Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Một số suy nghĩ về những biện pháp sinh học và IPM trên cây trồng đang được doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.52 KB, 5 trang )

Một số suy nghĩ về những biện pháp sinh học
và IPM trên cây trồng đang được áp dụng

Trong thời gian qua chúng ta cũng đã có nhiều cố
gắng sử dụng các biện pháp sinh học, canh tác
hữu cơ, trồng cây cách ly trong nhà lưới trong hệ
thống IPM nhằm làm giảm sâu bệnh hại. Để góp
phần thảo luận, chúng tôi xin trao đổi một số ý kiến
như sau:
1. Nhiều nơi đang sử dụng chế phẩm EM (effective
micro-organism) đưa vào đất, nhằm làm phong phú
hóa hệ thống VSV đất. Nói chung biện pháp này đã
đem lại những hiệu quả đáng khích lệ. Tuy nhiên,
biện pháp này cũng có những mặt hạn chế, vì đối
với mỗi loại đất và cây trồng đều có sẵn hệ thống
EM tương ứng của chúng (không phải nhờ con
ngươi đưa vào đất mới có). Tuy nhiên, do thiếu
điều kiện đất bị thoái hóa nên chúng không phát
triển được. Nay ta đưa EM vào đất nhưng điều kiện
sống cho chúng không được cải thiện, thì chúng
cũng chỉ phát huy tác dụng một cách hạn chế và chỉ
tồn tại được trong một thời gian ngắn. Như vậy,
thay vì đưa EM vào đất, ta bón nhiều hữu cơ, hạn
chế tối đa những tác động có hại của hóa chất, tạo
nên sự cân bằng dinh dưỡng trong đất, dần dần
môi trường sống được cải thiện, quần thể VSV có
ích sẽ được phát triển một cách tự nhiên, phong
phú, tương ứng với từng loại cây trồng một cách
bền vững. Điều này đã có nhiều minh chứng rất rõ
trong thực tế sản xuất. Theo Nguyễn Đăng Nghĩa
(2003) bón phân hữu cơ đã làm tăng chủng loại và


số lượng vi khuẩn amôn hóa, vi khuẩn khoáng hóa,
xạ khuẩn, và các loài nấm có ích rất rõ rệt. Theo
Mai Văn Trị và Nguyễn Thị Thúy Bình (2003) bón
phân hữu cơ sinh học đã làm tăng sự hoạt động
của VSV đối kháng Actinomycetes dẫn đến ngăn
chặn sự phát triển của nấm Phytophthora
palmivora, làm gia tăng t
ỷ lệ sống của cây sầu riêng
trong vườn ươm.
2. Cũng đã có nhiều công trình chứng minh hiệu
quả của việc bón phân hữu cơ sinh học nhằm làm
tăng VSV có ích, VSV đối kháng để cải tạo đất, làm
giảm áp lực sâu bệnh, làm tăng năng suất và chất
lượng rau quả. Tuy nhiên những kết quả đó vẫn
còn rất khiêm tốn. Sở dĩ như vậy vì trong sản xuất
chúng ta sử dụng phân hữu cơ còn những hạn chế
sau đây:
- Phần lớn phân hữu cơ sinh học được sử dụng
chất lượng còn thấp, khôngđủ dinh dưỡng nên hiệu
quả trên cây trồng không rõ ràng.
- Phân hữu cơ sinh học có tác dụng chậm nên phải
bón nhiều năm mới thể hiện rõ tác dụng. Hơn nữa
đất của chúng ta đã bị thoái hóa lâu ngày, nên
không thể cải tạo nhanh chóng được. Tuy nhiên,
việc áp dụng canh tác hữu cơ của chúng ta chỉ mới
bắt đầu.
- Trong sản xuất vẫn còn quá lạm dụng các biện
pháp hóa học, làm hạn chế tác dụng của phân hữu
cơ sinh học.
3. Hiện nay chúng ta đang cố gắng nhân nuôi một

