Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Cuộc đời sự nghiệp Hồ Xuân Hương !

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.16 KB, 44 trang )

VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
HỒ XUÂN HƯƠNG

I. Những khó khăn trong việc nghiên cứu Hồ Xuân hương
Một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến sự chia rẽ ý
kiến, không phải giữa những nhà nghiên cứu có quan điểm khác nhau,
mà ngay trong những nhà nghiên cứu có cùng một quan điểm là vấn đề
tư liệu về sáng tác cũng như tư liệu về cuộc đời của nhà thơ này,
Thơ Xuân Hương còn lại đến nay đều do người đời sau ghi chép,
không một tài liệu nào có thể tin cậy hoàn toàn, Không kể bản Lưu
Hương ký ông Trần Thanh Mại mới tìm được và công bố trên tạp chí
Văn học lăm 1964, góp nhặt đây đó số thơ thường được coi là của Hồ
Xuân Hương có đến trên một trăm bài, Chắc chưa hết, Nhưng điều cần
giải quyết trước tiên ở đây là số trên một trăm bài thơ ấy, có phải tất
cả của Xuân Hương không? Bởi vì rất dễ hiểu là nếu đánh giá Xuân
hương mà dựa vào những bài thơ không phải của bà thì làm sao đánh
giá chính xác được?
Khảo sát trên một trăm bài thơ lâu nay được coi là của Hồ Xuân
Hương, thực tế ta thấy khoảng 40 bài phong cách rất thống nhất, Còn
số bài còn lại thì có khía cạnh này, khía cạnh khác giống với những bài
trên, nhưng nhìn chung không thuộc phong cách của những bài trên,
mà rất hỗn tạp, Thực tế đó cho thấy chúng ta nghĩ trong số bợn mươi
bài có phong cách thống nhất kia có nhiều khả năng là của một người
sáng tác và đó là sáng tác của Xuân Hương, Còn những bài khác vì có
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
khía cạnh này, khía cạnh nọ giống với sáng tác của Xuân Hương, nên
người ta mới nhầm lẫn, cho là của Xuân Hương chứ không phải của
bà,
Căn cứ vào tính thống nhất của phong cách, chúng ta làm một sự
đối chiếu so sánh để loại trừ, như thế có khả năng tìm ra những bài thơ


của Xuân Hương, Tuy nhiên một vấn đề hoàn toàn có thể đặt ra là:
phong cách của một nhà văn không phải đứng yên mà có thay đổi,
Nghiên cứu phong cách trong tính thống nhất tĩnh tại, có khả năng bỏ
sót một số bài của Xuân Hương, Và ngay trong những bài phong cách
thống nhất chắc gì không có khả năng lẫn lộn?
Đúng nhu vậy, Về trường hợp thứ nhất, cần nói thêm rằng phong
cách của một nhà thơ có thể thay đổi, nhưng phổ biến là sự thay đổi ấy
không phá vỡ tính thống nhất của nó, Riêng đối với những nhà văn
sống trong xã hội phong kiến, cuộc sống không có những biến động
lớn về xã hội, về thế giới quan và ý thức hệ thì khả năng thay đổi
phong cách rất hạn chế, Do đó nếu căn cứ vào tiêu chuẩn tính thống
nhất phong cách để xác định sáng tác của Hồ Xuân Hương, nếu ta có
bỏ sót một số bài nào, thì chắc con số ấy không nhiều, không ảnh
hưởng đáng kể đến sự đánh giá chung đối với nhà thơ, Có thể với cách
xác định như thế, chúng ta chưa đánh giá triệt để Hồ Xuân Hương,
nhưng tránh được khả năng đánh giá sai Hồ Xuân Hương,
Còn trường hợp thứ hai, về sự nhầm lẫn trong những bài có phong
cách thống nhất, Thực tế thơ Hồ Xuân Hương cho thấy có khả năng
này, Bài Đánh đu ngày tết là một bài mang đầy đủ phong cách Xuân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Hương theo tiêu chuẩn xác định trên thì chính nó lại thoát thai từ bài
thơ Cây đánh đu trong Hồng Đức quốc âm thi tập,(1 ) Hai bài Động
Hương Tích và Hang Cắc Cớ mang nhiều nét phong cách Xuân
Hương, thì cả hai lại có nhiều câu rất giống nhau, Lẽ nào Xuân Hương
bất lực đến nỗi phải tự lặp lại mình thô thiển đến thế, Đây quả là
những trường hợp phức tạp, Dù sao cũng có thể khẳng định trường hợp
nhầm lẫn này không nhiều, Bởi vì hiện tượng nhại phong cách trong
văn học nói chung có thể phân biệt được, và Xuân Hương, một nhà thơ
có cá tính độc đáo như thế không dễ gì nhại được hoàn toàn, Và lại do

dù có đôi ba bài bắt chước phong cách Hồ Xuân Hương lẫn lộn trong
số thơ của bà mà ta không có cách gì phân biệt, thì những bài ấy cũng
không thể làm phá vỡ sự đánh giá chung về nhà thơ được,
Tóm lại, theo chúng tôi vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận hàng
đầu trong việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương chính là vấn đề xác định
văn bản thơ Xuân Hương,
Cái khó ở đây là phải xác định như thế nào cho chính xác,
*
* *
Nhưng sự phức tạp về văn bản thơ Xuân Hương lại thêm một lần
phức tạp nữa với sự xuất hiện của tập Lưu Hương ký,
l xem Hồng Đức quốc âm thi tập, Phan
Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm,
chú thích, NXB Văn hóa, Hà Nội 1962,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Tháng 10 năm 1964, trên tạp chí Văn học, trong bài Trở lại vấn đề
Hồ Xuân Hương, ông Trần Thanh Mại giới thiệu một bài tựa của
Nham Giác Phu viết cho tập Lưu Hương ký vào tháng 3 năm 1814, Bài
này ghi trong một tập thơ chép tay Du Hương Tích động ký, Theo bài
tựa, Nham Giác Phu người họ Phan, cùng quận với Hồ Xuân Hương và
Lưu hương ký là tập thơ của Hồ Xuân Hương, Kèm theo bài tựa có
hơn ba mươi bài thơ toàn nói về mối tình của ông ta đối với Hồ Xuân
Hương, Sau đó Trần Thanh Mại lại tìm được bản Lư hương ký do ông
Nguyễn Văn Tú cử nhân Hán học, người xã Hành Thiện, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Hà cung cấp, Ông Trần Thanh Mại giới thiệu tập
Lưu hương ký này như sau:
''Có phần chắc bản chép tập Lưu hương ký mà ông Nguyễn Văn Tú
đã trao cho chúng tôi là phần còn lại của tập thơ mà Nham Giác Phu đã
đọc và đã đề tựa, hay ít nhất nó cũng thiếu nhiều tờ, Bản này chỉ có 22

trang giấy viết hàng tám, tổng cộng 30 đầu đề có 52 bài ,trong 52 bài
này có 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ chữ Nôm, Trang đầu có đề rõ:
Lưu hương ký - Hoan trung Cổ Nguyệt đường Xuân Hương nữ sử tập,
Hoan Trung tức là tỉnh Nghệ An; Cổ Nguyệt đường là tên nhà ở của
Xuân Hương , đồng thời là chiết tự chữ Hồ chỉ họ của tác giả''(l ),
Nhìn chung, những bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong