Câu hỏi: Phân tích mối quan hệ giữa đảng và nhà nước trong hệ thống
chính trị.
Bài làm
Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, thông qua Nhà nước, nhân
dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội ngày càng tốt hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã phát
huy tốt hơn vai trò quản lý của mình, có chính sách đúng, động viên và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. Tổ chức bộ máy, chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là của cơ quan hành chính nhà nước, đã có một
bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bước đầu đã có đổi
mới theo hướng vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy
trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Theo đó, đã giải quyết ngày
càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị: Tình trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước đã giảm
dần ở nhiều cấp; đã nâng cao vai trò chủ động và phát huy hiệu lực quản lý của
Nhà nước, tính chủ động, tự giác của các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng phát huy được vai trò của mình
trong việc tập hợp, đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong
trào cách mạng, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và nâng cao tính tự
quản của các cộng đồng dân cư. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò của dân
chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội, của việc phải từng bước xác lập và phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa; từng bước làm rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ
nghĩa và nhất nguyên về chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng;
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, yêu cầu và tác động của
phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế tới việc phát huy dân chủ ở
nước ta. Có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa xã hội
như ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
Quyền ứng cử, lựa chọn trong bầu cử, giám sát đại biểu được thực hiện có hiệu
quả hơn. Quyền của công dân tham gia vào các công việc Nhà nước và xã hội, xây
dựng các quyết định chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước được mở rộng và
thực chất hơn. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng
lên.
Bên cạnh đó, trong mối quan hệ Đảng - Nhà nước còn những khuyết điểm, hạn
chế sau:
Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của quá trình đổi
mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước; còn có tình trạng bao biện, chồng chéo và
buông lỏng nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành
của bộ máy nhà nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội chưa phát huy đúng mức vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, chưa phân rõ, còn lẫn lộn chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo với
Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng bị "Nhà nước hóa", cồng kềnh, không rõ chức
năng lãnh đạo. Càng xuống dưới càng khó phân biệt chức năng lãnh đạo, quyền
lực chính trị. Mô hình tổ chức đảng - Nhà nước - đoàn thể còn cồng kềnh, chồng
chéo, dư thừa, kém hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - đã được xác định từ lâu,
nhưng chưa được nghiên cứu để cụ thể hóa đầy đủ.
Thứ tư, bộ máy hành chính còn nhiều tầng, nhiều nấc làm cho việc quản lý các quá
trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả. Tình trạng quan liêu,
cửa quyền, nhũng nhiễu của một số bộ phận cán bộ, công chức nhà nước chưa
được khắc phục, kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều nơi.
Thứ năm, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các đoàn
thể không ít nơi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính hóa nặng nề, xơ cứng,
chậm đổi mới; một số cán bộ đoàn thể chưa thật gần với quần chúng.
Dự thảo cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) đã nêu rõ, trong quá trình thực
hiện phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý ". Để tiếp tục
giải quyết và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý
" trong thời kỳ mới của đất nước cần thực hiện tốt những việc sau:
Một là, nhận thức rõ về mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, " phù hợp
với đặc điểm của thời kỳ mới ở nước ta. Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của
mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý " bởi vì mọi hoạt động của
Đảng và Nhà nước đều từ nhân dân, và vì nhân dân. Người dân thực hiện quyền
làm chủ của mình không chỉ thông qua bộ máy nhà nước, mà họ còn tự mình thực
hiện quyền ấy. Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu phải thông qua Nhà nước chứ không
phải lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập đứng bên ngoài hay đứng trên
Nhà nước bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước.
Điều này có nghĩa rằng, Đảng phải hóa thân vào Nhà nước, nắm giữ các cương vị
của bộ máy nhà nước. Đảng phải phát huy vai trò và trách nhiệm cá nhân của từng
đảng viên ưu tú của Đảng, được nhân dân tín nhiệm bầu ra, nhân dân chính thức
giao quyền. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và
chứng minh cho nhân dân thấy tính đúng đắn và tính khoa học trong các đường
lối, quyết sách của mình. Để có thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước của
mình, Nhà nước phải được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp để đảm bảo "lao động" quyền lực được phân công một cách hiệu quả.
Nguyên tắc ở đây là Nhà nước tồn tại để phục vụ nhân dân, chứ không phải nhân
dân tồn tại để phục vụ Nhà nước. Trong một xã hội dân chủ thì nhà nước phải là
người bảo vệ quyền công dân, quyền con người chứ không phải để tước đoạt và
ngăn cấm công dân thực hiện quyền dân chủ của mình. Do vậy, tư duy mới phải
đặt "nhân dân" vào trung tâm của mối quan hệ này; sự lãnh đạo của Đảng; sự quản
lý của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu dân chủ của người dân, phục vụ lợi ích
của nhân dân và là những đảm bảo quan trọng để nhân dân thật sự là chủ và thật
sự làm chủ.
Hai là, cần xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp
quyền trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Đảng và Nhà nước đều là
những tổ chức thực hiện các ủy quyền quyền lực của nhân dân. Quyền lực nhà
nước và quyền lực của Đảng đều bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, do vậy,
Đảng trong vai trò Đảng cầm quyền không bao hàm ý nghĩa Đảng là cấp trên của
Nhà nước, đứng lên trên Nhà nước, quyết định các công việc của Nhà nước.
Ba là, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý," chỉ có thể vận
hành và đưa lại kết quả thiết thực khi các quan hệ giữa Đảng, nhân dân, Nhà nước
được phân biệt rành mạch về quyền và trách nhiệm của mỗi chủ thể thông qua một
hệ thống thể chế xác định. Điều này đòi hỏi phải thể chế hóa vai trò, trách nhiệm
lãnh đạo của Đảng, vai trò, trách nhiệm quản lý của Nhà nước và địa vị làm chủ,
hình thức, phương thức làm chủ của nhân dân bằng một hệ thống các văn bản
pháp luật, các quy chế quan hệ cụ thể giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân.
Bốn là, bảo đảm quyền làm chủ và tăng cường năng lực làm chủ của nhân dân
trong việc triển khai mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Để bảo đảm
được quyền làm chủ của người dân trong mối quan hệ với Đảng và Nhà nước,
trong thời gian tới chúng ta cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
(1) Đổi mới công tác bầu cử;
(2) Thiết lập những giới hạn quyền lực của Nhà nước trong Hiến pháp;
(3) Thiết kế một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngay trong bộ máy nhà
nước;
(4) Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của người dân;
Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" không chỉ là mô thức
thực hiện dân chủ ở cơ sở, mà cần phải trở thành phương châm thực hành dân chủ
ở mọi cấp. Để có thể trở thành phương châm dân chủ có tính phổ quát ở tất cả các
cấp, nhiều nghiên cứu về dân chủ đã đề xuất thay "dân kiểm tra" bằng "dân giám
sát" và bổ sung vào phương châm này nội dung: dân quyết định, dân được hưởng
để hoàn thiện mô hình tổng quát về dân chủ của người dân: dân biết, dân bàn, dân
quyết định, dân làm, dân giám sát và dân được hưởng.