số VSV như virus, nấm, tuyến trùng đối kháng để
phòng trừ sâu bệnh hại. Ví dụ như sử dụng nuclea
polyhedrosis virus (NPV), Bacillus thuringiensis
(BT), tuyến trùng đối kháng, nấm Metarhizium spp.
để trừ sâu, dùng một số chủng VSV đối kháng để
trừ nấm gây bệnh… Việc sử dụng VSV đối kháng
như là thuốc BVTV sinh học, thực chất chúng ta
cũng chỉ là bắt chước VSV đối kháng trong đất,
nhưng chỉ ly trích ra được một vài chủng đối kháng
riêng lẻ nên thường không đủ sức khống chế sâu
bệnh bệnh hại ở mức độ hữu hiệu cao. Nhìn chung
phương pháp này bước đầu có hiệu quả nhưng c
òn
rất hạn chế nên khó trở thành có giá trị hàng hóa
trong sản xuất, nhất là trong điều kiện kỹ thuật sinh
học còn thấp kém như ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, nếu như chúng ta biết chăm sóc tạo
điều kiện sống trong đất được tốt (chủ yếu là môi
trường hữu cơ) cũng như quần thể VSV có ích, các
loài VSV đối kháng trong đất cũng sẽ phát triển một
cách phong phú đủ sức khống chế sâu bệnh hại
một cách hữu hiệu. Do đó, biện pháp khử trùng đất
và tưới thuốc vào đất để phòng tr
ừ những sâu bệnh
trong đất chỉ là một biện pháp tình thế. Nếu sử
dụng những biện pháp đó một cách lâu dài cùng
với lạm dụng bón nhiều phân hóa học sẽ giết chết
những VSV vật có ích, phá vỡ cân bằng sinh thái
trong đất đưa đến hậu quả lợi bất cập hại.
4. Trong nhiều chương trình sản xuất rau an toàn

chúng ta trồng rau cách ly trong nhà lưới, nhưng
thực chất trong điều kiện nhiệt đới ẩm như nước ta,
nhà lưới không cách ly được côn trùng một cách
triệt để, nhất là đối với côn trùng chích hút nhỏ bé.
Trong nhiều trường hợp chính trong nhà lưới mật
độ sâu bệnh trên cây trồng lại cao hơn ở bên ngoài
(vấn đề này khác với việc bao trái bằng các túi
riêng biệt có thể cách ly được nhiều loại sâu bệnh).
Tuy nhiên, việc đầu tư cho nhà lưới để trồng rau lại
rất tốn kém. Trong thời gian qua tỉnh Vĩnh Phúc có
mô hình trồng rau an toàn trên cơ sở sử dụng phân
hữu cơ và hệ thống VSV có ích EM là chính, cộng
với các biện pháp quản lý đ
ồng ruộng thật chặt chẽ,
mà không phải sử dụng đến nhà lưới cách ly. Mô
hình này rất thành công và giá thành sản xuất rau
an toàn lại rẻ…
Từ những kết quả của một số biện pháp như đã
nêu trên, theo chúng tôi cũng nên có suy nghĩ điều
chỉnh để việc quản lý dịch hại tiến hành được thực
tế, và có hiệu quả hơn.
Xây dựng mô hình ipm cây rau quả trên cơ sở giữ
gìn cân bằng sinh thái trong đất
Như vậy, trong chiến lược IPM cùng với việc bảo
vệ cân bằng sinh thái giữa thiên địch và sâu hại
trên cây trồng, phần trên mặt đất, chúng ta phải
quan tâm nhiều đến sự cân bằng dinh dưỡng trong
đất để tạo sự cân bằng giữa VSV có ích (kể cả
VSV tạo dinh dưỡng và VSV đối kháng) và VSV
gây bệnh hại trong đất. Nói chung, đó là giữ gìn sự

cân bằng sinh thái trong đất. Đất là một tập hợp
hoạt động của nhiều cơ thể sống có hại và có hại,
đất luôn chứa đựng những phản ứng hóa học
chuyển động theo hai chiều có lợi và có hại, chúng
tạo cho cây trồng khỏe mạnh hay phát sinh dịch
bệnh,…Nói chung IPM phải đi từ đất, vì đất là cơ
sở sự sống của cây trồng, và của muôn loài sinh
vật sống trên hành tinh của chúng ta.
Vừa qua chúng ta đã có nhiều mô hình IPM khác
nhau, mức độ thành công của mỗi mô hình cũng rất
khác nhau… đã đến lúc cần phải tổng kết lại và rút
ra những mô hình hữu ích nhất cho năng suất và
chất lượng của cây trồng. Trong đó, vấn đề tạo mô
hình IPM trên cơ sở giữ gìn sự cân bằng sinh thái
trong đất dựa trên nền phân hữu cơ sinh học.

×