Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận: nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến nền văn hóa - xã hội và con người Việt Nam pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.06 KB, 31 trang )

Tiểu luận: nghiên cứu
Phật giáo và ảnh
hưởng của nó đến nền
văn hóa - xã hội và
con người Việt Nam
MỤC LỤC
Mục lục…………………………………………………………… Trang 1
Mở đầu …………………………………………….……………….Trang 2
Chương 1: Khái quát về Phật giáo và quá trình phát triển Phật giáo ở Việt
Nam…………………………………………………………………… Trang 6
1. Nguồn gốc ra đời ………………………….…………………….Trang 6
2. Lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo………………….Trang 6
Chương 2: Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa - xã hội và con
người Việt Nam nói chung và Trà Vinh nói riêng…………… …. Trang 8
1. Phật giáo với đời sống văn hóa - xã hội Trang 8
2. Phật giáo với đời sống văn hóa - xã hội Trang 13
3. Ảnh hưởng đối với truyền thống văn hóa……………………….Trang 14
4. Ảnh hưởng đối với văn hóa lễ hội Trang 17
5. Ảnh hưởng đối với phong tục tập quán Trang 21
6. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng Trang 23
Kết luận Trang 29
Tài liệu tham khảo Trang 30
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ lâu và thực sự tư tưởng Phật giáo
đã trở thành một góc trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Từ đó có
thể nói rằng, bên cạnh hình ảnh "cây đa, bến nước, sân đình" thì hình ảnh mái
chùa cũng là biểu tượng thân thương, thấm sâu vào tiềm thức và trở thành
một trong những giá trị văn hóa của con người Việt Nam. Đó là nét chung
nhất cho sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam, mà chủ yếu là
dân tộc Kinh.


Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác-
Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vủ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó,
bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội củ vẩn có sức sống dai dẳng, trong
đó giáo lý nhà phật đã ít nhiều đã in sâu vào tư tưởng của 1 số bộ phận dân cư
Việt nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện
được nên chúng ta cần vận dụng nó 1 cách hợp lý để góp phần đạt được mục
đích của thời kỳ quá độ củng như sau này.Vì vậy việc nghiên cứu lịch sử,
giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan con
người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn
chế củng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rỏ tâm lý người dân
hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ 1 nhân
cách đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh điều ác, hình thành nhân
cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín di doan, cúng bái, lên đồng,
gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, niềm tin của quần chúng nhân dân.
Do vậy, chúng ta có thể khẳng định bằng hình ảnh rằng, văn hóa là cái
hồn của dân tộc, mất văn hóa là mất dân tộc. Từ đó, chúng ta giữ được nền
văn hóa truyền thống của dân tộc là chúng ta giữ được đất nước. Mặt khác,
khi đề cập đến đời sống văn hóa của dân tộc thì không thể bỏ qua một bộ
phận cấu thành nó, đó là đạo đức Phật giáo. Từ những ý nghĩa cao cả và
thiêng liêng ấy nên khi xây dựng một nền văn hóa hiện đại, tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, đòi hỏi chúng ta cũng cần phải nghiên cứu những giá trị đạo
đức Phật giáo và tác động biện chứng của nó với nền văn hóa, đạo đức của
dân tộc.
Trong lịch sử loài người đã có những thời kỳ tôn giáo đóng vai trò
quan trọng, thậm chí có khi chỉ đạo cả những thể chế chính trị xã hội và hiện
nay ảnh hưởng của nó vẫn sâu đậm trong tư tưởng của nhân dân, nhất là niềm
tin của họ. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh niềm tin thì tôn giáo là một hiện
trạng đáng chú ý, nhất là hiện tượng tôn giáo đang chấn hưng, đi đôi với việc
xuất hiện nhiều " Tôn giáo mới " trong nước và trên thế giới.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến nền văn hóa -

xã hội và con người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch
sử cũng như những ảnh hưởng của Phật giáo đối đời sống xã hội trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngoài số lượng kinh, luật, luận của Phật giáo được tích lũy cả hơn
2500 năm và còn có những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài vào
những năm của thế kỷ XX và hiện nay. Những công trình này sẽ được liệt kê
cụ thể trong phần danh mục tài liệu tham khảo, ở đây chỉ xin điểm qua một số
tài liệu đáng lưu ý:
Cuốn "Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người
Việt Nam hiện nay" do Giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997. Phần viết về Phật giáo, các tác giả đã tập trung vào
các khái niệm từ, bi, hỉ, xả cùng các giá trị tư tưởng của Phật giáo với tư
tưởng của con người Việt Nam. Cuốn "Đạo đức học Phật giáo" do Hòa
thượng Tiến sĩ Thích Minh Châu giới thiệu và Viện Nghiên cứu Phật học
Việt Nam ấn hành năm 1995 là những bài tham luận của nhiều tác giả. Nội
dung cuốn sách này, các tác giả đã nêu những cơ sở và nhiều phạm trù đạo
đức Phật giáo, phân tích để cắt nghĩa rõ thêm nội dung của chúng như giới,
hạnh, nguyện, thiện, ác v.v Cuốn "Việt Nam văn minh sử lược khảo" của
Giáo sư Lê Văn Siêu, Bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu Sài Gòn 1972. Nội
dung cuốn sách khi bàn về lịch sử văn minh Việt Nam, tác giả đã chứng
minh những đặc điểm của Phật giáo để tạo cho tôn giáo này xâm nhập một
cách dễ dàng vào Việt Nam. Cuốn "Có một nền đạo lý Việt Nam" của Giáo
sư Nguyễn Phan Quang, Nxb TP. Hồ Chí Minh 1996. Trong cuốn sách này,
tác giả đã cho người đọc thấy sự hòa nhập của đạo đức Phật giáo trong đạo
lý dân gian Việt Nam. Cuốn "Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam", tập
1 của Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2002. Phần khai thác ở nội dung cuốn sách là tác giả đã khái quát
những nét cơ bản về quá trình du nhập cũng như ảnh hưởng của Phật giáo
với dân tộc Việt Nam v.v Ngoài những công trình nghiên cứu có tính chất

chuyên đề thì đạo đức Phật giáo còn được bàn xen kẽ, rải rác trong các tác
phẩm văn học, mỹ học, sử học và tôn giáo học v.v
3. Mục đích, nhiệm vụ của chuyên đề
Mục đích của chuyên đề là từ góc độ triết học thâm nhập vào cơ sở và
hệ thống đạo đức Phật giáo để tìm ra sự ảnh hưởng của nó trong đời sống đạo
đức của xã hội Việt Nam truyền thống và hiện nay. Qua đó, tìm ra đặc điểm
của sự ảnh hưởng đạo đức Phật giáo ở Việt Nam
Theo mục đích trên thì nhiệm vụ trọng tâm của chuyên đề là tiếp
cận cơ sở, đặc điểm, những phạm trù cơ bản, những mô hình, giá trị phổ
quát của hệ thống đạo đức Phật giáo. Tiếp cận truyền thống, tín ngưỡng,
triết lý, tâm lý, đạo đức cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Qua đó, góp phần
lý giải cho việc du nhập Phật giáo vào Việt Nam, đồng thời sự dung hợp và
ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt
Nam từ truyền thống đến hiện nay. Từ cơ sở đó, góp phần đưa ra những
giải pháp định hướng cho việc ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong xã
hội Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Cơ sở lý luận chủ yếu của chuyên đề là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo. Về
phương pháp nghiên cứu, trước hết phải có thái độ khách quan vì nó là tiêu
chuẩn số một để có quan điểm nhận xét, đánh giá đối tượng nghiên cứu được
rõ ràng, chính xác hơn. Một số phương pháp phổ biến được áp dụng cho đề
tài là: Lịch sử và lôgic; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích tổng
hợp; phương pháp thống kê v.v
5. Những đóng góp của chuyên đề
Thông qua việc giải quyết nhiệm vụ để đạt mục đích như trên và khái
quát nội dung nghiên cứu để xây dựng chúng theo hệ thống riêng của mình.
Từ đó, lý giải về sự ràng buộc lẫn nhau giữa các phạm trù giáo lý với các
phạm trù đạo đức Phật giáo.

6. Ý nghĩa của chuyên đề
Chuyên đề làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống xã hội nước ta và đồng bào dân tộc khmer khu vực đồng bằng sông Cửu
Long Và tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
7. Giới hạn đề tài
Phạm vi của chuyên đề là từ góc độ triết học Mác - Lênin để nghiên
cứu một hệ thống đạo đức của một tôn giáo cụ thể, du nhập và ảnh hưởng đến
một nền đạo đức của một dân tộc cụ thể. Từ đó, tuy nội dung chuyên đề có sử
dụng các tư liệu, luận cứ, luận chứng cho việc chuyển tải ý tưởng hoặc so
sánh để làm nổi bật những vấn đề nghiên cứu, nhưng trọng tâm của đề tài là
tuân thủ theo tên gọi của nó.
8. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của chuyên đề gồm 2 chương, 8 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VÀ QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
1. Nguồn gốc ra đời
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà ( hay buddha ). Đạo phật
chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế
kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng
rãi ở các quốc gia trong khu vực á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu
- Mỹ. Trong quá trình truyền bá của minh, đạo Phật đã kết hợp với tín
ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tông phái
và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá
của rất nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con trai của
Trịnh Phạn Vương ( Suđhodana) vua nước Trịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc
Bắc Ấn Độ ( nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước
công nguyên.

2. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu công
nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy
Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung
tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man
Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra)
trong khoảng các năm 168-189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ)
được phiên âm trực tiếp thành Bụt
]
, từ Bụt được dùng nhiều trong các truyện
dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được
coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này,
vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ Bụt
bị mất đi và được thay thế bởi từ Phật. Trong tiếng Hán, từ Buddha được
phiên âm thành Phật đà, Phật đồ rồi được rút gọn thành Phật.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà
Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất
cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là
quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 18, vua
Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất
sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng
mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi
đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư
Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA -
XÃ HỘI
1. Phật giáo với đời sống văn hóa xã hội Vệt Nam xưa kia:
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã

trở thành một trong những hệ tư tưởng. Tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại
cho đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần
của người Việt Nam
Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực thực dân phương
bắc, nhân dân Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật
đến với dân tộc ta bằng tinh thần hoà bình, hữu nghị
Sự tiếp nhận đạo phật trong hoàn cảnh như vậy, không thể bỏ qua vấn
đề nội dung của đạo phật. Điều đó có nghĩa là bản thân đạo phật phải có
những nội dung nào đó mà nhân dân Việt Nam có thể chấp nhận được.ở đây
chính là nội dung của hai nền tín ngưỡng có nét giống nhau, có lẽ do những
nét giống nhau mà có sự hợp nhất tạo nên các chùa pháp vân, pháp vũ, pháp
nôi, pháp điện. Tức là tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần của Việt Nam khi
đó có sự hợp nhất. Hình ảnh phật đã trở thành hình ảnh bụt
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là phật
giáo vốn dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá
đến . ở bắc Việt Nam đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt
Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì phật hay quan
âm cũng được coi là một thứ tổ tiên ( trong tâm thức dân gian việt cổ, phật
hay quan âm không phải là người “ngoại quốc ‘người khác tộc ). Nếu đặc
điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần ( thế lực siêu nhiên ) mà con người
cũng cầu để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì phật hay quan âm cũng trở thành một
loại thần, phật điện cũng trở thành một thứ thần điện, tính tâm linh ấn độ
nhường bước cho tính tính Việt Nam ( hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng
về tính tình cảm hơn là giáo lý, giỏi luật, đoàn thể, tôn giáo )
Bụt người Việt Nam không phải thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ
Bonddha. Hình ảnh bụt của người Việt Nam là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu
tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần linh đương thời của người Việt Nam. Bụt
có những nét giống và khác phật. Bụt giống phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha
đối với những người bị áp bức bóc lột. Nhưng bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ
người nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức

xuất hiện ngay để cứu vớt các vị thần trong nhà nhưng lại có cái oai lực, uy
quyền hơn cả trời. Đối với những người bị áp bức trời ở quá xa, kêu trời khó
thấu, còn các thần linh gần nhưng lại yếu đuối, bất lực trước những việc quá
sức của mình quả là gần gũi, công bằng vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ
ngày xưa chưa có một người dân bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình
đẳng. Nhưng đối với phật họ cũng có thể có mặc cảm sâu xa rằng phật có cái
nhìn ngang bằng với tất cả chúng sinh. Với phật, không ai tiểu nhân, không ai
quân tử. Cũng không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào
cấp bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học,
oán ghét, phục thù. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam.
Tiếp đó phật kêu gọi sự tự giác, giác ngộ không những để giải quyết nỗi khổ
của mình mà còn phải cứu nhân độ thế . Chắc chắn trong tư duy của người
dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiểu thế nào là bản ngã là chân theo
nghĩa sâu xa của phật học. Người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo
lớn lao và có phần tích cực. Có thực hiện được hay không là vấn đề khác mà
chúng ta cần xem xét, để phê phán giá trị của học thuyết này. Nhưng ở đây thì
rõ ràng đó là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn bó được với quần
chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ
hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô tấm trong cổ
tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc. Phật giáo
cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào
của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ
lực của bản thân mình. Người dân bình thường ở xứ ta ở phần bản chất cũng
có quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải vì do họ quán
triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền. Mặc dù bát chánh đạo không có gì là
thần bí, nhưng dễ đã có mấy ông sư nhớ đủ tám đường mà phật tổ đã đề
ra.Vấn đề là ở cái tinh thần quàn xuyến rút từ bát chánh đạo.Tinh thần ấy là
sự cố gắng tu dưỡng, vun thêm cho bản thân mình. Và họ cũng mong mỏi
một sự đền bù này, khi thấy phật tổ vạch ra cho họ và khẳng định điều tất

nhiên sẽ đến . Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng,có
một sự gắn bó sâu sa nhất định, mà không một sự thẩm định, chọn lựa nào có
lựa chọn để chối bỏ hoặc đồng hoá nữa. Đối với phật giáo sự lựa chọn này
bao hàm cả ý nghĩa phê phán. Ngày nay, chúng ta có thể chỉ ra được nhiều
khuyết điểm của nho, phật, lão ở góc độ chính trị hay tư tưởng triết học. Dân
gian xưa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp
nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy,
với các sinh hoạt của họ tức là họ đã lộ cái ý đồng hay không đồng. Có thể
nói rằng văn hoá Việt Nam hoá phật hơn là hoá phật hoá. Phật giáo đến Việt
Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đạo
thừa thì vẫn nhất phải nhập với tín ngưỡng bản địa. Để biến man nương thành
phật mẫu, ỷ lan thành quan âm mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật
ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá, phật giáo từ ấn độ được truyền
vào Việt Nam vốn không phải một sự kiện đơn độc mà kéo theo nó là cái ảnh
hưởng của tổng thể văn hoá ấn độ đối với Việt Nam cổ. Mặc dù chúng ta còn
ít nghiên cứu và hiểu biết về văn hoá việt- ấn nhưng chắc chắn ảnh hưởng của
văn hoá ấn độ lên Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực : Nông nghiệp, ydược,
âm nhạc vũ đạo ngôn ngữ.
Điều quan trọng là văn hoá Việt Nam cổ tiếp thu một liều lượng quan
trọng văn hoá ấn độ qua ngả đường phật giáo, vào suốt thời bắc thuộc và
chống bắc thuộc, khi ảnh hưởng văn minh trung hoa tràn lan đất nước Việt
Nam và mang khuynh hướng đồng hoà rõ rệt.
Về khách quan, ảnh hưởng của văn hoá ấn độ là một đối trọng của văn
hoá trung hoa trên đất việt. Nó có tác dụng trung hoà ảnh hưởng quá mạnh
mẽ của văn hoá trung hoa; Nó góp sức cùng nền văn hoá Việt Nam cổ ngăn
chặn sự đồng hoá của văn minh trung hoa, nó hội nhập và làm giàu làm nên
cái khác của văn hoá việt với văn hoá trung hoa.
Ví dụ: Như ở thăng long thời lý: Hoàng thành Long Phượng mở bốn
cửa nếu cửa phía bắc thờ thành trần vũ – trần võ là một vị thần linh trung hoa

được nhập nội vào đất việt, thì của tây long thành được mang tên “quảng
phúc môn “ mở ra phía tây để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa của Đức
Phật ở Tây Thiên
Cũng vậy, Đạo Phật từ Ấn Độ được truyền bá vào đất Việt ở buổi đầu
thời kỳ Bắc thuộc về khách quan mà nói là một đối tượng của Nho giáo. Đạo
nho cũng bắt đầu phát huy ảnh hưởng ở đất Việt từ buổi đầu công nguyên với
việc mở trường nhằm “ giáo lễ nghĩa Trung Hoa” cho người Việt. Ta không
thể phủ nhận các mặt tích cực của Nho giáo, góp phần làm tăng tri thức người
dân, nhấn mạnh vào Nhân, Nghĩa, Ái. Nhưng dù sao đi nữa Nho giáo vẫn là
một công cụ của tầng lớp thống trị Trung Hoa nhằm nô dịch người nông dân
Trung Quốc và các dân tộc vùng ngoại vi để chế Trung Hoa lấn áp. Sao chăng
nữa, dù có đề cao Nhân, Trí, Dũng là những giá trị con người muôn thưở thì
Nho giáo vẫn đặt cược cơ bản vào Lễ, mà Lễ là gì nếu không phải thực chất
là trật tự “ Tiên học lễ hậu học văn”, nghĩa là trước hết và trên hết phải học
tập để tôn trọng và duy trì trật tự đẳng cấp, trật tự trên dưới: Vua - tôi, cha -
con, chồng - vợ ( tam cương). Nếu hoàn toàn chấp nhận Nho giáo trong thời
Bắc thuộc thì nói chung chẳng còn gì là chống Bắc thuộc cả. Hãy cúi mình
trước thiện mệnh trìu tượng và thiên tử Trung hoa cụ thể:
Song người Việt cổ, tổ tiên chúng ta vốn có một nội lực tự sinh quật
cường, bất khuất, thích lối sống riêng tự do thuần phác từ thời Bắc thuộc, một
lối sống không quá ngăn cách giữa vua và dân, một lối sống khá bình đẳng
giữa cha và con, bình đẳng giữa vợ và chồng. Bởi vậy người Việt cổ khó lòng
chấp nhận nổi trật tự “ Cương thường “ của Nho gia. Nhưng người Việt bình
dân cũng khó lòng “ cãi lý” nổi với những nho sĩ, Nho gia “Bụng đầy chữ
nghĩa”. Họ chỉ còn biết dựa vào các sư sãi vừa có chữ nghĩa vừa bảo vệ họ,
Sao chăng nữa, đạo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành,
chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng
trước Phật. Nếu như Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê với một
“ tiểu triều đình” trọng nam khinh nữ thì dân quê Việt Nam dựng và bảo vệ
chùa, chùa làng của dân gian và trước hết là giới đàn bà được loại khỏi sinh

hoạt ở Đình có thể sinh hoạt thậm chí trở thành lực lượng quan trọng trong
sinh hoạt chùa làng.
Mặt khác, điều kiện xã hội con người xưa kia cũng mở rộng cho Phật
giáo dễ dàng du nhập so với Trung Quốc. Phật giáo khi du nhập Trung Quốc
đã bị phản ứng mãnh liệt của tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoá, đặc biệt là
ý thức hệ Nho giáo. Trong khi đó Phật giáo vào Việt Nam tương đối thuận
lợi, phát triển nhanh chóng, hầu như không bị phản ứng sâu sắc trừ một số ít
Nho sỹ thời Trần, Hồ. Xã hội Việt Nam khi tiếp nhận Phật giáo từ ấn Độ hay
Trung Quốc sang chưa có sự phân chia gay gắt và đối kháng kịch liệt, mối
quan hệ của Tông tộc gia đình chưa chịu ảnh hưởng của lý thuyết Tam cương
nặng nề. Điều này khiến Phật giáo khi thâm nhập không bị phản đối. Song lý
do chính có lẽ là do Phật gia khi vào đây chưa gây một đảo lộn, một biến
cách, không phủ nhận những giá trị tinh thần, phong tục tập quán của từng
người, từng gia đình, của xã hội. Vì vậy người Việt bình dân đã khá dễ dàng
hấp thụ cái triết lý nhân sinh quan của Đạo Phật, không biết có quá không
nhưng một nhà Phật học của Việt Nam đã nói có phần đúng rằng ở thời Bắc
thuộc Đạo Phật đã thấm vào lòng người dân Việt như nước thấm vào lòng
đất.
Dòng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam
là Thiền Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà dân gian dễ chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông ít bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong
phong cách tu hành. Thiền Tông chủ trương “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt
truyền trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy chủ
chương của Thiền tông là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lạc về trần thế, đặt
nó trong lòng con người, tâm thị Phật.
+ Thiền tông chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng
( 720-814) : “ Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” ( một ngày không làm,
một ngày không ăn) và lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành. Điều
này khiến cho các tăng nhân không phải là một tầng lớn ăn bám xã hội.
Thiền tông lại chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu đựng bần khổ cũng là

cách tu hành.
Chấp nhận bần khổ và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ đi vào
nông thôn, dễ bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người,
giết một người mà cứu được muôn người quả là điều phúc. Phật tử không
hoàn toàn là người bị động mà có thể vùng lên chống áp bức bóc lột. Do vậy
ở Việt Nam thời phong kiến cũng có nhiều cuộc nổi dậy giành chính quyền
do nhà sư lãnh đạo.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ
chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò
quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như
làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian
thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một
trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong
phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn
hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh động
hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là
một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái
ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới
mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao nhiêu câu chuyện
tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề
nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống
hồn nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương
đối ổn định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước
nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí
thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông
thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Nhà Phật đâu
có sợ “ thịnh suy” mà “thịnh” theo cái nghĩa được nhà nước quân chủ Lý

Trần nâng đỡ bảo trợ Cũng chính vì nó Phật gia được chính quyền quá ưu
ái mà sinh hoạt nhà chùa trở nên xa hoa, sa đoạ, trái ngược với đời sống Đức
Phật chối bỏ sinh hoạt cung đình, trái ngược với giới luât Bách Trượng tự lao
động mà sinh sống giản dị để dự bị giờ phút “ đến ngộ thành Phật”. “Suy”
theo nghĩa cơ bản mất sự ủng hộ của chính quyền. Nhưng suy ở thượng tầng
thì lại toả ra dân chúng ở làng quê ở các cơ sở hạ tầng, nếu đừng quá khắt khe
và cứng độ trong nguyên lý thì có thể khái quát rằng Phật giáo Lý Trần là
Phật giáo quý tộc, còn Phật giáo Lê - Nguyên về sau là Phật giáo dân gian. Từ
chỗ trở thành dân tộc từ trước, sau thế kỷ X, Phật giáo Việt Nam đã trở thành
dân gian, nhân gian - hay là đã được dân gian hoá sau thế kỷ XV.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh
tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi
trường tồn.
2. Phật giáo với đời sống văn hóa xã hội Việt Nam ngày nay.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như
Thiên chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ngoài ba tôn giáo
chính từ xưa. Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam. Nhìn vào đời sống văn
hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều
biểu hiện Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. ở nhiều vùng đất nước
số người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày
càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao
trong đời sống tinh thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học
ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng.
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam
rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa
trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ
siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng
tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo phật. Mặt khác
nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan, Tất

cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành
động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Thời đại ngày nay, là thời đại hội nhập và phát triển. Nước ta vừa trải
qua mấy chục năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu
bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển. Phát triển
có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn
hoá. Đảng và nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những
người có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cmở rộng sáng
tạo. Những phẩm chất này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật, vì tham vọng
trái với cấm dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật Vì vậy việc cần làm hiện nay
là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt
Nam như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với
lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
3. Ảnh hưởng đối với truyền thống văn hóa dân tộc:
Đất nước Việt nam, một đất nước vốn mang truyền thống đạo đức dân
tộc, một truyền thống gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước. Trãi qua
mấy nghìn năm lịch sử, nền văn hóa của dân tộc Việt nam vốn chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ suối nguồn đạo lý Phật Giáo. Phật giáo đã góp phần xây
dựng tinh thần đoàn kết dân tộc, một trong những sức mạnh đóng vai trò
quyết định trong công cuộc giữ vững nền độc lập đất nước. Ý thức được giá
trị của tự thân, vai trò và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội, dân tộc
Việt nam đã liên kết cùng nhau xây dựng thành một khối đại đoàn kết vững
mạnh. Giáo lý phật giáo đã dạy cho con người Việt nam thấy rằng muốn giữ
vững nền hòa bình độc lập của đất nước thì tự thân mỗi cá nhân trong xã hội
phải nổ lực phấn đấu, không ngồi đó trông chờ hạnh phúc. Một đất nước tuy
nhỏ, một nền kinh tế còn nghèo và lạc hậu nhưng không vì thế mà dân tộc
Việt Nam cảm thấy tự ti mặc cảm, hay chấp nhận một quá khứ đau thương
như là định mệnh. Trong hoàn cảnh ấy, mỗi con người Việt nam càng ý thức
vai trò và trách nhiệm thiêng liêng trọng đại của mình, để cùng nhau góp

phần kiến tạo một đất nước giàu mạnh trong tinh thần đoàn kết dưới sự soi
sáng của giáo lý phật giáo. Đoàn kết ở đây không có nghĩa là kích động chiến
tranh hận thù mà chính là kêu gọi hòa bình nhân ái. Giá trị to lớn của giáo lý
phật giáo là hướng dẫn con người sống sao cho tốt, hành động sao cho thiết
thực và có ý nghĩa đối với tự thân, với gia đình và xã hội. Theo tinh thần của
Đạo Phật, đoàn kết còn mang một ý nghĩa cao đẹp và rộng mở hơn đó là xa
lìa lối sống vị kỷ hẹp hòi.
Trên tinh thần đoàn kết, Đạo Phật xây dựng cho dân tộc Việt nam một
truyền thống rất đẹp đó là tính chan hòa yêu thương, mở rộng cõi lòng. Nói
khác hơn là truyền thống tương thân tương ái. Một truyền thống thật gần gũi
và gắn liền với con người Việt nam, dân tộc Việt nam, một dân tộc xưa nay
vốn hiền hòa, thân thiện và dễ mến. Đặc tính yêu thương, mở rộng cõi lòng
được thể hiện rõ nhất qua những việc làm nhân nghĩa, giúp đỡ lẫn nhau trong
lúc khó khăn hoạn nạn. Nêu cao tinh thần tương thân tương ái với phương
châm “Nhường cơm xẻ áo”, “ Lá lành đùm lá rách”, “Một miếng khi đói bằng
một gói khi no”. Những việc làm ấy phần nào phản ánh được phẩm chất cao
đẹp của con người Việt nam. Thật đúng như lời của cố Hòa Thượng Thích
Đức Nhuận đã nói: “Hãy tỏ ra mình có đức hạnh, can đảm và hết lòng. Cố
gắng thương yêu mọi loài. Con người chỉ xứng danh với danh nghĩa của nó
chừng nào làm chủ được ý nghĩ, lời nói và hành động của mình về cả nội giới
và ngoại giới. Chinh phục được ngoại là một công trình to lớn, nhưng điều
đáng ca ngợi hơn hết vẫn là sự điều ngự được chính mình. Do đó, về phương
diện luân lý, Đạo Phật đặt trọng tâm vào sự thiện ác vào tội phúc báo ứng
phân minh và vào luật nhân quả, vì biết rằng: làm lành được sung sướng. Làm
ác chịu khổ sở. Nhân nào quả nấy. Hành động của chúng ta hiện nay ra sao
thì kết trong ngày mai cũng lại y như thế. một hành động tốt hoặc xấu của cá
nhân sẽ có ảnh hưởng đến toàn thể không ít … Người có đạo đức luân lý là
một con người hoàn toàn sung sướng nhất trên đời, khác nào như bông hoa nở
đẹp, làm thơm cho cuộc thế”.
Qua những lời phát biểu trên, chúng ta không còn mơ hồ gì đối với giáo

lý phật giáo. một triết lý xây dựng cho con người nhận biết trách nhiệm cá
nhân để tự hoàn thiện cho mình một phong cách sống lành mạnh và có ý
nghĩa nhất. Đặc biệt xây dựng mối quan hệ tương quan mật thiết giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội, với đất nước, với dân tộc.
Ngoài tính nhân văn khẳng định và đề cao giá trị con người cũng như xây
dựng truyền thống tương thân tương ái, triết lý phật giáo còn xây dựng cho
dân tộc Việt nam một truyền thống luân lý đạo đức mang tính chất đặc trưng
của văn hóa Việt nam. Truyền thống tôn vinh “ Đạo đức”, đó còn là quan
niệm “Tích đức” vốn mang tính chất dân tộc tính rất cao. Nó thể hiện ý nghĩa
giáo dục đạo đức làm người không chỉ trong hiện tại mà còn lưu lại ở mai
sau. Hai chữ “tích đức” nghe qua sao thật bình dị đời thường nhưng ẩn chứa
bên trong một giá trị nhân văn rất lớn. Quan niệm ấy vốn được hun đúc sâu
xa từ tính chất nhân sinh quang của Đạo Phật và đã ăn sâu vào lòng dân tộc
Việt nam. Tích đức bao hàm ý nghĩa khuyên răn con người sống ở đời phải
biết lấy nhân đức làm trọng, tránh xa các điều ác, nổ lực làm các việc lành với
một tâm nguyện cao đẹp là để lại cái “Đức” cho con cháu mai sau. Như ông
cha ta thường nói:
“Cây xanh thì lá cũng xanh,
Tu nhân tích đức để dành cho con.”
Hay : “Cây xanh thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Mừng cây rồi lại mừng cành,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông sánh với bảy tròn,
Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu.”
Để lại cho con cháu cái danh thơm tiếng tốt là một quá trình ông cha ta đã
sống tốt sống đẹp (tu nhân tích đức) mà có được. Truyền thống ấy được tiếp
nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không những thế, trong quan hệ qua lại
của xóm giềng, trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội, người dân việt nam
luôn luôn khuyên răn nhắc nhỡ lẫn nhau sống sao cho tốt đẹp không chỉ cho

hôm nay mà còn lưu lại tiếng tốt cho mai sau. Quan niệm và ý thức về hành
động “Tích đức” luôn được người Việt nam coi trọng và lưu truyền cho nhau
qua câu nói thật nhẹ nhàng mà sâu lắng “Ăn ở có đức mặc sức mà ăn”. Quan
niệm ấy được xem như một lẽ sống tự nhiên không thể thiếu trong mỗi gia
đình người Việt nam.
Dưới ảnh hưởng của phật giáo, truyền thống ấy dần dần đã trở thành một
nếp sống tự nhiên của dân tộc Việt nam. Như lời Giáo sư Nguyễn Khắc
Thuần đã nói : “Tích đức cho thế hệ sau là để lại gia sản thiêng liêng và vô
giá nhất. Từ nhận thức với những mức độ khác nhau và từ phép ứng dụng
thiết thực thuyết nhân quả vào cuộc sống, đạo đức làm người được tôn vinh,
vượt lên trên tất cả những giá trị vật chất khác”
4. Phật giáo với lễ hội:
Vấn đề lễ hội trong Phật giáo ta thường thấy bản thân Phật giáo không
có hội mà chỉ có lễ. Thế nhưng có hai lý do, một là thời Lý – Trần mọi sinh
hoạt văn hóa được diễn ra ở ngôi chùa, cho nên lễ hội diễn ra ở chùa được
duy trì kéo dài mãi cho đến ngày nay. Hai là ở Phật giáo ngôi chùa đã hỗn
dung tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu vào trong đó nên lễ hội diễn ra ở ngôi
chùa. Cả hai khía cạnh hội chùa mang tính chất là hội làng. Trong khuôn khổ
bài viết này bản thân chỉ nêu một vài lể hội để làm nổi bật sự ảnh hưởng của
Phật giáo đối với đời sống văn hóa xã hội ở nước ta.
4.1. Lễ hội Quan Thế Âm:
Tín Ngưỡng Quan Âm ở nước ta đã có từ thời Lý với câu chuyện vua
Lý Thánh Tông nằm mơ thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài sen, giơ tay đón
mình lên và ngày nay chùa Một Cột ở Hà nội có liên quan đến tích ấy.
Tín ngưỡng Quan Thế Âm ở chùa Hương bắt nguồn từ chuyện Nam
Hải Quan Âm của một nhà sư Trung Quốc thời Nguyên du nhập vào nước ta
và đã được Việt hóa vào thế kỷ thứ XV.
Ngày nay, lễ hội Quan Thế Âm được tổ chức vào ngày 19 tháng 2; 19
tháng 6; và 19 tháng 9 mỗi năm để kỷ niệm ngày hiển linh của Bồ tát. Sau đó,
năm 1962 lễ hội được tổ chức tại động Quan Âm, sau ngày hoàn toàn thống

nhất đất nước, từ năm 1991 lễ hội được tổ chức lại với quy mô lớn hơn, nội
dung phong phú hơn và kéo dài trong ba ngày bao gồm hai phần: lễ và hội.
Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung:
Lễ rước ánh sáng: Nghi lễ rước ánh sáng thường tổ chức vào tối ngày 18,
gồm rước đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi
đường cho chúng sinh, mà trong phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí
tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện.
Lễ khai kinh: Lễ được tổ chức vào sáng sớm ngày 19, đây là lễ cầu nguyện
cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc.
Lễ trai đàn chẩn tế: lễ này cũng được tổ chức vào sáng ngày 19 để cầu siêu,
cúng thập loại chúng sinh, thường trước đó đồng bào phật tử gởi danh sách
những người thân của mình đã mất đến chùa để làm lễ cầu siêu. Trong lễ này
phải mời người có giới phẩm đứng ra làm lễ.
Lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc: lễ cúng được tổ chức vào
sáng ngày 19, ngợi ca lòng từ bi bác ái của đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm và
cầu nguyện cho dân tộc an bình, thịnh vượng.
Lễ rước tượng Quán Thế Âm: Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày
19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật bà đi trước,
và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc
thuyền đậu trên Sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền
chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng
sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi
lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an.
Lễ thường được tổ chức vào đêm ngày 18. Trong ngày lễ này các bô lão của
các phường Hòa Hải, Hòa Quý khăn áo chỉnh tề, tay cầm cờ lọng, đuốc, lồng
đèn, có đội nhạc cổ và chiêng trống đi theo. Sau khi làm lễ và đọc văn tế,
đoàn bô lão sẽ dẫn đầu đoàn rước cộ xuống bờ sông Cầu Biện để mở hội hoa
đăng, rồi từ chùa Quán Thế Âm đi quanh các khu phố qua các làng đá mỹ
nghệ Non Nước, xuống khu du lịch Non Nước và trở về lại lễ đài với lộ trình
dài hơn 2km.

Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm
bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại như hội hoá trang, hát dân ca, thi cờ,
nhạc, hoạ, điêu khắc, múa tứ linh, thả đèn trên sông, hát tuồng các hoạt
động văn hóa như triển lãm thư pháp và tranh thủy mặc, hội thi thuyết minh
về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn chay
Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán
Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp
phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa
hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè,
soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn
4.2. Lễ cầu an:
Theo dòng thời gian, Phật giáo cùng tồn tại trên cuộc đời này, và trong
suốt thời gian đó những giáo lý, những kinh điển của Phật giáo đã thấm sâu
vào máu tủy của mỗi người khiến mọi người đều ý thức được rằng mình là
chủ nhân ông của nghiệp mà mình đã tạo, không ai có thể thay thế hay gánh
chịu giúp mình được. Đức Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, ngọn
đuốc ta đã sắm sẵn rồi, các ngươi hãy thắp lên và đi theo lý tưởng của mình”.
Trong cuộc sống hiện tại, mọi người đều hay gọi là cầu an mỗi khi gia đình
có người đau ốm, bệnh tật, hay những chuyện bất như ý thì đều đến xin cầu
an. Họ cho rằng cầu an là cầu cho người bệnh được khỏe mạnh, được an ổn,
sống lâu v.v…nên họ luôn đặt hy vọng vào những vị sư đến cầu an. Điều mà
người viết muốn nhấn mạnh ở đây là mỗi người xuất gia, nhiệm vụ cao cả của
mình là “ Thừa như lai sứ, hành như lai sự” vì vậy khi được Phật tử mời đi
cầu an thì phải làm sao chỉ cho họ thấy được mục đích của sự cầu an, chúng
ta cũng không thể từ chối những khi được thỉnh mời như vậy. Đức Phật dạy: “
Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” và như vậy, từ những dịp cầu an
đó, ta tiếp xúc với họ, gần gũi, khuyên răn, chỉ rõ cho họ biếi rằng cầu an này
chỉ là sự trợ duyên mà thôi, không phải là hoàn toàn dựa vào sự cầu an đó mà
được an ổn, an hay không an là do chính nơi hành động, việc làm, cách sống

và cư xử hàng ngày của mình. ví như một người chuyên đi trộm cướp, giết
người thử hỏi mời quý sư về để cầu an cho người đó thì người đó có được an
hay không? Lại như một người chuyên đi làm phước, giúp đỡ mọi người,
luôn sống trong sự bình thản thì cho dù không cầu an thì vị ấy vẫn luôn cảm
thấy an lạc, hạnh phúc không sợ phải bất an. Vậy cầu an là sự mong muốn, là
ước vọng được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc. Nó không giới hạn ở việc
cầu cho người bệnh sớm lành mạnh, tai qua nạn khỏi như nhiều người đã hiểu
lầm. Để được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm, theo Đức
Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời sống đạo đức và trí tuệ, phát huy các
hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an trụ chánh niệm và tỉnh thức trong
từng giây phút hiện tại, không hoài vọng về quá khứ để thoát khỏi thế giới
đau thương, không hoài vọng về tương lai để không lo âu sợ sệt, sống một
cách sáng suốt bình thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người
sống được như vậy thì lúc nào cũng an, lúc nào cũng khỏe mạnh, cũng hạnh
phúc không cần cầu nguyện và mong mỏi. Trái lại, nếu chúng ta sống buông
lung, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, không làm các điều thiện, rơi vào con đường tội
lỗi thì dù có cầu nguyện, cầu an bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không thể an
ổn được. Như vậy, vấn đề cầu an trong Phật giáo là nhấn mạnh đến sự an trú
trong giây phút hiện tại, từng cử chỉ, từng hành động của mình được ý thức,
được chọn lọc, được cảnh tỉnh thì tâm mình luôn được an lạc.
4.3. Lễ cầu siêu:
Cầu siêu là cầu mong cho vong hồn người chết được sớm siêu thoát
hay sanh về thế giới chư Phật. Do đó chữ “cầu siêu” có thể là hình thức viết
ngắn của từ “cầu siêu độ” hay “cầu siêu sanh” hay đầy đủ hơn là “cầu siêu
sanh tịnh độ”. Như vậy cầu siêu là nguyện vọng, là ước muốn nhắm tới chủ
yếu là người quá cố.
Sau khi người thân qua đời, con cháu làm lễ cầu siêu cho Ông Bà, Cha
Mẹ trong mỗi tuần thất, tiểu tường, đại tường hoặc lễ Trung nguyên bằng
hình thức lập đàn cầu siêu tại chùa, hoặc thỉnh chư Tăng, Ni về gia đường
tụng kinh chú nguyện, chủ yếu là nhắc cho người chết nhớ lại pháp môn niệm

Phật “nhất tâm bất loạn” như là điều kiện tiên quyết để vãng sanh tịnh độ, để
hương linh nương theo đó niệm Phật mà vãng sanh. Các kinh thường tụng
trong dịp cầu siêu như: Kinh A Di Đà, Kinh Địa Tạng, Kinh Vu Lan. Chư
tăng ni tụng kinh nhằm nhắc nhở cho con cháu của người quá vãng trau dồi
tâm tánh cho thuần thục và noi theo gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền
Liên. Nói chung các bài kinh trên không chỉ có tác dụng tốt cho người quá cố
mà hơn hết là nhằm giáo dục cho thân quyến của người chết về các phương
pháp tu tập và làm nhiều điều phước thiện.
Song theo đạo Phật không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải
thoát cho ai cả, chỉ có mình tạo nghiệp lành hay dữ mà đến khi mạng chung
chiêu cảm quả báo thiện ác, chứ không phải lúc sanh tiền tạo bao nghiệp ác
rồi đợi sau khi chết người thân cầu siêu để được vãng sanh thì không thể
được. Chính vì lẽ đó, nên người phật tử phải ý thức sâu sắc rằng, một khi đã
tạo nghiệp ác, dù có van xin, chúng ta cũng phải là người gặt hái kết quả đau
khổ của nó. Không ai có thể đánh đổ quy luật muôn đời này. Sau đây là một
đoạn kinh cho thấy rõ điều đó: “ nếu ai làm mười nghiệp ác, rồi một quần
chúng đông đảo đến cầu khẩn van xin, thành kính mong rằng người ấy sẽ
được sanh thiện thú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích, làm mười nghiệp ác phải
rơi vào đọa xứ. Sự thể như có một người quăng tảng đá vào hồ nước, rồi
nhiều người đến cầu khẩn, van xin cho tảng đá ấy được nổi lên, sự cầu khẩn
như vậy là vô ích. Vì tảng đá, với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không
thể trôi vào bờ như lời cầu khẩn. Cũng vậy, tạo mười nghiệp ác thì phải rơi
vào đọa xứ”. Ở đây, lời của Phật nhằm xác quyết rằng hành vi ác và bất thiện
là nguyên nhân gây ra các hậu quả khổ đau, mà người đã tạo ra nó phải gánh
chịu trong đời của mình, dù hiện tại hay về sau.
Như vậy, sự cầu siêu chỉ mang tính cách biểu tượng, thể hiện tấm lòng
thương kính và biết ơn đối với người quá cố, và ở phương diện khác nhằm
nhắc cho người quá cố biết về quy luật sanh tử mà không quyến luyến thế
gian, dễ dàng ra đi hay tái sanh.
Tóm lại, để được siêu thoát, mỗi người phải tự trang bị cho mình các

hành trang đạo đức khi còn mạnh khỏe, làm lành lánh dữ, bố thí cúng dường,
tạo mọi phước đức, để khi thình lình cơn vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay,
nghiệp thiện của chúng ta sẽ dẫn dắt chúng ta tái sanh về cảnh giới tốt hay
vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Không nên cầu mong vào tha lực, tất cả
tùy thuộc vào đời sống đạo đức, trí tuệ và thái độ sáng suốt của chúng ta.
5. Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục tập quán
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi
dân tộc. Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được
những giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với
người Việt Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá
nhiều. Song ở đây người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời
sống hằng ngày của người Việt.
5.1. Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh
và bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp
sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật
giáo. Vì khi đã trở về với phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì
giới, trong đó giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương
yêu mọi loài. Trong hành động lời nói và ý nghĩa, người phật tử phải thể hiện
lòng từ bi. Điều không thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu
chúng sanh. Để đạt được mục đích đó, người phật tử phải dùng đến phương
pháp ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay trường, còn phật tử tại gia còn
nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ. Thông thường người Việt Nam, cả phật tử
lẫn người không phải phật tử cũng theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi
tháng hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi
tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và 30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29,
có người ăn mỗi tháng sáu ngày là những ngày mùng 8,14, 15, 23, 29 và 30
(nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 28, 29), có người phát tâm ăn chay mỗi
tháng mười ngày là ngày 1,8,14,15,18,23,24, 28 và 30 và mùng 1 (nếu tháng
thiếu thì ăn vào ngày 27,28,29) cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay

suốt cả tháng (thường là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng, tháng
bảy và tháng mười) hay cả năm, đôi khi có một số người đi phát nguyện ăn
trường trai giống như những người xuất gia.
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn uống Á Đông,
chú trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho
cơ thể được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây các bác sĩ
Soteylo, và bác sĩ Varia Kiplami cho biết trong các thứ thịt có nhiều chất độc,
rất nguy hiểm cho sức khoẻ con người. Và các nhà khoa học đều cho rằng ăn
chay rất hợp vệ sinh và không kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên
nguời việt nam dù không phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này
đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc
thờ phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người phật tử, người mộ
đạo thờ phật đã đành, nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng
phật hay tranh ảnh có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh
nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, phật
giáo là một thành tựu về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
5.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ
chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ
tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự
cảm ứng với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong
sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày
sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm
lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng
tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa.
Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn,
nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn
kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng

tánh của họ.
6. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của người
Khmer khu vực ĐBSCL nói riêng và Trà Vinh nói chung
Trong lịch sử phát triển của các dân tộc, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng
mang tính cộng đồng như là một đặc trưng văn hóa tộc người, chịu sự tác
động của nhiều yếu tố như: địa lý tự nhiên, môi trường lịch sử - xã hội, sự cố
kết cộng đồng dân cư. Đối với người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
hình thức sinh hoạt cộng đồng là một hình thức phổ biến, mang tính truyền
thống đặc sắc của cư dân miền sông nước. Đồng bằng sông Cửu Long là một
trong những đồng bằng rộng lớn và màu mỡ bậc thất của Việt Nam, với diện
tích khoảng 40.000 km2, bao gồm 12 tỉnh, thành phố thuộc miền Tây Nam
Bộ. Đồng bằng sông Cửu Long được hình thành trong quá trình địa chất lâu
dài, chủ yếu do sự bồi đắp phù sa của hệ thống sông Mêkông. Đặc biệt, Đồng
bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo nên sự điều hòa
nguồn nước và giao thông đường thủy thuận tiện. Nơi đây là vùng nhiệt đới
gió mùa, thời tiết trong năm có hai mùa rõ rệt, là nơi cư trú của cư dân các
dân tộc Khmer, Việt, Hoa, Chăm Với những đặc điểm về địa lý, môi sinh
như vậy, đây được coi là một trong những vùng trọng điểm về sản xuất nông
nghiệp quan trọng nhất của cả nước. Ờ Đồng bằng sông Cửu Long người
Khmer là tộc người cư trú lâu đời nhất, trước khi có người Việt, Hoa và
Chăm, các dân tộc hiện nay sống xen kẽ với nhau trong vùng, đồng thời mỗi
dân tộc thường tập trung ở một địa bàn cư trú riêng. Người Khmer tập trung
cư trú chủ yếu ở các vùng Trà Vinh, một phần Vinh Long, vùng ven biển Sóc
Trăng và vùng biên giới Châu Đốc kéo dài tới tận Rạch Giá. Mặc dù ở mỗi
vùng điều kiện môi sinh khác nhau, các dân tộc sống xen kẽ nhau, nhưng
người Khmer vẫn bảo lưu, gìn giữ được truyền thống văn hóa đặc sắc của dân
tộc mình. Có thể nói trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt Phật
giáo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là chất men kết dính cộng đồng dân
cư bền chặt nhất, đây là nét đặc thù nổi bật nhất của xã hội Khmer truyền
thống, cho dù Phật giáo Tiểu thừa chỉ mới du nhập vào Đồng bằng sông Cửu

Long từ khoảng thếkỷ XII, nhưng nó đã chi phối khá sâu sắc đời sống nông
thôn Khmer. Điều này được thể hiện qua việc phân bố các ngôi chùa trên địa
bàn của đồng bào Khmer cư trú, (trên toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long
có khoảng hơn 400 ngôi chùa), xung quanh mỗi chùa bình quân khoảng l.600
người cư trú. Chùa Khmer thường tọa lạc trên một khu đất rộng, xung quanh
chùa thường được trồng các loại cây to như dầu, sao, thốt nốt tạo thành một
khu rừng nhỏ trông rất cổ kính và tĩnh lặng, toàn cảnh chùa là một không gian
tâm linh khoáng đạt và trầm mặc. Khác với nhiều tôn giáo khác, Phật giáo
Khmer không chỉ đảm nhận chức năng tôn giáo mà còn đảm nhận các chức
năng văn hóa, xã hội, đạo đức với từng cá nhân và cả cộng đồng. Chính vì
thế ngôi chùa của người Khmer được xây dựng không chỉ đáp ứng nhu cầu
của hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng mà bên cạnh đó còn có nhu cầu của giáo
dục và các sinh hoạt văn hóa xã hội của cư dân. Như vậy, việc tham gia vào
sinh hoạt, lễ nghi tôn giáo một cách thường xuyên và những hoạt động mang
tính tôn giáo đã giúp các cá nhân có cơ hội hòa hợp, gần gũi cùng nhau, hiểu
biết lẫn nhau hơn. Đây là cơ sở làm cho cộng đồng ngày càng phát triển. Một
nét đẹp về văn hoá của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long là tất cả
nam công dân đều biết chữ. Theo tập quán truyền thống, người con trai khi
lớn lên phải vào chùa đi tu, đi tu là hình thức vừa học chữ vừa học đạo, tu để
trở thành người có nhân cách, có văn hoá và là một hình thức để báo hiếu cha
mẹ đã có công dưỡng dục, sinh thành. Theo quan niệm của người Khmer, nhà
có con trai mà không đi tu là gia đình mang tiếng xấu, khi người con trai đã
vào chùa tu rồi thì trở thành thành viên trong tam bảo là phật, pháp, tăng mà
mọi người thường gọi là “lục”, hàng ngày cha mẹ, chị em phải dâng cơm cho
“lục” gặp con cha mẹ cũng phải sùng kính thi lễ, quỳ lạy như gặp “lục cả”.
Trong sách dạy làm người của người Khmer có câu “ri neak minh ban buốt
tu, chia tôn không sao sơ mai” (người không được tu hành trong chùa là
người nhiều tội lỗi trong cuộc sống), câu nói này thể hiện tầm quan trọng của
cuộc sống tu hành đối với người con trai Khmer. Vì thế, nhà trường được coi
là trường học giáo dục về tri thức và đạo lý mà các bậc sư sãi, cao tăng là

những người chăm lo cuộc sống ấy. Đối với đông đảo tín đồ Khmer, công
việc giáo dục của nhà chùa chủ yếu thông qua hình thức thuyết pháp và tu
thiền. Điều này được phản ánh trong mọi lễ hội phật giáo, như lễ Phật đản,
Nhập hạ, Xuất hạ, ban hành giáo lý Cũng như một số lễ hội được tổ chức tại
chùa hay các tiểu lễ tổ chức ở các gia đình đều có sự tham dự của các vị sư
trong các chùa, đặc biệt là các ông Acha, Amaha. Trong những dịp được mời

×