Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Vài nét về hệ thống chữ viết tiếng Nhật pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.81 KB, 23 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
 
Như chúng ta đã biết, tiếng Nhật là ngôn ngữ chính thức ở Nhật Bản, và Nhật là quốc gia
duy nhất dùng tiếng Nhật làm ngôn ngữ hành chính chính thức. Người ta gọi đó là ngôn ngữ
chuẩn: hyōjungo (Nhật: 標準語: ngôn ngữ tiêu chuẩn), hoặc kyōtsūgo (Nhật: 共通語: ngôn
ngữ phổ thông). Ngôn ngữ tiêu chuẩn này được tạo ra sau Minh Trị Duy Tân meiji ishin
(Nhật: 明治維新) (1868) từ thứ ngôn ngữ được nói ở khu vực đô thị Tokyo do nhu cầu trao
đổi thông tin. Ngôn ngữ chuẩn (Hyōjungo) được dạy ở trường học và được dùng trên truyền
hình và giao tiếp chính thức, và cũng là bản tiếng Nhật được bàn đến trong bài này.
Trước đây, tiếng Nhật chuẩn trong văn viết (bungo (Nhật: 文語), "văn ngữ") khác với văn
nói (kōgo (Nhật: 口語), "khẩu ngữ"). Hai hệ thống này có ngữ pháp khác nhau và có những
biến thể về từ vựng. Bungo là cách viết tiếng Nhật chủ yếu cho đến khoảng năm 1900, sau đó
kogo dần dần mở rộng tầm ảnh hưởng và hai phương pháp này đều được dùng trong văn viết
cho đến thập niên 1940. Bungo vẫn hữu ích đối với các sử gia, học giả văn chương, và luật sư
(nhiều điều luật của Nhật có từ thời Thế chiến thứ hai vẫn còn được viết bằng bungo, mặc dù
hiện đang có những nỗ lực để hiện đại hóa ngôn ngữ này). Kōgo phương pháp được dùng cho
cả nói và viết tiếng Nhật chiếm ưu thế hiện nay, mặc dù ngữ pháp và từ vựng bungo thỉnh
thoảng vẫn được dùng trong tiếng Nhật hiện đại để tăng biểu cảm.
Về nguồn gốc, hiện nay việc khẳng định tiếng Nhật thuộc hệ thống nào vẫn nằm trong
vòng tranh cãi, cần phải được chứng minh thêm. Có nhiều giả thuyết đã được đưa ra, nhưng
chưa có giả thuyết nào đủ mạnh để có thể khẳng định điều này.
Có giả thuyết cho rằng nó thuộc hệ ngôn ngữ Altai, đặc biệt khi quan sát tiếng Nhật từ
cuối thời Minh Trị. Trong tiếng Nhật cổ (từ vựng Đại Hòa), có thể thấy rằng âm /r/ (âm nước)
không đứng ở đầu từ, và một loại nguyên âm điều hòa (không để hai nguyên âm cùng loại
đứng gần nhau để điều hòa cách đọc) đã được sử dụng. Tuy nhiên, bản thân những ngôn ngữ
cho rằng mình thuộc hệ ngôn ngữ Altai cũng cần phải chứng minh thêm về sự tương quan đó,
do đó, đối với đặc trưng rất dễ thấy của tiếng Nhật cổ được đề cập ở bên trên thì tiếng Nhật là
ngôn ngữ thuộc "kiểu Altai", chứ không hoàn toàn thuộc về hệ đó.
1
Hệ ngôn ngữ Nam Đảo cũng là một hệ âm vị và từ vựng được cho là có sự tương đồng với
tiếng Nhật, tuy nhiên, những minh chứng được đưa ra để khẳng định về mặt ngôn ngữ thì


không đủ, có rất nhiều những ví dụ cho giả thiết trên không thể kiểm chứng được. Cho nên nói
về mối quan hệ thì có thể nói rằng nó không rõ ràng.
Có giả thuyết nói rằng tiếng Nhật có quan hệ với hệ ngôn ngữ Dravidian, nhưng những
nhà nghiên cứu nhận thấy mối quan hệ đó không nhiều. Shin Ono có giả thuyết cho rằng các
điểm từ vựng - ngữ pháp của tiếng Nhật có những điểm chung với tiếng Tamil, tuy nhiên đã có
nhiều chỉ trích quan điểm này khi xem xét vấn đề theo phương pháp của ngành so sánh ngôn
ngữ học.
Nếu chúng ta quan tâm đến mối quan hệ đối với cá nhân từng ngôn ngữ, thì ký hiệu, từ
vựng v.v…của tiếng Nhật ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tiếng Hán từ xa xưa thông qua Hán tự và
Hán ngữ. Nhật Bản thuộc về nhóm các nước có truyền thống sử dụng chữ Hán (các nước đồng
văn) mà trung tâm là Trung Quốc. Tuy nhiên, cơ sở từ vựng không có sự tương ứng, ngoài ra
đặc trưng về văn phạm - phát âm thì hoàn toàn khác Trung Quốc, do đó sự liên quan về hệ
thống là không chính xác.
Đối với ngôn ngữ Ainu, mặc dù cấu trúc câu của ngôn ngữ Ainu tương tự như của tiếng
Nhật (kiểu S-O-V), nhưng văn phạm - hình thái xét theo loại hình thì thuộc về các tổ hợp ngôn
ngữ khác nhau, đồng thời cấu tạo âm vị cũng chứng tỏ tồn tại nhiều khác biệt về hữu thanh -
vô thanh cũng như việc sử dụng âm tiết đóng. Sự liên quan tương tự về mặt từ vựng cơ bản
cũng đã được chỉ ra nhưng những dẫn chứng thì không đầy đủ. Nói chung sự giống nhau về
ngôn ngữ thể hiện ở chỗ, có nhiều từ vựng Ainu rất dễ nhận ra là đều được mượn từ tiếng
Nhật. Hiện nay, những tài liệu chứng minh ra sự liên quan với nhau của hai ngôn ngữ một cách
hệ thống rất thiếu.
Đối với ngôn ngữ Triều Tiên, mặc dù có nhiều điểm giống nhau về cấu trúc văn phạm, cơ
sở từ vựng của hai ngôn ngữ khác nhau rất nhiều. Về khía cạnh âm vị, mặc dù có những điểm
giống nhau về nguồn gốc cũng như âm nước không đứng ở đầu từ, hay đều dùng một kiểu hòa
hợp nguyên âm, v.v., nhưng cũng như hệ ngôn ngữ Altai được đề cập ở trên, sự tương tự không
đóng vai trò toàn bộ, âm đóng và phụ âm kép (trong tiếng Triều Tiên thời kỳ giữa) tồn tại sự
khác nhau lớn so với tiếng Nhật. Trong Ngôn ngữ Cao Ly đã biến mất của bán đảo Triều Tiên,
cách đếm số cũng như từ vựng được cho là tương tự với tiếng Nhật, nhưng sự thật là hiện nay
2
tiếng Cao Ly là biến mất gần như hoàn toàn, do đó khó có thể trở thành tài liệu kết luận giả

thuyết trên một cách có hệ thống.
Ngoài ra, tiếng Lepcha - tiếng Hebrew cũng đã được đề cập đến, nhưng về mặt so sánh
ngôn ngữ học nó được xếp vào loại các giả thuyết sai.
Ngôn ngữ giống với tiếng Nhật và hệ thống của nó được thấy rõ ràng nhất là ngôn ngữ của
nhóm đảo Ryūkyū (thuộc tiểu vương quốc Ryūkyū trước đây). Ngôn ngữ Ryūkyū và tiếng
Nhật gần gũi một cách dị thường, do đó có khả năng xếp nó thành một phần của tiếng Nhật
(phương ngữ Ryūkyū). Trong trường hợp là ngôn ngữ đặc biệt, tiếng Nhật và tiếng Ryūkyū
được xếp chung vào hệ ngôn ngữ Nhật Bản.
Tiếng Nhật đựơc viết bằng 4 hệ chữ:
1. Chữ Hán: hay Kan ji (漢漢)
2. Chữ mềm: hay Hiragana ( 漢漢漢漢)
3. Chữ cứng: hay Katakana ( 漢 漢 漢 漢 )
4. Chữ Latinh: hay Romanji (漢-漢漢 漢)
Mỗi hệ chữ được hình thành trong thời gian và hoàn cảnh khác nhau. Mỗi hệ chữ còn lại
có một vai trò riêng và có tần số xuất hiện khác nhau trong văn bản, hầu như chỉ có Hán tự có
tần số xuất hiện khá ổn định, vì Hán tự là cơ sở tạo nên chữ viết hiện đại Nhật Bản. Bên cạnh
đó, tần số xuất hiện của từng hệ chữ còn phụ thuộc vào chủng loại văn bản. Sau đây, chúng ta
sẽ tìm hiểu về nguồn gốc, đặc điểm, chức năng từ vựng, chức năng ngữ pháp của các hệ chữ
trên.
A. HÁN TỰ (KANJI)
I. SỰ DU NHẬP CHỮ HÁN VÀO NHẬT BẢN:
Nhật Bản là một trong ba nước điển hình nằm trong khối “các nước Hán hóa”. “Khối các
nước Hán hóa” chỉ các quốc gia thuộc châu Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Trung
Hoa. Ảnh hưởng ấy, mở đầu được thông qua chữ Hán và thể hiện rõ nhất là việc dùng chung
chữ Hán trong thời gian dài theo cung cách riêng ở mỗi quốc gia. Trong ba nước đó, Nhật
Bản tỏ ra nổi trội hơn và có phong cách riêng.
Cho đến nay người ta vẵn chưa đưa ra lời kết luận chính xác về thời điểm bắt đầu giao lưu
văn hóa Trung - Nhật. Người ta chỉ biết rằng bên cạnh việc tiếp nhận những tiến bộ về nông
3
nghiệp trồng lúa nước người Nhật còn du nhập cả những “Thư tịch cổ” của Trung Quốc. Từ

đó chữ Hán được du nhập và phát triển hoàn thiện thành một hệ thống chữ viết đặc thù cho
quốc gia này.
Tuy nhiên lại có giả thuyết cho rằng chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường
Triều Tiên. Chữ Hán ở Nhật được gọi là Kanji (漢字 Hán tự) và được du nhập vào Nhật theo
con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật và Triều Tiên vào khoảng IV, V. Tiếng Nhật cổ đại vốn
không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật, người Nhật dùng chữ Hán để viết tiếng
nói của họ.
Sỡ dĩ Nhật Bản trở thành thành viên xuất sắc trong khối các nước Hán hóa là do quá trình
hình thành tiếp nhận chữ Hán của Nhật Bản khác với Việt Nam và Triều Tiên. Việt Nam là một
nước bị phương Bắc đô hộ suốt 1000 năm nên chỉ có thể tiếp nhận tiếng Hán một chiều. Nhật
không bị đô hộ như Việt Nam hay Triều Tiên, hơn nữa đặc tính của người Nhật là sáng tạo, linh
hoạt, không tiếp thu nguyên xi, cho nên quá trình tiếp nhận có sự chủ động, biến đổi, chọn lọc,
tinh giản, biến các yếu tố ngoại lai thành bản địa.
II. ĐẶC ĐIỂM HÁN TỰ TRONG NGÔN NGỮ NHẬT:
Dạng chữ đầu tiên người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ Man-yogana
(萬葉假 名 Vạn Diệp Giả Danh). Hệ thống chữ viết này dựa trên chữ Hán và khá phức tạp.
Man-yogana được đơn giản hóa thành Hiragana ひ ら が な ( 平 假 名 Bình Giả Danh) và
Katakana カタカナ (片假名 Phiến Giả Danh). Cả hai loại chữ này trải qua nhiều lần chỉnh lý
và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay ở Nhật.
Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm Hán cổ, được
gọi là On-yomi (Nhật: 音読 (音讀)và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun-yomi (Nhật:
訓読 (訓讀).Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn mượn chữ Hán
để sáng tạo ra một số chữ (khoảng vài trăm chữ) và mỗi chữ này chỉ có cách đọc theo âm tiếng
Nhật; các chữ này được gọi là Kokuji (Nhật: 読字 (國字) tiếng Nhật gọi là Quốc Tự Quốc Huấn
(國字國訓), nghĩa là "chữ quốc ngữ âm quốc ngữ". Những chữ quốc ngữ này của người Nhật có
cách hình thành khá giống chữ Nôm của Việt Nam. Tháng 11 năm 1946, Bộ Giáo dục Nhật đề
4
nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học, và được Quốc hội Nhật thông
qua năm 1947.
Một số điển hình về cách biến đổi từ chữ Hán sang Kana

Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm khoảng 1945 chữ
thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ
Hán dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên trên 400 chữ. Trong cuộc
sống hằng ngày có khoảng 2000 đến 3000 chữ Hán được sử dụng. Các chữ Hán này được lập
thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng (Jyoyo Kanji Hyo, 常用漢字表 Thường Dụng
Hán Tự Biểu) và Bảng chữ Hán dùng viết tên người (Jinmeiyo Kanji Hyo, 人名用漢字表 Nhân
Danh Dụng Hán Tự Biểu).
Hiện nay để đọc được một tờ báo Nhật chúng ta cần biết khoảng 1945 Kanji. Đơn vị gốc
Hán chiếm 60% chữ viết của tiếng Nhật hiện đại. Kanji dùng để diễn đạt ý nghĩa cơ bản của từ.
Theo sau nó, nhất là sau các động từ và tính từ đuôi I (い) thường có chữ Hiragana theo sau làm
chức năng ngữ pháp.
Ví dụ:い私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私私
Những từ được tô đậm là những Hán tự, diễn đạt ý nghĩa cỏ bản của từ vựng, phần còn lại là
Hiragana, diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp.
5
III. SỰ TÁI DU NHẬP CHỮ HÁN VÀO TRUNG QUỐC:
Tiếng Nhật mượn trong tiếng Hán những chữ Hán đơn lẻ, sau dó dùng chúng để tạo ra
hàng loạt từ ghép. Những từ ghép này dùng để dịch những từ ngoại quốc về đủ mọi lĩnh vực.
Sau đó tiếng Hán phải vai mượn trực tiếp chữ Hán.Các nhà từ cựng học Trung Quốc gọi
những từ này là “ Nhật ngữ Hán tự từ” hay gọi là “từ chữ Hán tiếng Nhật”. Những từ này đã
hòa nhập vào tiếng Hán và trở thành thành viên không thể thiếu của kho từ vựng tiếng Hán.
Ví dụ:
Bảo hiểmいいいいいBác sĩいいいいいPhát minhいいいい, Công dânいいいい Bối cảnhいいいい,
Tham quanいいいい, Thành viênいいいいいĐiện thoạiいいい; Pháp luậtいいい.
B. HIRAGANA và KATAKANA
I. HÌNH THÀNH HIRAGANA VÀ KATAKANA:
Khi dùng tiếng Hán để ghi âm tiếng Nhật tất nhiên là có rất nhiều sự bất lợi, do đó cần
phải sửa đổi phù hợp. Việc cải tạo hình thể chữ Hán cho phù hợp với ghi chép tiếng Nhật gọi
là Kana. Đây là một sang tạo của người Nhật khi sử dụng tiếng Hán làm cơ sở văn tự Nhật.
“Ka” có nghĩa là mượn dùng hay lợi dụng, “Na” có thể là danh hiệu.Có thể nói Kana là hệ

thống văn tự vay mượn những bộ phận hay những nét của của chữ Hán làm kí hiệu để ghi các
âm tiếng Nhật. Loại chữ Kana đầu tiên là loại chữ mượn chữ Hán đơn thể để làm kí hiệu, gọi
là “Vạn diệp giả danh”.
Để viết chữ thuận tiện hơn, Vạn Diệp giả danh được giản hóa thành Hiragana 漢漢漢 (Bình
giả danh) và Katakana 漢漢漢 (Phiến giả danh). Ngay tên gọi đã gợi ra ý nghĩa, chữ bình 漢
(hira) ngụ ý dễ dàng tiện lợi, và chữ phiến 漢 (kata) ngụ ý bất toàn. Cho nên Phiến giả danh là
Vạn Diệp giả danh chưa hoàn chỉnh. Cả hai Hiragana và Katakana đã trải qua nhiều lần chỉnh
lý mới được chuẩn mực như hiện nay. Trần Triết Xán 漢漢漢 viết rằng: Cát Bị Chân Bị 漢漢漢漢
tạo Phiến giả danh (Katakana) từ chữ Khải 漢 và nhà sư Không Hải 漢漢 tạo Bình giả danh
(Hiragana) từ chữ Thảo 漢. Cả hai đều là người Nhật, du học Trung Quốc vào đời Đường (618-
907).
6
Tuy nhiên còn có một thuyết khác về nguồn gốc của Hiragana. Suốt thời Bình An 漢漢
(Heian, 794-1185), triều đình và giới quý tộc rất hâm mộ văn chương chữ Hán. Một số nữ quý
tộc bắt đầu sáng tác thi văn, bao gồm những đoản ca 漢漢 (tanka) và các thể loại khác. Họ
không thích lối chữ cứng cỏi của Vạn Diệp giả danh 漢漢 漢 漢 (Manyōgana) vì chữ Hán quá
phức tạp . Các nhà nho, nhà văn đã dựa vào chữ Hán mà nghĩ ra những chữ viết đơn giản hơn,
gọi là Kana. Đây là quá trình sáng tạo ra một hứ chữ viết để phiên âm tiếng Nhật giống như
cách thức hình thành chữ Nôm ở Việt Nam. Lối viết này uyển chuyển như chữ Thảo, kiểu chữ
này gọi là Nữ thủ 漢漢(Onnade) để chép các thi văn. Nó được xem là tiền thân của Hiragana.
Tuy nhiên thời đó, loại chữ này ít được dùng vì nhiều người cho rằng đây là kiểu chữ không
cứng cáp, chỉ dùng cho phụ nữ. Tiếng Hán cổ được xem là dùng cho nam giới, nó được gọi là
漢漢(Nam thủ). Đến năm 905 kiểu chữ này mới được xã hội thừa nhận và phổ biến rộng rãi.
Còn Katakana được chế tác vào thế kỷ IX đến thế kỷ X mới thành một hệ ghi âm hoàn
chỉnh. Theo một số tác giả thì sự hình thành hệ chữ này là nhờ thời bấy giờ Nhật có kho tàng
phong phú về các loại sách kinh điển Trung Quốc, các cuốn kinh Phật do các nhà sư Nhật Bản
mang về từ Trung Quốc. Khác với Hiragana đi sau để biểu thị chức năng ngữ pháp, Katakana
có thể dùng biệt lập. Từ cuối thế kỷ XIX, Nhật đã mượn một lượng lớn từ vựng đáng kể của hệ
Ấn- Âu, chủ yếu là tiếng Anh. Katakana dược dùng để ghi âm những chữ này.
Bên cạnh Hiragana và Katakana còn có Furigana (Chấn giả danh

