Tiểu sử
Ông sinh năm 1917 tại Hà Nội.
• Năm 1934 - 1935, ông học dự bị ở trường Mỹ thuật Đông Dương
• Năm 1936 ông thi đỗ vào trường Mỹ thuật Đông Dương, học khoá 11 (1936 -
1941) cùng với các hoạ sĩ Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Trang
Chước, Trần Văn Lắm
• 1936 - 1940, ông đã có nhiều tác phẩm tham dự các triển lãm của Hội Việt Nam
khuyến khích mỹ thuật và công nghệ tổ chức (SADEAI), Hội hợp tác nghệ sĩ
Đông Dương tổ chức ở Việt Nam và ở cả nước ngoài như Paris (Pháp), Batavia
(Indonesia), Bruxelles (Bỉ) và ở San Francisco (Mỹ)
• Năm 1941 ông tốt nghiệp hạng ưu với ba tác phẩm Vịnh Hạ Long - sơn mài; Hội
đền Chèm - sơn mài; Trăng lên - khắc gỗ
• Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1942, ông đi vẽ ở Angkor - Campuchia (các tác
phẩm sau này được trưng bày tại trụ sở Hội nghị văn hoá toàn quốc 1945 - 1946).
Tháng 11/1942, ông tổ chức triển lãm riêng lần thứ nhất tại trụ sở của nhóm
FARTA (cái nôi nghệ thuật Việt Nam) gồm 32 tác phẩm sơn mài, lụa, khắc gỗ.
• Năm 1943, ông đi Nhật Bản tham gia triển lãm ở Tokyo, với hai tác phẩm Nghỉ
ngơi - sơn mài và Hai cô gái Mường - khắc gỗ. Dự triển lãm nhóm FARTA với
ba tác phẩm về Làng Mía ở Sơn Tây (sơn dầu), Nhân vật và Vịnh Hạ Long (sơn
mài)
• Năm 1943 - 1944, ông làm trang trí sân khấu với đoàn kịch Thế Lữ ở Hà Nội.
• Năm 1945, ông làm Uỷ viên Ban chấp hành Hội Văn hoá Cứu quốc, viết bài cho
báo Tiên Phong, tổ chức triển lãm Văn hoá và vẽ bức tranh cổ động Độc lập hay
là chết trưng bày tại Hà Nội.
• Nhân dịp kỷ niệm một năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm
1946, ông tham gia Ban tổ chức triển lãm Mỹ thuật tháng Tám trưng bày tại Nhà
hát Lớn Hà Nội, và có hai tác phẩm sơn mài Chăn trâu và Nghỉ ngoài ruộng gặt.
Cuối năm 1946, ông tham gia tổ chức và giảng dạy Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Việt Nam, sau đó đi vẽ ở mặt trận Nam tiến.
• Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, năm 1947, ông đi vào miền Trung, làm Uỷ viên
Ban chấp hành Hội Văn hoá kháng chiến Thanh Hoá và Liên khu IV, Viết bài cho
báo Chống giặc và Sáng tạo, vẽ tranh cổ động, trang trí sân khấu - hoá trang cho
đoàn kịch kháng chiến.
• Năm 1948, ông tổ chức xưởng hoạ Liên khu 4 và dạy lịch sử Mỹ thuật và Hội hoạ
phân trường Mỹ thuật liên khu 4, Biên tập và xuất bản tập san Mỹ thuật và Tạp
chí Sáng tạo - cơ quan ngôn luận của Văn hoá kháng chiến Liên khu 4 (1948 -
1950). Cũng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông đi thực tế và vẽ tranh ở
chiến khu Việt Bắc (Bắc Kạn, Bản Thi, Đại Từ - Thái Nguyên), ở những làng
kháng chiến Cự Nẫm, Lệ Sơn, Cảnh Dương (Quảng Bình) Năm 1953, ông tham
gia đội giảm tô và cải cách ruộng đất ở Phú Thọ. Đi vẽ tại chiến dịch Điện Biên
Phủ (1954).
• Hoà bình lập lại, ông trở về Hà Nội, tham gia Ban tổ chức triển lãm chào mừng
Thủ đô giải phóng do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức tại Nhà Hát lớn Hà Nội.
