo, Thái Lan, Ấn
Độ, Philippine và Việt Nam đều ghi nhận
mức tăng năng suất từ 10 - 20% so với đối
chứng. Biểu hiện rõ nhất của các kết quả
này là rễ phát triển mạnh hơn, khả năng
chống lốp đổ tốt, ít bị sâu bệnh, giảm hiện
tượng ủ lá chân, bông lúa to và tỉ lệ hạt
chắc cao hơn.


×