Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Kỹ thuật nuôi cá chình thương phẩm trong ao pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.52 KB, 15 trang )

Kỹ thuật nuôi cá chình thương phẩm trong ao
Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ
mặn nên có thể sống được ở nước mặn, nước lợ,
nước ngọt. Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban
ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh
sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác.
Da và ruột cá có khả năng hô hấp nên ở nhiệt độ <15
độ C, cá có thể sống được khá lâu khi da cá ẩm ướt.
Trời mưa cá hoạt động rất khoẻ bò trườn khắp ao.


Cá chình là loài cá rộng nhiệt (từ 1 – 38 độ C), nhưng
trên 12 độ C cá mới bắt mồi. Nhiệt độ phù hợp cho sinh
trưởng là 13 - 30 độ C, thích hợp nhất là 25 - 27 độ C.
1. Ao nuôi
Diện tích trung bình 800 – 1.200 m2, mức nước trung
bình 1,0 – 1,2 m. Bờ ao phải cao hơn mặt nư
ớc cao nhất
trong ao ít nhất là 60cm. Ao không rò rỉ, nước trong
sạch, pH>6,8, ít bị ảnh hưởng của nước mưa. Ðáy ao là
cát hoặc cát bùn.
2. Mật độ thả:
Chỉ thả giống sau khi tẩy dọn ao kỹ. Thời điểm thả từ
trung tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 4, khi nhiệt độ
nước > 130C. Mật độ thả tùy thuộc vào điều kiện ao
nuôi, phương thức nuôi và kích thước cá giống.
Nếu muốn đạt năng suất 15 tấn/ha, thả 12-15 con/m2
(cỡ 20g/con) hoặc 9-12 con/m2 (cỡ 50g/con). Nếu muốn
đạt năng suất 100 tấn/ha, thả 300-350 con/m2.
3. Quản lý ao nuôi:
3.1. Thức ăn và cho ăn





Có thể sử dụng 2 loại thức ăn là tươi và thức ăn công
nghiệp. Cho ăn theo nguyên tắc 4 định: định chất, định
lượng, định thời gian, định địa điểm.
+ Định chất: Thức ăn có độ đạm . Nếu dùng thức ăn
tươi, cần phải tươi, rửa sạch, sát trùng kỹ sau đó c
ắt nhỏ
mới đem cho ăn. Thức ăn nuôi cá Chình phải có tỷ lệ
đạm 45%, mỡ 3%, cellulo 1%, can xi 2,5%, phôtpho
1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích
hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 - 75%, tinh
bột 25 - 30% và một ít vi lượng, vitamin.
Thức ăn tươi sống là cá, trai, hến. Trước khi cho ăn, cần
trần cho thịt cá gần chín sau
đó dùng dây thép xâu xuyên
lại treo trong ao. Cũng có thể bỏ cá vào trong lồng lưới
sắt. Nếu cho ăn trai hến thì nên thái thành miếng nhỏ
cho ăn.
Thức ăn tổng hợp nên lấy thức ăn động vật làm chính,
thí dụ như bột cá, nhộng tằm. Cá Chình không ăn thức
ăn chìm xuống dưới đáy bị ô nhiễm, do đó thức ăn tổng
hợp không chìm, không bị rữa mới tốt. Nguyên liệu phụ
có thể là khô dầu, các chất khoáng, vitamine, bột máu,
men v.v Để cho thức ăn tổng hợp lâu tan trong nước
có thể dùng bột củ đậu, khoai lang đánh nhuyễn trộn với
thức ăn đã nghiền sẵn.
Bổ sung dưỡng chất:
Thời gian tiêu hóa hết thức ăn của cá Chình là 6 giờ.

