Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

TÌNH HÌNH VẬN ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG ODA THỜI KỲ 2001 2005 VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.71 KB, 5 trang )

TÌNH HÌNH VẬN ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG ODA THỜI KỲ 2001 - 2005 VÀ
NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA
Công tác vận động nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) trong thời kỳ 2001 -
2005 đã được thực hiện tích cực, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việc vận động ODA đã được thực
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và ở tất cả các cấp từ Trung ương đến cơ
sở cũng như ở các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Tổng lượng ODA cam kết đạt 14,7 tỷ USD
Thông qua các Hội nghị CG thường niên, các nhà tài trợ đã cam kết ODA cho
Việt Nam với mức năm sau cao hơn năm trước và dự kiến tổng lượng đạt 14,7
tỷ USD trong giai đoạn 2001 - 2005. Số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm
viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15 - 20%, phần còn lại là vốn vay ưu
đãi. Số vốn ODA cam kết này được sử dụng trong nhiều năm, tuỳ thuộc vào
thời hạn của các chương trình và dự án cụ thể.
Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ
các điều ước quốc tế về ODA (dự án, nghị định thư, hiệp định, chương trình).
Tính từ năm 2001 đến hết 2004, tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã
được ký kết đạt 8.781 triệu USD, trong đó 7.385 triệu USD vốn vay và 1.396
triệu USD viện trợ không hoàn lại, chiếm khoảng 78% tổng nguồn vốn ODA đã
được cam kết trong cùng giai đoạn.
Nguồn vốn ODA đã được ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực như giao thông vận
tải; phát triển nguồn và mạng lưới truyền tải và phân phối điện; phát triển
nông nghiệp và nông thôn bao gồm thuỷ lợi, thuỷ sản, lâm nghiệp kết hợp xoá
đói giảm nghèo; cấp thoát nước và bảo vệ môi trường; y tế, giáo dục và đào
tạo khoa học và công nghệ, tăng cường năng lực và thể chế Cơ cấu sử dụng
ODA gần sát với yêu cầu do Đại hội IX đề ra.
Nguồn vốn ODA đã được giải ngân tính cho ngân sách nhà nước (không bao
gồm phần giải ngân cho các khoản chi tại nước tài trợ, chi cho chuyên gia )
trong giai đoạn từ năm 2001 đến hết năm 2004 ước đạt khoảng 6.172 triệu
USD, bằng 71,9% tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết và bằng


55% tổng lượng ODA đã cam kết trong thời kỳ này. Dự kiến giải ngân trong
năm 2005 sẽ đạt khoảng 1.700 triệu USD.
Mức giải ngân ODA khác nhau giữa các nhà tài trợ và giữa các loại hình dự án.
Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường có mức giải ngân cao (chủ yếu là chi cho
chuyên gia, mua sắm thiết bị, máy móc và đào tạo). Các dự án đầu tư xây
dựng thường giải ngân chậm do mất nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị đầu
tư như đền bù, di dân và tái định cư, đấu thầu và xét thầu. Nhìn chung, giải
ngân ODA trong thời gian qua mới đạt khoảng 70 - 80% kế hoạch đề ra.
Công tác quản lý nhà nước về ODA đã được tăng cường. Năm 2001, Chính phủ
đã ban hành Nghị định mới về quản lý và sử dụng ODA, tạo ra khung pháp lý
chặt chẽ và khá đồng bộ đối với công tác quản lý nhà nước về ODA. Trong giai
đoạn 2001 - 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều
văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Nghị định nói trên của Chính phủ.
Công tác quản lý nhà nước về ODA ở các cấp về cơ bản đã tập trung vào một
đầu mối, ở Trung ương là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở các Bộ là các Vụ Kế hoạch
và Đầu tư hoặc Vụ Hợp tác quốc tế, ở các tỉnh là các Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Tuy nhiên, ở một số địa phương công tác quản lý ODA vẫn còn phân tán, ảnh
hưởng tới công tác phối hợp và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này.
Nhìn chung, sự ổn định chính trị, xã hội; công cuộc đổi mới được tiếp tục cả
chiều sâu lẫn bề rộng, nền kinh tế có tăng trưởng liên tục, năm sau cao hơn
năm trước; công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những kết quả rõ rệt; nhiều
vấn đề phát triển xã hội đạt được những tiến bộ khích lệ, chủ động hội nhập
quốc tế được triển khai tích cực đã tạo ra một môi trường rất thuận lợi để vận
động ODA hỗ trợ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 2001 -
2005.
Hiệu quả mang lại
Đánh giá một cách tổng thể, việc thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam trong
giai đoạn 2001 - 2005 đã được thực hiện theo đúng chủ trương của Đảng và
Nhà nước ta là ưu tiên sử dụng nguồn lực này để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo.

Những mặt được chủ yếu trong sử dụng ODA thời kỳ 2001 - 2005 là:
1. Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước
để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước (bao gồm cả phần vốn ODA cho vay lại từ ngân sách nhà
nước).
2. Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đa góp phần cải thiện cơ
bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận
tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân.
Thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc
lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên Á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), các
cầu lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì, Bính ); nâng cấp và mở rộng các
cảng biển như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng), xây dựng
cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông thôn ở hầu
hết các tỉnh
Nguồn vốn ODA đã đầu tư phát triển ngành điện bao gồm phát triển nguồn
điện (các dự án Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2-1, Ô Môn, Phả Lại 2, Hàm Thuận - Đa My,
Đại Ninh, Đa Nhim) và phát triển hệ thống đường dây 500 kV Plâyku - Nhà Bè,
gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và
nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố.
3. ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn
kết hợp xoá đói giảm nghèo. Số liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong
thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983
xuống còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và ước dưới 10% năm 2004. Kết
quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs)
mà nước ta cam kết với thế giới. Những kết quả này có sự góp phần quan
trọng của ODA. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển
nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo, trong đó nguồn vốn
ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành

nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch, phát triển lưới
điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học
4. Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển các tỉnh và thành phố, nhất là hỗ trợ
xoá đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thông
miền núi; hầu hết các tỉnh và thành phố có các dự án hệ thống cấp nước sinh
hoạt, trường học, bệnh viện hệ thống thuỷ lợi, một số dự án thoát nước, phát
triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ.
5.ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến
việc cải thiện chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho
giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và
đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng
cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và
học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại
học, tự án tạo nghề
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc
gia, ngành có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, chương
trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, chương trình nước
sạch nông thôn, chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chương trình xoá
đói giảm nghèo Nhờ vậy, thứ hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con
người của Liên Hợp quốc đều được cải thiện hàng năm.
6. ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương
trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây
dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
tăng cường năng lực con người Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn cán bộ
Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng
quản lý hiệnđại được chuyển giao.
7. Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở
quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các

hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được
thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông
nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ nghiên cứu áp dụng các mô hình viện
trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành, ), hài hoà quá trình chuẩn bị dự
án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường
năng lực toàn diện về quản lý ODA.
Nước ta được lựa chọn là nước điển hình về tiến hành hài hoà quy trình thủ tục
ODA, tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia về nâng cao hiệ quả viện trợ.
Tồn tại cần khắc phục và những bài học rút ra
Bên cạnh những mặt được của ODA hỗ trợ quá trình phát triển, việc sử dụng
ODA trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, làm giảm hiệu quả sử
dụng nguồn lực này:
Thứ nhất, chậm trễ trong quá trình giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng ODA
và làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ của ta. Nguyên nhân chủ yếu là quy
trình và thủ tục trong nước cũng như của các nhà tài trợ còn phức tạp, lại có
sự khác biệt giữa các nhà tài trợ và phía Việt Nam; chậm trễ trong việc di dân
tái định cư và giải phóng mặt bằng; công tác đấu thầu; năng lực quản lý và
giám sát thực hiện dự án của các Ban quản lý còn hạn chế và bất cập.
Thứ hai, thiếu quy hoạch vận động và sử dụng ODA; các văn bản pháp quy về
quản lý và sử dụng ODA còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, minh bạch, nhất là
trong các vấn đề liên quan tới quản lý đầu tư và xây dựng; thực thi các văn
bản pháp luật về quản lý ODA chưa nghiêm.
Thứ ba, công tác theo dõi và đánh giá dự án buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ
quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật
báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu
nghiêm túc.
Thứ tư, năng lực cán bộ ở các cấp còn nhiều bất cập và thiếu tính chuyên
nghiệp trong quản lý và sử dụng ODS.
Những yếu kém nêu trên còn có nguyên nhân sâu xa là cơ quan thụ hưởng
ODA chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác nguồn lực này

phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của ODA.
Điều này thể hiện trong nhiều khâu như: Công tác quy hoạch, kế hoạch và
điều phối ODA, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA,
công tác huấn luyện và đào tạo về ODA chưa được chú ý đúng mức, cũng như
trong việc theo dõi và đánh giá dự án.
Từ những kết quả đã đạt được và những yếu kém trong thu hút và sử dụng
ODA trong 5 năm 2001 - 2005, có thể rút ra những bài học chủ yếu sau:
Một là, ODA là một nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng, song không
thể thay thế được nguồn lực trong nước ở cấp độ quốc gia cũng như trong
phạm vi một lĩnh vực cụ thể. Do vậy, cần phải coi ODA là một chất xúc tác,
một nguồn lực bổ sung cho quá trình phát triển. Cách tiếp cận lựa chọn trong
sử dụng ODA phải được đề cao.
Hai là, để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, cần gắn kết và lồng ghép một
cách đồng bộ chiến lược và kế hoạch thu hút và sử dụng ODA với các chiến
lược phát triển, các chính sách và quy hoạch phát triển ngành, vùng và quốc
gia cũng như các kế hoạch dài hạn và hàng năm. Đây là yêu cầu bảo đảm sự
chủ động của ta trong việc sử dụng ODA.
Ba là, ODA nguồn hỗ trợ của Chính phủ, các Tổ chức quốc tế và liên Chính phủ
dành cho Chính phủ. Do vậy, Chính phủ nước tiếp nhận phải nhận trách nhiệm
điều phối và sử dụng ODA với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân sẽ là người
gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn ODA không được sử
dụng có hiệu quả.
Bốn là, ODA không phải là nguồn vốn dễ kiếm và không phải là cho không. Cả
ODA không hoàn lại và ODA vốn vay đều đòi hỏi trách nhiệm rất cao của
Chính phủ nước tiếp nhận trước dư luận trong nước cũng như dư luận nước tài
trợ.
Năm là, các thành tựu về cải cách đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế - xã hội
và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở quan trọng tạo dựng niềm tin của cộng
đồng quốc tế đối với Việt Nam và là tiền đề bảo đảm cho sự thành công cho
việc vận động và thu hút ODA trong giai đoạn tới.

Sáu là, ODA gắn với mục tiêu chính trị và lợi ích kinh tế của nhà tài trợ. Đây là
bản chất của nguồn vốn này, do vậy, thành hay bại của ODA tuỳ thuộc chủ
yếu vào vai trò làm chủ của các cơ quan thực hiện, từ khâu hình thành dự án
cho đến quá trình tổ chức thực hiện và duy trì tính bền vững của dự án sau
này.
Bảy là, năng lực thể chế, năng lực con người là chìa khoá quyết định sự thành
bại của ODA.
(Nguồn: website- Thanh tra )

×