漢漢漢
) tức là các chữ
Kana nhỏ xíu đặt sát Kanji để ghi âm đọc của Kanji. Kể từ 1947, Quốc Hội Nhật chấp thuận
không in kèm furigana bên cạnh Kanji trong các sách vở báo chí dành cho độc giả trung bình
trở lên. Chỉ in kèm furigana bên cạnh các chữ Kanji hiếm gặp và trong các sách vở báo chí
dành cho độc giả bình dân.
II. HỆ THỐNG CHỮ CÁI HIRAGANA VÀ KATAKANA
1. Hiragana:
7
.
Hệ thống chữ cái Hiragana và phiên âm Latinh
Hệ thống chữ cái Hiragana gồm 46 chữ cái. Gồm có nguyên âm và phụ âm.
a. Hệ thống nguyên âm và cách phát âm:
Nguyên âm được thể hiện bằng các ký tự 「あ読い読う読 え読お」 . Theo âm vần luận,
nguyên âm tiếng Nhật có 5 âm được thể hiện theo các ký tự trên, ký hiệu âm tố được viết là:
/a/, /i/, /u/, /e/, /o/
Chữ 「う」giống như âm tròn môi [u] trong tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác, đồng thời
cũng là một nguyên âm không tròn môi, nhưng ở phía sau âm môi thì tiến đến âm tròn môi.
Theo âm vần luận, chữ hīhī 「ひいひい」 (tiếng rên), tồn tại một yếu tố gọi là trường âm biểu
diễn bằng 「読」 hay hàng a 「あ」 trong kana (ký hiệu âm tố là /R/). Ở đây, tồn tại một mora độc
đáo độc lập được phát âm bằng phương pháp gọi là "kéo dài nguyên âm trước đó thêm 1
“mora". Giống như những từ tori (鳥, "chim") và tōri (通り, con đường), việc có hay không có
trường âm nhiều khi cũng khác nhau về ý nghĩa. Tuy nhiên, theo âm thanh thì việc có một âm cụ
8
thể được gọi là "trường âm" là không có, vì ở phần nửa sau của nguyên âm dài [a ]ː [i ]ː [ ]ɯː [e ]ː
[o]ː cũng chính là âm đó.
Đối với những chữ được viết là ei 「えい」, ou 「おう」 thì cách phát âm giống như ee 「え
え」 hay oo 「おお」 và nói chung đều đươc phiên âm thành các nguyên âm dài của [e ]ː và [o ]ː
(những từ như kei 「けい」, kou 「こう」 v.v… trường hợp có phụ âm ở đầu hoàn toàn tương tự).
Nói cách khác, eisei (衛星, "vệ tinh") outou (読答, "trả lời") được đọc là 「エ読セ読」「オ読

ト読」. Tuy nhiên, ở Kyuushuu và phía Tây Shikoku, phía nam Bán đảo Kii thì ei 「えい」
phát âm thành [ei].
Phần cuối của các câu kết thúc bằng desu「です」 và masu「ます」, biến thành vô thanh
và, có trường hợp nghe như [des] và [mas] (tùy thuộc vào từng phương ngữ và từng cá
nhân). Hơn nữa, trong trường hợp nguyên âm i 「い」, u 「う」 nằm giữa phụ âm vô thanh
cũng biến thành vô thanh và thanh đới không rung. Ví dụ như, Kikuchi trong Kikuchi Kan (菊
池読) và kuchikiki trong kuchikiki kōi (口利き行読, cử chỉ phát ngôn) phần nguyên âm thành
nguyên âm vô thanh.
Nguyên âm đứng phía trước 「ん」 có xu hướng trở thành âm mũi. Ngoài ra, 「ん」 đứng phía
trước nguyên âm thì trở thành nguyên âm mũi.
b. Hệ thống phụ âm
Phụ âm phân biệt theo âm vần luận, có các phụ âm thuộc các hàng 「か(ka)読さ(sa)読た
(ta)読な(na)読は(ha)読ま(ma)読や(ya)読ら(ra)読わ(wa)
, phụ âm kêu thuộc các hàng 「が(ga)読ざ(za)読だ(da)読ば(ba)
, phụ âm nửa kêu thuộc hàng 「ぱ(pa)
. Ký hiệu âm tố như sau:
• /k/, /s/, /t/, /h/ (âm điếc)
• /g/, /z/, /d/, /b/ (âm kêu)
• /p/ (âm nửa kêu)
9
• /n/, /m/, /r/
• /j/, /w/ (thường gọi là bán nguyên âm)
Mặt khác, theo âm thanh học, thì hệ thống phụ âm có rất nhiều khía cạnh phức tạp. Các phụ
âm được dùng chủ yếu gồm có:

Âm
đôi môi
Âm
chân
răng

Âm
quặt
lưỡi
Âm chân
răng sau
Âm vòm
Âm
vòm
mềm
Âm
lưỡi nhỏ
Âm họng
Âm bật p b t d k ɡ
Âm mũi m n ŋ ɴ
Âm vỗ ɾ ɽ
Âm xát ɸ s z ɕ ʑ ç h
Âm tiếp cận j ɰ
Âm tắc xát ʦ ʣ ʨ ʥ
Âm tiếp cận
cạnh
l
Về cơ bản thì các âm hàng ka 「か」 phát âm là [k], hàng sa 「さ」 là [s] (hay [θ], tùy địa
phương và người nói), hàng ta 「た」 là [t], hàng na 「な」 là [n], hàng ha 「は」 là [h], hàng ma
「ま」 là [m], hàng ya 「や」 là [j], hàng da 「だ」 là [d], hàng ba 「ば」 là [b], và cuối cùng là
hàng pa 「ぱ」 phát âm là [p].
Phụ âm hàng ra 「ら」 khi đứng ở đầu từ thì phát âm như [d], thay vì phát âm như âm bật
nhẹ khó đọc. Cũng có người phát âm gần giống như [l] của tiếng Việt. Không có ký hiệu âm
thanh thích hợp nhưng cũng có khi được dùng thay thế bằng âm bật uốn lưỡi kêu [ ]ɖ . Mặt khác,
âm ra cùng với 「っ」 như 「あらっ?」, xuất hiện ở giữa hoặc cuối từ sẽ trở thành âm bật lưỡi
[ ]ɾ hoặc [ ]ɽ .

Phụ âm hàng wa 「わ」 có người nói dùng cách phát âm tròn môi [w], nhưng đa số dùng
âm không tròn môi [ ]ɰ (khi tách ra đọc từng âm thì tiếng Nhật lại đọc là [w]). Đối với các âm
mượn 「ウィ(vi)」「ウェ(ve)」「ウォ(vo)
10
cũng phát âm y hệt nhưng cũng có nhiều người phát âm là 「ウイ(ui)」「ウエ(ue)」「ウ
オ(uo)
.
Phụ âm hàng ga 「が」 khi xuất hiện ở đầu từ thì dùng [g], nhưng ở giữa từ thì phổ biến cách
dùng [ŋ] (âm mũi hàng ga, gọi là âm kêu mũi). Ngày nay, việc dùng âm [ŋ] đang dần biến mất.
Phụ âm hàng za 「ざ」 khi đứng ở đầu từ và sau 「ん」 thì sử dụng âm tắc xát (âm của [ ]ʣ phối
hợp âm bật và âm xát) nhưng ở giữa từ thì thường sử dụng âm xát (như [z]). Cũng có người luôn
sử dụng âm tắc xát nhưng ví dụ như shujutsu (手術, "phẫu thuật") sẽ rất khó và đa số sẽ dùng
âm xát. Ngoài ra, âm 「ぢ」 và 「づ」 của hàng da 「だ」, ngoại trừ một vài phương ngữ, luôn
gây cho ta cảm giác đồng âm với 「じ」「ず」 của hàng za, phương pháp phát âm của chúng
giống nhau.
Phụ âm theo sau nguyên âm i 「い」 cho ra âm sắc đặc biệt. Một vài phụ âm biến thành âm vòm,
đầu lưỡi gần với vòm miệng cứng. Ví dụ như, phụ âm của hàng ka 「か」 nói chung phát âm là
[k] nhưng chỉ có ki 「き」 xảy ra hiện tượng như trên, và được phát âm là [k ]ʲ . Nếu sau các phụ
âm vòm hóa thuộc cột i như trên là các nguyên âm a 「あ」 u 「う」 o 「お」 thì theo phép chính
tả các chữ này sẽ biến thành 「ゃ」「ゅ 」「ょ」 trong bảng kana và được viết như 「きゃ」
「きゅ」「きょ」,「みゃ」「みゅ」「みょ」. Nếu sau nó là nguyên âm 「え」 thì viết thành 「ぇ」
trong bảng kana ví dụ như 「きぇ」, nhưng với những từ mượn thì không có áp dụng theo cách
trên.
Phụ âm trên cột âm i 「い」 của các hàng sa 「さ」, za 「ざ」, ta 「た」, ha 「は」 cũng có âm sắc
đặc biệt nhưng lúc này không phải chỉ vòm hóa, mà điểm điều âm đã di chuyển đến vòm cứng.
Phụ âm 「し」 và 「ち」 phát âm lần lượt là [ ]ɕ và [ ]ʨ . Các phụ âm thuộc hàng tương ứng với
các âm đó vẫn được phát âm bình thường. Phụ âm của Âm mượn 「スィ(si)
và 「ティ(ti)
11
thì dùng âm vòm hóa [s ]ʲ và [t ]ʲ . Phụ âm 「じ」「ぢ」 đứng ở đầu từ cũng như sau 「ん」 thì dùng

[ ]ʥ , giữa từ thì dùng [ ]ʑ . Phụ âm của âm mượn 「ディ(di)
và 「ズィ(zi)
thì sử dụng là âm vòm hóa [d ]ʲ và [ ]ʣʲ hay [z ]ʲ . Phụ âm hi 「ひ」thì có âm vòm cứng [ç] chứ
không đọc là [h].
Ngoài ra, phụ âm ni 「に」 được phát âm thành âm vòm hóa [n ]ʲ nhưng cũng có người sử dụng
âm mũi vòm cứng [ ]ɲ . Tương tự như vậy, ri 「り」có người sử dụng âm bật vòm cứng, 「ち」 thì
lại cũng có người sử dụng âm chẻ vòm cứng vô thanh c.
Bên cạnh đó, hàng ha 「は」 thì chỉ có phụ âm fu 「ふ」sử dụng âm sát đôi môi vô thanh [ ]ɸ còn
các phụ âm còn lại của hàng ha biến hóa từ [p] → [ ]ɸ → [h]. Với âm mượn thì có người sử dụng
là [f]. Ngoài ra, ở hàng ta 「た」 thì chỉ có phụ âm tsu 「つ」 nghe dùng là [ ]ʦ . Các nguyên âm
「あ」「い」「え」「お」 theo sau những phụ âm này chủ yếu xuất hiện trong từ mượn, trở thành
các chữ kana 「ァ」「ィ」「ェ」「ォ」 và viết thành 「ファ」「ツァ」 (「ツァ」 cũng dùng cho các
trường hợp 「おとっつぁん」 hay 「ごっつぁん」). 「フィ」「ツィ」 thì xảy ra sự vòm hóa phụ
âm. 「トゥ」「ドゥ」([t ]ɯ , [d ]ɯ ) có người cố gắng phát âm gần với âm mượn [t], [tu], [du].
Âm được gọi là phụ âm đôi 「っ」 (ký hiệu âm tố là /Q/) cũng như âm gảy 「ん」 (/N/),
theo khái niệm của âm vần luận, là một mora đặc biệt giống như trường âm được đề cập ở trên.
Nói về âm thanh thực thì 「っ」 trở thành các phụ âm liên tục [-kk-], [-ss-], [- -]ɕɕ , [-tt-], [-t -]ʦ , [-
t -]ʨ , [-pp-]. Ngoài ra, 「ん」 thì tùy theo âm ở phía sau mà thành phụ âm [ ]ɴ , [m], [n], [ŋ] (tuy
nhiên, nếu ở phía trước nguyên âm thì thành nguyên âm mũi). Ví dụ漢 nếu ở cuối câu thì nhiều
người dùng là [ ]ɴ .
2. Katakana:
12
Bảng biểu thị cách thức chọn lọc biến đổi tinh giản chữ Hán thành hệ chữ cái Katakana
Bằng cách mượn những nét mở đầu hoặc kết thúc chữ Hán đơn thể, hệ thống chữ cái
Katakana được hình thành. Bộ chữ này cũng gồm 46 chữ cái.
漢 漢 漢 漢 漢
漢 漢 漢 漢 漢
漢 漢 漢 漢 漢
漢 漢 漢 漢 漢
13

漢 漢 漢 漢 漢
漢 漢 漢 漢 漢
漢 漢 漢 漢 漢
漢 漢 漢
漢 漢 漢 漢 漢
漢 漢

b. Cách hình thành từ vựng từ vốn từ ngoại lai:
 Động từ :
Có 2 hình thức động từ được tạo ra theo cách này là động từ kết thúc bằng する suru và động
từ kết thúc bằng る ru.
Động từ suru (chiếm phần lớn nhất ): “suru” (làm, thực hiện). Có một khác biệt là, nếu suru
chỉ được thêm sau một danh từ để hình thành một động từ thuần Nhật thì nó lại được thêm
vào sau cả động từ và thậm chí một số tính từ tiếng nước ngoài để tạo ra những động từ
tương ứng.
Ví dụ:
+Gettosuru いいいい: get
Koibito wo getto shita/ Tôi đã có được người yêu.
Ano shigoto wo getto shita/ Tôi đã nhận được công việc đó.
+Settosuruいいいい: set
Sakki setto shita bakari na noni, mō kaze de midareta/ Tóc tôi mới chỉnh lúc nãy nhưng
gặp gió lại rối tung lên mất rồi.
Mezamashidokē wo shichiji ni setto suru/ Đặt đồng hồ báo thức lúc 7 giờ.
+Macchisuruいいいい: match
Kono fuku wa anata ni yoku macchi shiteiru/ Bộ quần áo này rất hợp với ông.
14
Nekutai to sūtsu ga yoku macchi shiteiru/ Cà-vạt và bộ com-lê rất hợp với nhau.
+Keasuruいいい: care
Debyuusuruいいいいい: début
Kuriasuruいいいい: clear

Doraibusuruいいいいい: drive
Toraisuruいいいい: try
Kyacchisuruいいいいい: catch
Kattosuruいいいい: cut
Kyanserusuru いいいい: cancel
Sheaasuruいいいい: share
Pasusuruいいい: pass
Adobaisusuru いいいいい: advise
いいいMassājisuru いいいいい: massage
いいいPuresuruいいい: play
いいいGēmusuruいいいい: game
Kontoroorusuruいいいいいいい: control
Renjisuru いいいい: arrange
Ankeitosuru いいいいい: enquête.
tiếng Pháp, điều tra, thăm dò ý kiến
• Trường hợp bị biến nghĩa:
サンドイッチする (< sandoicchi ‘sandwich’) thành “kẹp vào giữa”, “xen vào giữa”.
(Kono pan ni anko wo sandoicchi suru/ Kẹp nhân đậu vào giữa miếng bánh mì này.)
Động từ ru:
-sabotaaju ‘sabotage’ (lười biếng, trốn việc) trong tiếng Pháp, được du nhập như một danh từ
nhưng người Nhật đã phát triển từ này bằng cách kết hợp “サボ” sabo với “る” ru để tạo ra
động từ サボる với nghĩa “trốn học, trốn việc”.
Ngoài サボる, còn rất nhiều động từ được tạo ra cũng theo cách thức này như:
Daburusuruいいいい: double
Toraburusuruいいいい:trouble
Misurusuruいいいい: miss
Xuất hiện gần đây là động từ takurusuru: taxi, “lên xe taxi, đi xe taxi.
俺さ、ちょっと先生とトラブって勉読サボってばかりで二年ダブってしまったけ
ど、ようやく三十読位ゲットしてついに大読ともバイバイだよ。
(Ore sa, chotto sensei to torabutte benkyō sabotte bakaride ninen dabutteshimatta kedo,

yōyaku sanjuttan’i getto shite tsui ni daigaku tomo baibai dayo.)
[Tao gặp chút vấn đề với ông thầy, cúp học hoài nên bị học đúp 2 năm (lưu ban 1 năm).
Nhưng cuối cùng tao cũng lấy đủ 30 tín chỉ rồi cũng bái-bai (tốt nghiệp) đại học rồi.]
15
Takurō yo! [Đi tắc-xi đi!]
Ngoài ra một số động từ như オ ルグる oruguru (đưa người vào trong quần chúng để
thành lập hiệp hội, chính Đảng hoặc xúc tiến việc kêu gọi người khác gia nhập hiệp hội, chính
Đảng đó), ネグる neguru (sao lãng, bỏ bê, xem thường) và アジる ajiru (lay động, kích động)
lại là kết quả của việc “động từ hóa” thêm một bước nữa bằng cách thay する suru bằng る ru
trong các động từ オ ル ガ ナ イ ズ す る (< oruganaizu ‘organize’), ネ グ レ ク ト す る (<
negurekuto ‘neglect’) và アジテ読トする (< ajitēto ‘agitate’).
 Danh từ
Danh từ kết hợp yếu tố tiếng nước ngoài với một chữ hoặc một tổ hợp chữ Hán.
Ví dụ:
+介護保読 kai-go-ho-ken: hình thức bảo hiểm chi trả lương hưu hoặc tiền phụ cấp trong
trường hợp người được bảo hiểm ở vào tình trạng cần được chăm sóc liên tục trong một
khoảng thời gian nhất định”. Và vì hai từ 介護 và ケア kea (care) cùng nghĩa nên có từ ケア
保読.
+kuchikomi gồm khẩu với komi là hình thức rút gọn của komyunikēshon
(‘communication’) và có nghĩa là “sự truyền đạt thông tin bằng miệng”.
+Hoặc 合コン gōkon là từ rút gọn của từ 合同コンパ gōdōkonpa, trong đó 合同 hợp
đồng có nghĩa là “việc hợp nhiều cái thành một hoặc việc nhiều cái hợp với nhau thành một”
và コンパ là hình thức rút gọn của từ コンパニ読 konpanī (< ‘company’) được sử dụng trong
tiếng Nhật với nghĩa “liên hoan”. Từ 合 コ ン gōkon, chính vì vậy, có nghĩa là “việc nhiều
thanh niên nam nữ cùng họp mặt giao lưu, ăn uống và có khi có thêm mục đích tìm người
yêu”.
 Tính từ:
Tính từ đuôi i:
naui là sự kết hợp giữa nau (now) với phụ tố I nghĩa là “mới mẻ, hiện đại, mốt”.
Ví dụ: Kore naui ne/ Cái này mốt nhỉ! (từ này đã lỗi thời )

16
Tính từ đuôi な na:
tiếng Anh thuần túy:
rakkii いいいい (lucky)
いanrakkii いいいいいい(unlucky)
kuriaいいいい (clear)
happii いいいい (happy)
romanchikku いいいいいい(romantic)
derikeito いいいいい(delicate)
 Ngoài ra còn một số tính từ đuôi “na” vốn không có trong ngôn ngữ gốc.
Ví dụ:
+ rabarabu いいいい( ‘love love’, “một cặp trai gái hoặc vợ chồng luôn có những biểu hiện
quấn quýt, yêu thương nhau”).
(Ano futari wa itsumo raburabu da/ Hai người đó luôn quấn quýt nhau.)
 Mượn hậu tố “tic” từ tính từ tiếng Anh (phát âm là chikku) kết hợp với một số danh từ
để tạo ra tính từ đuôi な na (và danh từ) tương ứng.
Ví dụ:
+Mangachikkunaいいいいいいい: (cách phục sức) trông như nhân vật trong truyện tranh
+Ossanchikkunaいいいいいいいい: ossan: cách nói năng, suy nghĩ, phục sức) như ông già
 Biến thể: (wa-sei-ei-go いいいい hòa chế anh ngữ)
Từ ghép:
Gồm nhiều từ đơn hợp thành. Trong những từ đơn này, thường chỉ có một có trong từ gốc.
Ví dụ:
+ afutā sābisu ‘after service’ trong tiếng Nhật được sử dụng với nghĩa “các nhà sản
xuất, các nhà phân phối hoặc bán sản phẩm sau khi bán một mặt hàng nào đó vẫn chịu trách
nhiệm đối với khách hàng về chất lượng của sản phẩm đó, sẵn sàng kiểm tra, sửa chữa khi
cần thiết”. Cũng với nghĩa này, trong tiếng Anh, người ta thường sử dụng các từ ‘customer
service’, ‘after sales service’, ‘service after the sales’ chứ không sử dụng từ ‘after service’.
Trong từ này, ‘service’ là từ đơn có mặt trong từ gốc.
+ōdā mēdo ‘order made’ (làm theo đơn đặt hàng)/ custom made, tailor made, made to order

+ofisu redī ‘office lady’ hoặc ofisu gāru ‘office girl’ (nhân viên văn phòng nữ)/ female office
worker;
17
+kī horudā ‘key holder’ (cái móc chìa khóa)/ key chain, key ring;
+shirubā shīto ‘silver seat’ (ghế ngồi ưu tiên dành cho người cao tuổi và người khuyết tật
trên xe điện, xe buýt và một số phương tiện giao thông công cộng khác)/ seats for seniors,
priority seat;
+bakku mirā ‘back mirror’ (kính chiếu hậu ở xe ôtô và xe máy)/ rearview mirror;
+terebi gēmu ‘television game’ (trò chơi trên màn hình có sử dụng máy vi tính)/ video
game…
Cũng có trường hợp, trong một số từ, không có bất cứ từ đơn nào trong từ được tạo ra có
mặt trong từ gốc.
Ví dụ:
+gasorin sutando ‘gasoline stand’ (cây xăng)/ petrol station (tiếng Anh) hoặc ‘gas station’
(tiếng Mỹ);
+gēmu senta ‘game center’ hoặc rút gọn hơn nữa gēsen (trung tâm hoặc cửa tiệm các trò
chơi trên máy có mất tiền)/ video arcade, amusement arcade;
+sararīman ‘salaryman’ (người sinh sống bằng lương)/ salaried man, salaried employee,
salaried worker;
+mai houmu ‘my home’ (nhà của mình, do mình làm chủ chứ không phải nhà thuê)/ own
house…
Đảo trật tự:
▸ グレードアップ gurēdo appu ‘grade up’ (nâng cao trình độ, đẳng cấp)/ upgrade
▸ コインランドリー koin randorī ‘coin laundry’ (nơi giặt công cộng sử dụng tiền xu)/
launderette, laundromat,…
Từ phái sinh:
Là từ được tạo ra từ một yếu tố gốc bằng cách thêm, bớt hay thay một vài thành tố.
Ví dụ:
+naitā nighter: thêm “er” vào từ ‘night’ vào có nghĩa là “trận thi đấu” ( bóng chày) vào
buổi tối, tiếng Anh: ‘night game’. .

18
+panerā ‘paneler’ (panel + -er, “người tham gia tranh luận hoặc người trả lời trong một
chương trình thi đố)/ panelist; sukinshippu ‘skinship’ [skin + -ship, “sự gần gũi, sự giao lưu
về mặt tinh thần, tình cảm thông qua sự tiếp xúc về mặt thể chất (qua da thịt) giữa người mẹ
và đứa trẻ, giữa thầy cô giáo và các bé hoặc mối quan hệ gần gũi giữa những người bạn,
đồng nghiệp như khi họ cùng đi tắm tại các nhà tắm công cộng ở Nhật”]/ physical contact.
.
Từ rút gọn:
Được tạo ra bằng cách sử dụng một bộ phận (thường là bộ phận đầu) của một từ hoặc tổ
hợp từ trong tiếng Anh.
apāto: apātomento hausu ‘apartment
house’,
depāto: depātomento sutoa
‘department store’,
konbini: konbiniensu sutoa
‘convenience store’,
sūpā: sūpā māketto ‘super market’
(hoặc sūpā sutoa ‘super store’),
hankachi: hankachīfu
‘handkerchief’,
pasokon: pāsonaru konpyūtā
‘personal computer’,
rimokon: rimōto kontorōru ‘remote
control’,
dejikame: dejitaru kamera ‘digital
camera’,
infura: infurasutorakuchā
‘infrastructure’,
infure: infurēshon ‘inflation’,
defure: defurēshon ‘deflation’,

demo: demonsutorēshon
‘demonstration’,
masukomi: masu komyunikēshon
‘mass communication’,
sekuhara: sekusharu harasumento
‘sexsual harassment’,…
19
 Từ phát triển nghĩa:
Ví dụ:
+kanningu ‘cunning: hành vi quay cóp, gian lận trong phòng thi. Anh: cheating.
+kurēmu ‘claim’ (việc bên mua yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với bên bán về số lượng,
chất lượng, đóng gói hàng hóa,… hoặc là lời mắng vốn)/ complain;
+sumāto ‘smart’ (người hoặc vật có dáng thanh mảnh, đẹp)/ stylish, slim;
+panku ‘puncture’ (vỏ xe bị hết hơi)/ flat tire;
+hōmupēji ‘home page’ (trang web)/ website, web page, home page;
+manshon ‘mansion’ (chung cư thuộc loại trung hoặc cao cấp)/ apartment,
condominium….
C. HỆ THỐNG CHỮ VIẾT TIẾNG NHẬT TRONG
VĂN TỰ
Ở trong câu nói chung, ngoài việc viết pha trộn các Hán tự - Hiragana - Katakana
như ở trên, Romaji - Số Ả Rập cũng được sử dụng cùng lúc khi cần thiết. Một cách cơ
bản, đa số dùng Hán tự cho Hán ngữ, với phần biểu thị khái niệm chung của Hòa ngữ
(như danh từ và gốc từ biến cách) thì dùng Hán tự, với yếu tố hình thức (như trợ từ - trợ
động từ) và một phần của phó từ - từ nối thì dùng Hiragana, Ngoại lai ngữ (trừ Hán ngữ)
thì sử dụng Katakana. Theo tài liệu chính thức thì cũng có trường hợp quy định chữ viết
cụ thể, người dân bình thường cũng dùng theo theo cách đó. Tuy nhiên, không có phép
chính tả chính xác chặt chẽ và sự linh động về chữ viết đang được chấp nhận rộng rãi.
Tùy theo loại văn chương và mục đích mà có các cách viết sau:
• さくらのはながさく/サクラの花が読く/読の花が読く
[sakura no hana ga saku ("Hoa anh đào nở")]

Lợi ích của việc viết trộn lẫn hệ thống chữ viết một cách đa dạng là ở chỗ từng khối
từ được nắm bắt dễ dàng và rất có lợi để đọc nhanh. Từ đồng âm dị nghĩa bắt nguồn từ
cấu tạo âm tiết đơn thuần của tiếng Nhật được phân biệt bằng Hán tự, số chữ có được
cũng được rút ngắn, đó cũng là một lợi ích. Theo lịch sử, đã từng có chủ trương hủy bỏ
Hán tự cũng như Quốc tự hóa (Kana hóa) Rōmaji nhưng không thể thực hiện rộng rãi.
Ngày nay kiểu viết trộn lẫn Hán tự - Hiragana - Katakana đang được thừa nhận rộng rãi
như kiểu chữ viết chuẩn. Tuy nhiên khi sử dụng loại chữ nào thì cần phải xem xét kỹ
lưỡng nghĩa của câu, văn cảnh, đội tượng tiếp nhận.
Ví dụ: Khi xin lỗi một người bằng vị trí của mình với thái độ thân mật, người Nhật
thường nói “Gomen” 漢漢漢漢漢theo chữ Hiragana .
Còn khi một người chồng có lỗi với vợ, muốn xin lỗi vợ một cách vô cùng chân
thành thì khi viết thư cho vợ, anh ta sẽ dùng “Gomen”漢漢漢漢漢 viết bằng Katakana.
Trong tương lai sắp tới, tiếng Nhật sẽ thay đổi rất nhiều về mọi mặt. Khi tiếp xúc
với các dòng ngôn ngữ khác trong làm ăn, giao tiếp sẽ khó tránh khỏi những biến đổi về
mặt từ vựng, nhất là về sự pha trộn các hệ chữ trong văn tự. Điều này sẽ mang lại những
thuận lợi, những điểm tích cực, những chắc chắn cũng không ít tiêu cực.
KẾT LUẬN
 
Như vậy trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn tự nói riêng, Nhật Bản quả là một thành
viên xuất sắc. Quốc gia này là nước đầu tiên xây dựng thành công một hệ thống chữ
viết cho ngôn ngữ dân tộc dựa trên cơ sở chữ Hán. Bên cạnh đó, việc sáng tạo nên hai
hệ thống chữ cái Hiragana và Katakana đã giúp cho Nhật Bản thuận tiện hơn trong
việc sử dụng chữ Hán và tiếp nhận những từ ngữ ngoại lai.
Ở Việt Nam, tuy là điều kiện khách quan thuận tiện hơn vì tiếng Việt và tiếng Hán
đều là hình thức ngôn ngữ đơn lập, nhưng mãi cho đến sau thế kỷ X, hệ thống chữ
Nôm mới hình thành, bản chất khác với tiếng Nhật.
Nói về tầm quan trọng của Hán tự, trong thời kỳ lịch sử cận đại, khi mà một số trí
thức, những nhà cách tân ở Việt Nam, Triều Tiên và cả Trung Quốc xem chữ Hán như
chướng ngại vật trên con đường đi đến thế giới hiện đại mọi mặt thì thành công của
Nhật Bản đã chứng minh rằng chữ Hán có thể trở thành công cụ truyền bá tối ưu các

mặt của công cuộc hiện đại hóa mà không thoát ly truyền thống và bản sắc dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt (Lê Đình Khẩn-NXB ĐHQG)
2. Nhật Bản –thành viên xuất sắc trong giới Hán hóa
3. Nihongo no tokucho (Kindaichi Haruhito)
4. Trang web: http//www.wikimedia.com
5. Trang web: http//www.thongtinnhatban.net
MỤC LỤC
 
PHẦN MỞ ĐẦU
A. HÁN TỰ : KAN JI
I. Sự du nhập chữ Hán vào Nhật Bản
II. Đặc điểm Hán tự trong ngôn ngữ Nhật Bản
III. Sự tái du nhập chữ Hán vào Trung Quốc
B. HIRAGANA VÀ KATAKANA
I. Sự hình thành Hiragana và Katakana
II. Hệ thống chữ cái Hiragana và Katakana
C. CÁC HỆ THỐNG CHỮ VIẾT TIẾNG NHẬT TRONG VĂN TỰ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

×