Thông thường người ta phải trộn thêm vào thức ăn cá
Chình một ít men bia, men tiêu hóa đường, elisa của
khuẩn đơn bào và vi khuẩn sống trong ruột v.v…
• Men bia: là hỗn hợp các nấm men và bã bia sau khi đã
sấy khô. Men bia chứa 40–50% protein thô, 1 lượng lớn
vitamine nhóm B và kích tố sinh trưởng chưa bi
ết tên. Có
thể phối hợp với tỷ lệ 2 – 3%.
• Men đường mật: Chứa nhiều sinh tố nhóm B, thu được
bằng cách phun trong chân không ở nhiệt độ thấp. Có
mùi rất thơm, làm tăng tính ăn của cá Chình.
• Elisa của khuẩn đơn bào: thu được trong quá trình lên
men đường củ cải, có vị thơm ngọt của men, cho cảm
giác ngon, có nhiều các protein, chất khoáng, vitamine
và nhiều chất kich thích sinh trưởng chưa biết tên. Chất
này dễ tiêu hóa, cá Chình thích ăn. Hàm lượng protein
thô trên 65%, chất béo thô trên 4,5%. Tỷ lệ pha trộn vào
thức ăn khoảng 1 – 2%.
• Hỗn hợp các vi khuẩn sống bao gồm các chủng
Lactobacillus.sp, Pediococcus acidilatici cùng với các
chất nuôi cấy. Mỗi gam hỗn hợp này có khoảng trên
120.000 vi khuẩn sống. Nó có tác dụng tăng cường hấp
thụ chất dinh dưỡng ở phần ruột non và gia tăng nhu
động phần ruột già rút ngắn thời gian tiêu hóa thức ăn.
Trong ruột cá những vi sinh vật này sẽ cạnh tranh với
các vi sinh vật có hại về mặt không gian và chất dinh
dưỡng làm cho chúng không phát triển được thậm chí bị
tiêu diệt. Đặc biệt là loài Pediococcus acidilatici có tính
kháng cự khá mạnh, sức ức chế vi sinh tạp có thể mạnh
gấp 10 lần vi khuẩn Lactobacillus.

• Các chất bổ gan, mật:
Để tăng cường chức năng tiêu hóa, khả năng chịu đựng
điều kiện chất lượng nước kém do nuôi với mật độ cao
hoặc lạm dụng sử dụng hóa chất cần thiết phải bổ sung
vào thức ăn một lượng thuốc bắc, axit mật (bile acid) và
những chất bổ gan mật khác.
+ Sài hồ (Bupleurum chinense) có tính đắng, hơi hàn, có
chứa nhiều steroidal saponins, các loại axit béo thăng
hoa, có tác dụng kháng virus, diệt ký sinh trùng và giữ
cho gan khỏi bị tổn thương.
+ Bản lam căn (Radix Isatidis ) tên tiếng Anh là
Indigowoad Root có vị đắng, tính hàn. Thành phần chủ
yếu gồm có Indican có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Mỗi
kg thức ăn bổ sung độ 10 – 15g thuốc này.
+ Axit mật (Bile acid): có thể xúc tiến hấp thụ mỡ,
vitamine, cholesterol. Giải các chất độc trong thức ăn có
nhiều mỡ để lâu ngày. Mỗi tấn thức ăn bổ sung khoảng
100g.
+ Định địa điểm: phải cố định vị trí đặt sàng cho
ăn. Sàng
cho ăn là khung hình vuông kích cỡ 90 x 50 cm căng
lưới nilon, mắt lư
ới to nhỏ phụ thuộc vào kích cỡ cá. Nên
đặt sàng ăn ở chỗ tối, kín gió.
+ Định lượng: Thức ăn tươi mỗi ngày cho ăn 20 – 30%
tổng khối lượng cá trong ao; thức ăn chế biến hoặc thức
ăn công nghiệp cho ăn 3 – 4% tổng khối lượng cá trong
ao. Khi nhiệt đ
ộ thấp hoặc quá nóng vào mùa hè (trên 30
độ C) nên giảm bớt khẩu phần. Yêu cầu thức ăn thả

xuống sau 20 phút phải ăn hết.
+ Định thời gian: cho ăn 1 lần vào lúc 9 giờ sáng.
5 phút sau khi trộn đều thức ăn với dầu, nước, cho cá
ăn
ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi
xuống khay đựng thức ăn là được.
Sàn cho ăn nên đặt ở vị trí giữa hoặc gần đáy, nhưng
cũng có thể để sát tầng mặt để tiện quan sát hoạt động
bắt mồi của cá. Bên trên sàn cho ăn nên che ánh nắng
mặt trời. Cho ăn vào lúc 8 – 9 giờ sáng và 4 – 5 giờ
chiều.
Đề phòng cá Chình bỏ ăn, có thể dùng các ph
ương pháp
sau:
• Phải che nơi cho ăn.
• Cần tăng thêm điểm cho ăn để số cá thể tản mát vẫn
có thể tìm được thức ăn.
• Có thể đưa thức ăn vào lồng có kích cỡ mắt lưới khác
nhau để cá to không cạnh tranh thức ăn với cá nhỏ.
• Nên có biện pháp phòng bệnh sớm đối với các loại
bệnh như: bệnh đốm trắng, trùng bánh xe, sán lá
Dactylogyrus v.v…Nếu những loài này ký sinh sẽ làm
cho chúng yếu dễ tạo điều kiện con khác ăn thịt.
• Trong cùng một ao nên thả cá giống cùng cỡ, cá nhỏ
rất dễ bị cá lớn truy đuổi, suốt ngày trốn tránh, không
kiếm được thức ăn. Nên phân loại cá hàng tháng.
3.2. Lọc phân đàn
Định kỳ phân cỡ cá 1 tháng/lần, tách con lớn, con nhỏ
nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn. Trước khi phân
cỡ để cá nhịn từ 1 - 2 ngày, lùa ao để cá bài tiết hết thức

ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, không
dùng tay bắt cá.
3.3. Quản lý chất lượng nước:
Ao nuôi năng suất 15 tấn/ha cần lắp bộ sục khí 1,5 – 2,0
kw cho 1000 m2. Căn cứ vào thời tiết cụ thể mà mỗi
ngày mở máy 3 – 4 lần giúp cho ôxy phân phối đ
ều trong
các tầng nước. Trước khi cho cá ăn, nên mở sục khí đề
phòng thiếu ôxy cục bộ do cá tập trung ăn tại một chỗ.
Nếu có điều kiện thì nuôi bằng nước chảy. Nếu nuôi
trong ao nước tĩnh, cần thay 1/10 lượng nước trong ao
khi nhiệt độ cao. Nên thay nước vào lúc trời mát. Khi có
mưa to hoặc nước lũ, cần ngừng cho ăn, không thay
nước. Trường hợp ao bị nước lũ tràn vào, nên dùng
thuốc tím 1,5 ppm hoặc vôi sống 15-20 ppm để ổn định
chất lượng nước. Không nên sử dụng nước lũ để thay
nước ao.
3.4. Bệnh thường gặp và cách phòng trị:
+ Khống chế tần số cho ăn: Mùa hè cá ăn mạnh nên
cũng dễ cho ăn thừa thức ăn. Một khi ăn quá nhiều gan
của cá phải làm việc nhiều khiến cho khả năng kháng
bệnh giảm, nhất là về mùa hè cá dễ bị mắc các chứng
viêm ru
ột và nhiều chứng bệnh khác vì vậy khẩu phần về
mùa hè nên giảm chỉ còn 70-80% so với ngày thường.
+ Sử dụng thuốc phòng trừ dịch bệnh về mua hè cần
phải chú ý vì tác dụng của thuốc phụ thuộc nhiều vào
nhiệt độ. Thí dụ thuốc tẩy trùng có gốc clo mỗi khi nhiệt
độ nước tăng 10 độ C thì tác dụng của thuốc tăng lên
gấp đôi. Vì vậy về mùa hè lượng thuốc sử dụng phải

giảm bằng 2/3 hay ½ so với thông thường.
+ Mùa này sử dụng đông nam dược là chủ yếu. Hoạt
tính của các loại thuốc này không phụ thuộc vào nhiệt
độ, không để lại dư lượng trong sản phẩm. Tiện đây xin
giới thiệu 2 bài thuốc đông nam dược như sau:
Phòng trị bệnh viêm ruột: hoàng liên 2 g; hoa kim ngân 5
g; rễ bản lan 5 g; cỏ ngư tinh 5 g; rau rền răng ngựa 5 g;
cỏ quỷ châm 5 g; sơn trà dại 3 g; đun lấy nước trộn với
mỗi kg thức ăn cho ăn trong 7 ngày.
Phòng trị bệnh nát mang: hoàng liên, đại hoàng, xuyên
tâm liên, bản lan căn, ngũ bội tử mỗi loại 5 ppm sắc lấy
nước rắc đều khắp ao trong vòng 18 giờ.
3.4.1. Bệnh bại huyết mất nhớt:
Xảy ra trên cá Chình châu Âu (Angilla angilla). Phương
pháp phòng bệnh chủ yếu là thả thưa và lọc cá phân
đàn
kịp thời. ngoài ra phải khống chế chế độ cho ăn. Không
cho ăn quá nhiều. Phải định kỳ khử trùng và điều chỉnh
chất nước loại trừ NH3 ra khỏi hồ nuôi. Kịp thời lọc cá
bênh ra khỏi hồ nuôi, diệt trừ ký sinh trùng. Khi chữa
bênh đầu tiên nên loại trừ ký sinh trùng, khi bệnh phát
triển mạnh mới nên sử dụng thuốc kháng khuẩn mới có
thể khống chế bệnh tình và giảm tổn thất do cá chết.
3.4.2. Bệnh nát ruột:
Xảy ra ở cá Chình Nhật bản (A. japonica): đã phân lập
được 2 loại vi khuẩn là Vibrio gây thương tích và Vibrio
cá Chình nhưng chưa rõ tác nhân gây bệnh. Bệnh này
thường xảy ra ở những ao nuôi không ngọt hoá hoàn
toàn khi nhiệt độ nước xuống dưới 20 độ C, tức là vào
khoảng từ tháng 12 đến tháng 4. Khi nhiệt độ nước cao