Sau đó ông công tác tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam và tham gia hoạt
động ở Hội Văn nghệ Việt Nam và Hội Mỹ thuật Việt Nam.
• Ông là Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam đầu tiên (1957 - 1958), Uỷ viên Ban
chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1957 - 1958). Năm 1983
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Hội Mỹ thuật Việt Nam, ông tiếp tục
được bầu vào Ban chấp hành Hội, Hội đồng nghệ thuật, Uỷ viên Ban chuyên
ngành Hội hoạ, Phó chủ tịch Hội đồng chuyên ngành Hội hoạ, Uỷ viên Ban
chuyên ngành Lý luận phê bình khoá II (1983 - 1989); Uỷ viên Hội đồng nghệ
thuật Hội khoá III (1989 - 1994).
• Trong suốt 55 năm công tác, ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội
Mỹ thuật Việt Nam cũng như sự phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại ở
tất cả các lĩnh vực: sáng tác, giảng dạy và lí luận. Ông mất ngày 19 tháng 1 năm
1992 tại Hà Nội.
[sửa] Sự nghiệp hội hoạ
Nguyễn Văn Tỵ bắt đầu sáng tác từ sớm. từ lúc học lớp dự bị trường Mỹ thuật Đông
Dương, ông đã có những sáng tác sơn dầu và lụa như Cảnh chùa và Tháp, Chân dung em
gái được bày ở các cửa hàng tranh. Ông đã nhiều lần tham dự các triển lãm và dành được
nhiều giải thưởng. Từ trước năm 1945, ông chuyên về tranh lụa, sơn dầu và khắc gỗ. Sau
này ông chuyên về tranh sơn mài, và những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đa số đều
dùng chất liệu này.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, mặc dù thiếu thốn nhưng ông vẫn liên tục có
nhiều sáng tác mới trong đó có nhiều tác phẩm ký hoạ về nông dân, về bộ đội, về dân tộc
Thái, các tác phẩm với chất liệu in đá, sơn mài, lụa như Chiến luỹ ngã tư sở, Xe cứu
thương, Cầu mới (tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1948 chào mừng Đại hội Văn
nghệ Việt Nam), tác phẩm Bộ đội giã gạo, Vùng biển Cảnh Dương - lụa, Lão chài - sơn
mài (Triển lãm Hội hoạ 1951 tại Chiêm Hoá - Tuyên Quang) Ông còn viết nhiều bài
báo, các bài nghiên cứu về mỹ thuật
[1]
.
Trong những năm tháng hoạt động mỹ thuật ở miền Bắc (1954 - 1975), ông đã có nhiều
tác phẩm mới trưng bày tại nhiều triển lãm lớn: Nông dân kể khổ - sơn mài, Cấy ở Tây
Bắc, Khu tự trị Việt Bắc - lụa, tranh cổ động Chị Vân tố cáo vụ Thảm sát Hướng Điền
(Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1955), Hữu nghị - sơn mài, Xô viết Nghệ Tĩnh (đồng
tác giả) - sơn mài (1957), Nhà tranh gốc mít - sơn mài, Du kích Bắc Sơn - sơn mài (Triển
lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1958), Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội , Mùa gặt ở Thanh
Hoá , Nhà tranh gốc mít (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1960). Một số tác phẩm của ông
đã được chọn tham dự triển lãm 12 nước Xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu
(1960). Sau đó ông tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm khác như: Em bé đọc sách, Căm thù
- sơn mài, Phong cảnh Chợ Chu (Cánh đồng Chợ Chu) - sơn dầu (1960), Bắc Nam thống
nhất, Biển ở Vĩ tuyến 17 (1961) Ông đã nhiều lần đi thực tế tại khắp nơi trên cả nước và
Lào, tham gia chiến dịch Buôn Ma Thuột và chiến dịch Hồ Chí Minh (tháng 3/1975). Với
những tư liệu ký hoạ thời kỳ kháng chiến chống Pháp và qua các chuyến đi thực tế, hoạ sĩ
Nguyễn Văn Tỵ đã sáng tác nhiều tác phẩm sơn mài, lụa, tranh khắc: Mùa lúa chín - lụa,
Du kích mũ nan - khắc gỗ (Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ hoạ Leipzig 1965), Hai
đội quân gặp nhau - sơn mài (1968), Du kích Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Bên bờ Nhật
Lệ (1969), Ra đảo (1971), Đêm Noel Hà Nội 1972 (1973)
[1]
Sau khi thống nhất, cùng với nhiều hoạ sĩ trong cả nước, ông tập trung sáng tác nhiều tác
phẩm dựa trên những ký hoạ, những ký ức của các chuyến đi thực tế từ thời kháng chiến
chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ. Về chất liệu sơn mài có các tác phẩm : Vịnh Hạ
Long, Chiến dịch Điện Biên Phủ (1980), Ngày vui (1983), Hạ Long, Đường làng, Chợ
Bờ, Mèo (1984), Bên dòng Mê Kông (1985), Hai cô Mường (1986), Hội đánh cồng
(1987), Làng Mỗ (1988), Phong cảnh miền núi (1989), Phong cảnh Tây Nguyên, Phong
cảnh (1991). Về chất liệu sơn dầu: Ngày vui, Cảnh Pắc Bó tham dự triển lãm Mỹ thuật
toàn quốc năm 1976. Về chất liệu lụa có: Bác Hồ ở Pắc Bó (1978), Lưới Hải Vân, Mưa
giông, Cấy lúa, Bàn đá chông chênh (1981), Hồi tưởng (1988)
[1]
.
Các tác phẩm hội hoạ, đồ hoạ của hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ thể hiện bút pháp khoẻ khoắn,
hình hoạ chuẩn xác, bố cục khái quái, phóng khoáng với những tìm tòi thể nghiệm tạo
nên bản sắc riêng
[1]
. Ngoài ra ông còn vẽ bộ tem Hữu Nghị Quan nhân kỷ niệm quốc
khánh nước CHND Trung Hoa (1965)
[2]
.
Ngoài công việc sáng tác, ông còn là nhà lí luận, phê bình mỹ thuật với nhiều bài viết
được đăng trên các báo. Ông đã viết khoảng 200 bài đã được công bố bằng giáo trình hay
tham luận khoa học. Ông đã giảng dạy, đào tạo nhiều thế hệ hoạ sĩ trong thời kì kháng
chiến chống Pháp và thời gian giảng dạy tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (1956-
1970). Ông còn soạn nhiều giáo trình phục vụ công tác giảng dạy, đặc biệt cuốn sách
Bước đầu học vẽ được (Nhà xuất bản Văn hoá, 1963, tái bản 3 lần) là một giáo trình cẩm
nang hội hoạ có giá trị.
Tác phẩm Nam Bắc một nhà (1961) cùng với Hội chùa (Lê Quốc Lộc, Nguyễn Văn Quế,
1939), hai trong các tác phẩm sơn mài tiêu biểu của Việt Nam, là hai bức tranh được Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam phục chế lại năm 2006
[3]
.
[sửa] Tác phẩm tiêu biểu
• Hai Cô Mường - khắc gỗ in trên Lụa (76 x 45) -1940
• Nhà tranh gốc mít - sơn mài (67xl05) - 1958
• Du kích Bắc Sơn - sơn mài (86x121) - 1958
• Thiếu nữ và biển - sơn mài (96 x 94)-1960
• Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội - sơn mài (100x180) - 1960
• Nam Bắc một nhà - sơn mài (86x566) - 1961
• Đêm Noel Hà Nội 1972 - sơn mài (100x150) - 1973
• Chợ Bờ - sơn mài (60x90) - 1984
• Phong cảnh - sơn mài (150x240) - 1991
[sửa] Tặng thưởng
• Huy chương Vàng triển lãm SEDEAI năm 1937
• Huy chương ngoại hạng triển lãm SEDEAI năm 1939
• Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ hoạ Leipzig 1965
• Huy chương Đồng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995
• Huân chương kháng chiến hạng Nhì
• Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng I
• Huân chương Độc lập hạng Ba (12/1988)
• Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam, Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật
Việt Nam.
• Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật (2001)
[4]
[sửa] Tham khảo
1. ^
a
b
c
d
Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ - Trần Khánh Chương
2. ^ Khi hoạ sĩ nổi tiếng Việt Nam vẽ tem
3. ^ Hoàn thành việc phục chế hai bức tranh quý - Vietnamnet
4. ^ Nguyễn Văn Tỵ trong loạt bài 50 năm thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam
Lấy từ “ />%B5”