hơn 23 độC, bệnh không xảy ra. Tỷ lệ tử vong của bệnh
này khoảng 0,1%- 0,5%. Biểu hiện của bệnh là tia vây
xuất huyết màu đỏ, hậu môn sưng đỏ, màu sắc vùng
thân ngực bạc sưng lên hoặc rữa nát. Do tốc độ lây lan
nhanh làm cho tỷ lệ tử vong cao. Phương pháp phòng
bệnh chủ yếu là giữ cho nước hồ sạch sẽ, định kỳ khử
trùng. Khi cá bị bệnh có thể dùng chất khử trùng chứa
clo rắc khắp ao. Dùng Oxytetracycline cùng với bột tam
hoàng và ngũ bội tử tắm cho cá bị bệnh 36-48 giờ. Tuy
nhiên cách trị tốt nhất là nâng nhiệt nước ao lên 23-25
độ C trong vòng 10 ngày bệnh sẽ hết.
3.4.3. Bệnh sán lá:
Đây là ký sinh trùng ký sinh chủ yếu ở mang cá Chình.
Ký sinh trùng không trực tiếp gây chết cá nhưng ảnh
hưởng đến khả năng bắt mồi. Nếu số lượng ký sinh
trùng nhiều sẽ làm cho mang bị thối rữa dẫn đến chứng
bại huyết hoặc mốc nước.
Thông thường do sử dụng thuốc diệt trùng không đúng
cách làm cho cá Chình châu Âu bơi lội cấp tốc dẫn đến
cá chết do chứng mất nhớt, bại huyết .
Phương pháp phòng bệnh chủ yếu là tẩy trùng định kỳ.
Khi sử dụng phải dùng đúng nồng độ, kết hợp nhiều loại
thuốc tẩy cùng một lúc để đề phòng hiện tượng kháng
thuốc. Sau khi tẩy trùng phải dùng ngay thuốc giải độc
để khỏi ảnh hưởng sức khoẻ cá.
3.4.4. Bệnh trùng quả dưa:
Bệnh này còn gọi là bệnh đốm trắng hiện chưa tìm được
loại thuốc hữu hiệu nào thay thế loại thuốc đã bị cấmmà
chỉ dùng thuốc đông nam dược kết hợp với hợp chất I-ôt
hoá trị cao (5+) 35-60 ml/m3 và muối ăn tắm trong thời

gian dài để khống chế. Thay nước 1 lần/ngày, làm liên
tục như vậy 3-5 ngày.
3.4.5. Một số bệnh do trúng độc:
a/ Trúng độc do đạm amôn:
Nguyên nghân: do nồng độ đạm amôn và nitrit quá cao
dẫn đến trúng độc cấp tính hoặc mãn tính.
Cá bị trúng độc phân tán gắp thức ăn rồi lại nhả ra, bơi
lội yếu ớt. Trường hợp nghiêm trọng cá ở tư thế treo
thẳng đứng đuổi không chạy. Khi mổ cá phát hiện nội
tạng như mật gan, lá lách đều xưng tấy.
Bệnh này thường xảy ra khi nuôi mật độ cao vào mùa
nóng, hiện tượng trúng độc mang tính cấp. Mùa đông
cũng có thể xảy ra do tiết kiệm thay nước, thả với mật đ

cao hiện tượng trúng độc sảy ra từ từ. Ở những nơi có
nguồn nước tốt, thay nước được thường xuyên ít gặp
trường hợp này.
Trúng độc cấp tính dẫn đến cá chết hàng loạt, trúng độc
mãn tính cá chết ít và từ từ nhưng ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính ăn và tốc độ lớn cả đàn cá.
Đề phòng bệnh này nên thay nước thường xuyên, giảm
mật độ nuôi đến độ thích hợp. Ao nuôi 2 – 3 năm v
ớt bùn
một lần. Mùa hè nhiệt độ cao nên giảm lư\ợng thức ăn.


Khi cá bị bệnh có thể bón vôi với liều lượng 20 ppm, mỗi
ngày 1 lần liên tục trong 3 ngày. Rải thuốc tím khắp ao
với liều lượng 2 – 3 ppm liên tục trong 3 ngày. Cũng có
thể dùng methylengreen-basic-blue 1,5 – 2,0 ppm liên

tục trong 2 – 3 ngày hoặc sử dụng chế phẩm sinh học đ

loại trừ đạm amôn và đạm nitrit.
b/ Trúng độc do lân hữu cơ: Nguyên nhân của sự trúng
độc này là do sử dụng quá nhiều thuốc sát trùng có ch
ứa
lân hữu cơ hoặc do thuốc trừ sâu dùng trong nông
nghiệp vào trong ao qua đường nguồn nước cấp.
Triệu chứng trúng độc nếu nhẹ thấy mầu cá biến thành
mầu trắng, ăn bình thường. Nhưng nếu nặng thì số
lượng cá trắng thân tăng, sức ăn giảm bớt. nếu vớt cả
chuyển sang nơi có chất nước bình thường thì những cá
thể này chuyển sang màu bình thường sau 2 – 3 giờ.
Trường hợp trúng độc nghiêm trọng hơn thì đầu cá quay
xuống dưới hoặc bơi lùi lại phía sau. Cá biểu hiện bơi lội
yếu ớt bị động trôi theo dòng nước tập trung đến cống
tháo nước. Thân cá mất nhớt, có thể lấy tay vớt được
cá. Khi vớt cá trên tay cá có biểu hiện cơ co rút. Cá biệt
có con nhô đầu lên khỏi mặt nước há mồm, sau đó chìm
xuống đáy hồ chết.
Cá chết thân cứng, mồm há, mang xung huyết nặng.
Giải phẫu cá chết thấy gan có mầu vàng, mật xưng to,
ruột xuất huyết. Trường hợp trúng độc này thường sảy
ra vào các tháng 7 – 8 lúc nông nghiệp sử dụng nhiều
hóa chất. Biểu hiện nhiễm độc rõ nhất đối với cá cỡ nhỏ
dần đàn đến cá lớn.
Bệnh này loài cá Chình nào cũng mắc. Tỷ lệ chết và tổn
hại kinh tế rất cao. Muốn tránh hiện tượng này cần lưu ý
đến chất lượng nguồn nước khi thay nước đặc biệt vào
mùa vụ nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất, đồng thời

tránh dung những loại thuốc có độc tính lân hữu cơ cao.

Khi phát hiện cá bị nhiễm độc cần lập tức thay nước. Sử
dụng Atropine Sulfate hay Anisodamine 20 – 25 viên/m3
nước để giải độc. sang ngày thứ hai sau khi thay nước
cũng sử dụng nhưng loại thuốc trên nhưng giảm 1/2 liều
lượng. Sau đó bổ sung các loại hóa chất làm s
ạch nguồn
nước khác cho đến khi cá ăn trở lại bình thường. Trư
ờng
hợp nghiêm trọng có thể dùng thêm muối ăn, methylen-
green-basic-blue, sinh tố C và một số thuốc thảo dược
giải độc khác. Sau khi làm các đ
ộng tác trên nên bổ sung
vào thức ăn Atropine Sulfate, Anisodamine hay thuốc trợ
gan để ổn định giải độc cho gan cá.
c. Ngộ độc kim loại nặng
Các kim loại nặng như kẽm, đồng, thủy ngân có thể làm
cho cá Chình trúng độc. Nguyên nhân dẫn đến có thể do
sử dụng ống dẫn nước mạ kẽm bị sét gỉ tan vào nước.
Thủy ngân và đồng chủ yếu do sử dụng hóa chất trong
quá trình nuôi có thành phần các chất này vượt quá liều
cho phép.
Triệu chứng nhiễm độc kim loại nặng là cá hoạt động bất
thường, bơi lội cấp tốc nhát gừng, mất phương hướng,
đầu luôn nhô khỏi mặt nước. Màu sắc thân cá trở nên
xẫm, mang đỏ thẫm. nhìn qua kính hiển vi thấy màu máu
ở mang cũng thẫm. Cá bệnh ra khỏi nước có tình trạng
co giật, cơ toàn thân bị co cứng. Cá bơi lội yếu ớt, bị
cuốn theo dòng nước đến cửa tháo nước. Cá chìm dưới

đáy bể có dạng như chuột rút, vây hậu môn xung huyết.
Cá bệnh bỏ ăn, gan mầu bạc, mật xưng to, lách xưng to.

Trường hợp trúng độc do nguồn nước từ bên ngoài chủ
yếu sảy ra đối vói cá Chình cỡ nhỏ, nhạy cảm đ
ối với kim
loại nặng. Nếu thể tích nước nhỏ nồng độ kim loại nặng
sẽ cao do đó tình trạng sẽ nghiêm trọng. Trường hợp sử
dụng thuốc quá liều đẫn đến ngộ độc cho cá vẫn thường
sảy ra. hệ quả của tình trạng này làm cho cá chết nhiều,
hoặc ít ra cũng ảnh hưởng tới tính ăn và sức sinh trư
ởng
của cá.
Để tránh ngộ độc kim loại nặng không nên sử dụng ống
nước mạ kẽm. sử dụng hóa chất phải tuân thủ theo
hướng dẫn, đặc biệt cẩn thận khi sử dụng đối với cá cỡ
nhỏ.
Khi chắc chắn cá bị trúng độc kim loại nặng nên lập tức
thay nước. Sau khi thay nư
ớc dùng muối natri của EDTA
để khử kim loại nặng. Đồng thời tắm cho cá bằng nước
muối 4 – 5‰ , sau 18 – 20 giờ thay nước cho thêm một
ít thuốc kháng sinh aureomicine 2 – 3 ppm trong vòng 2
– 3 ngày, cá sẽ hồi phục nhanh chóng.
3.4.6. Cách phòng và ứng phó với bệnh:
 Tăng cường biện pháp khống chế ký sinh trùng: Định
kỳ kiểm tra cá xác định tỷ lệ cảm nhiễm ký sinh trùng.
Nếu tỷ lệ cảm nhiễm cao phải xử lý ngay. Về mùa mưa
chất lượng nguồn nước có nhiều thay đổi cần tăng
cường kiểm tra. Khi dùng thuốc diệt ký sinh trùng cần

nghiêm chỉnh tuân thủ chất lượng và liều sử dụng tránh
làm cho cá bị sốc do quá liều. Thông thường sau khi
dùng thuốc lần thứ nhất độ 1 tuần phải lặp lại để tiêu diệt
n
ốt ấu trùng ký sinh trùng mới nở hoặc ở thể tiềm sinh tái
hiện.
 Mùa đông nên giữ nhiệt độ nước ổn định. Có thể che
bằng mái nilon để giúp nâng nhiệt, đồng thời giảm mật
độ thả nuôi, ít thay nước để giữ nhiệt. Tránh làm xây xát
làm cho nấm và mầm bệnh xâm nhập. Nếu có điều kiện
thì hàng tuần nâng nhiệt có thể hạn chế nấm và các
bệnh ngoài da phát triển.
 Nghiêm túc kiểm tra chất lượng thức ăn. Kịp thời điều
chỉnh công thức pha trộn thức ăn khi nguyên liệu thay
đổi để đảm bảo thành phần chất dinh dưỡng và vệ sinh
đề phòng bệnh đường ruột phát sinh.
 Cố gắng sử dụng các chế phẩm sinh học để khống
chế chất lượng nước và môi trường ao nuôi. Sử dụng
men tiêu hóa làm cho thức ăn d
ễ tiêu và tránh bệnh viêm
ruột. Sử dụng các chế phẩm sinh học làm tăng sức đề
kháng bệnh của cá.
Những điểm cần chú ý khi sử dụng thuốc cho cá Chình:

- Phải xác định chính xác nguyên nhân bệnh trước khi
dùng thuốc;
- Liều lượng phải chính xác, cách sử dụng phải theo
hướng dẫn;
- Phải có nhật ký ghi Chép lịch sử dụng thuốc.
- Không được sử dụng thuốc đã bị cấm;

4. Thu hoạch và chế biến
4.1. Thời điểm thu hoạch cá Chình
Có thể thu làm nhiều lần, bắt con to trước. Người ta thu
hoạch cá Chình lúc đến giờ cho ăn dùng lưới vớt lên.
Cũng có thể dùng lưới vây để thu hoạch. Thời điểm thu
hoạch còn phụ thuộc vào nhu cầu và thị hiếu thị trường.

Mỗi năm có thể tiến hành thu hoạch 4 lần: đầu tháng 6,
cuối tháng 7, đầu tháng 9 và trung tuần tháng 11. Nên
ngừng cho ăn 1-2 ngày trước khi thu hoạch. Mùa hè nên
thu vào buổi sáng, mùa thu và mùa đông nên thu muộn
một chút cá sẽ ít bi thương.
4.2. Cải thiện chất lượng sản phẩm theo nhu cầu thị
trường
Chúng ta đang đối mặt với vấn đề an toàn vệ sinh thực
phẩm, kiểm soát thương mại. Để bảo vệ sức khỏe cho
người sử dụng thực phẩm cần thiết phải xây dựng một
chế độ kiểm hóa nghiêm túc, mới, hợp với thông lệ quốc
tế, để hàng hóa xuất bán đảm bảo đủ tiêu chuẩn vệ sinh.
Căn cứ theo tiêu chuẩn này mọi quá trình nuôi, gia công
chế biến và nhà xuất khẩu phải kết thành một mạch để
có thể truy xuất gốc hàng hóa. Làm sao để sản phẩm
xuất ra phải được người tiêu dùng vui vẻ chấp nhận về
tất cả các mặt chất lượng, vệ sinh, mầu sắc.
Xét cả quá trình sản xuất thì có nhiều nguyên nhân ảnh
hưởng đến chất lượng và mầu săc sản phẩm như: điều
kiện tự nhiên, nguồn giống, thức ăn, kỹ thuật nuôi, gia
công chế biến, bao bì, lưu kho, vận chuyển. Tất cả đều
phải tuân thủ đồng bộ thì m
ới có thể thỏa mãn tiêu chuẩn

chất lượng sản phẩm.
Đầu tiên phải bắt đầu từ môi trường ương cá giống. Các
cơ sở ương giống phải chọn nơi có nguồn nước sạch sẽ
không b
ị ô nhiễm do thiên nhiên (nguồn có nhiều kim loại
nặng hòa tan, chua hoặc kiềm quá, hàm lượng chất hữu
cơ cao) hoặc do con người (ô nhiễm do sản xuất, sinh
hoạt, rác thải) gây nên.
Cũng có thể sử dụng nguồn nước không đạt yêu cầu
nhưng con người có thể cải tạo bằng các biện pháp như
lọc, lắng, tăng hoặc giảm nhiệt độ, điều chỉnh màu nước
v.v… Tóm lại nước đưa vào trại giống khi đưa vào hóa
nghiệm phải phù hợp với tiêu chuẩn cho phép.
Các trại giống tốt hơn hết nên có ao chứa, ao xử lý.
Thực tế chứng minh rằng nguồn nước nếu đư
ợc sục khí,
tiêu độc, gây màu tốt, điều chỉnh nhiệt độ thích hợp dùng
nuôi nước chảy để ương cá có thể đảm bảo cho quá
trình nuôi an toàn, ít bệnh tật, tốc độ sản xuất nhanh, cá
xuất xưởng đều và khỏe mạnh với giá thành hạ.
4.3. Phương pháp cải thiện mầu sắc cá thương phẩm
Mầu sắc cá thương phẩm là yếu tố quan trọng quyết
định giá cá bán cao hay hạ. Vì thế các nhà sản xuất đều
quan tâm đến cách cải thiện mầu sắc cá khi xuất bán.
Muốn cải thiện mầu sắc cá thương phẩm trước hết phải
hiểu cơ chế và nguyên nhân dẫn đến thay đổi màu sắc
cá.
a. Màu sắc cá Chình gồm nhiều loại sắc tố như:
Carotenoids, Melanin, Guanine và nhiều nhân tố khác
tương tác với nhau mà tạo nên.

b. Các nhân tố ảnh hưởng đến màu sắc cá:
+ Dẩu, chất chống ôxy hóa, vitamine trong thức ăn có
thể giúp bảo vệ các sắc tố không bị phân giải tạo điều
kiện cho cá hấp thu các loại sắc tố nhóm caroten. Nếu
hàm lượng canxi trong thức ăn cao có thể làm giảm khả
năng hấp thụ caroten.
+ Tính chất vật lý của các carotenoids như hạt to nhỏ
khác nhau, tính ổn định, cấu trúc hóa học khi lắng đọng
dưới da cá biểu hiện khác nhau.
+ Nhiệt độ, nồng độ ôxy, phù du sinh vật trong môi
trường nuôi và thời gian cho ăn đều ảnh hưởng tới việc
hấp thu và lắng đọng sắc tố.
+ Tình trạng sức khỏe của bản thân cá ảnh hưởng đến
quá trình bắt mồi, tiêu hóa và hấp thu, từ đó ảnh hưởng
đến khả năng hấp thu carotenoids và các sắc tố khác.
Từ đó ảnh hưởng đến màu sắc bên ngoài cũng nh
ư màu
thịt cá.
+ Quá trình ôxy hóa, lipid hóa của thức ăn cũng ảnh
hưởng đến trầm tích các sắc tố.
+ Thiếu vitamine cũng làm cho cá đen ra.
c. Phương pháp điều chỉnh màu sắc
Dùng dầu cá có chất lượng tốt làm thức ăn cho cá. Nếu
dùng dầu cá tầm tinh luyện trong thời gian dài có thể làm
cho mầu cá có mầu xanh bóng tự nhiên.
Bổ sung vào thức ăn các loại như rong biển, hoặc tảo
spirulina, những loại thức ăn này giúp cải thiện màu sắc
cá Chình. Vitamine trong thức ăn phải đầy đủ có lợi cho
việc lắng đọng sắc tố, ngăn chặn màu cá hóa đen hoặc
màu đồng xám.

Bổ xung chất khoáng cần loại tinh khiết. Cá Chình sở dĩ
có mầu đồng xám là do các chất khoáng không tinh khiết
không đáp ứng đúng tỷ lệ theo yêu cầu (nhiều quá hoặc
không đủ lượng).
Tốc độ tiêu hóa hấp thu phải cao, nếu không sắc tố rất
khó lắng đọng. Có thể bổ sung một lượng chất kích thích
tiêu hóa như "TOARAZE".
4.4. Vận chuyển cá thịt tươi sống
Vận chuyển cá Chình thịt yêu cầu số lượng lớn. Có 2
cách vận chuyển cá thịt tươi sống được sử dụng hiện
nay là dùng túi nilon bơm ôxy ho
ặc vận chuyển khô trong
thùng gỗ có tưới nước. Vận chuyển bằng túi bơm ôxy
dùng cho vận chuyển xa. Loại sau dùng cho cự ly gần.
Túi nilon kích thước 40 x 60 cm, mỗi túi có thể thả 10 kg,
nếu hạ nhiệt độ xuống 10oC thì có thể thả 15 kg. Mùa hạ
nhiệt độ cao cần sử dụng phương pháp "hạ nhiệt 3 cấp"
hạ dần xuống 10oC cho cá đỡ bị sốc. Sau khi ổn định
mới bơm ôxy và vận chuyển.
Phương pháp vận chuyển tưới nước: chia làm 4 – 5
khoang thùng gỗ buộc thành một khối. Mỗi khoang đựng
3 – 4 kg cá. Mỗi khối khoảng 20 kg. Những đi
ểm cần chú
ý khi vận chuyển cá Chình thịt cũng giồng như đối với
vận chuyển cá giống
4.5. Gia công chế biến
Cá Chình rất khoẻ, da cá nhiều nhớt, rất trơn khó tóm
b
ằng tay nên rất khó làm thịt. Tuy nhiên cá Chình lại kém
chịu rét. Tốt hơn hết là bỏ chúng vào bao nilon, thả vào

tủ đá mấy phút. Cá Chình nhanh chóng đi vào trạng thái
ngủ lúc này có thể đem ra làm thịt.
Chế biến cá Chình có nhiều cách. Nếu muốn giữ hình
dạng nguyên con thi cắt ở cổ một nhát gần đến xương
sống và trước hậu môn cũng cắt ngang một nhát. Dùng
nước nóng rửa sạch nhớt. Sau đó dùng đôi đũa cho vào
vết cắt hậu môn ngoáy vài vòng rút hết ruột gan và nội
tạng ra, cắt bỏ mang là xong.
Nếu như muốn cắt thành miếng thì dùng đinh đóng đầu
cá xuống thớt, làm sao để lưng quay về bên phải nằm
ngang trên thớt, dung dao sắc rạch một đường suốt từ
gáy xuống đến đuôi. Cắt ngang cổ cá tuốt xuống dưới,
lọc hết nội tạng, xương sống, đầu. Sau đó cắt miếng,
đem gia công.
Những người nuôi cá Chình ở châu Á đa số sử dụng
thức ăn do Nhật sản xuất. Thức ăn này có dạng bột, khi
cho ăn người ta trộn thêm dầu và nước khuấy đều thành
dạng keo dẻo. Dùng loại thức ăn này dễ huấn luyện cá
nhưng tính ổn định của nó trong nư
ớc không cao, dễ gây
ô nhiễm môi trường nước.
Có người sử dụng thức ăn dạng hạt, cho ăn qua máy
cho ăn tự động. Khi rơi xuống nước thức ăn này n
ở ra và
nổi lên. Thức ăn dạng hạt có tính ổn định cao do hút ít
nước, khó hòa tan, sau khi cho ăn có thể vớt hết thức ăn
thừa ra. Vì thế nó ít gây ô nhiễm môi trường và dễ quan
sát tình trạng bắt mồi của cá. Ngoài ra trong quá trình
chế biến nó được xử lý ở nhiệt độ và áp suất cao,
nguyên liệu tinh bột được hồ hóa triệt để, dễ tiêu hóa

nên hiệu suất tiêu hóa cao.



×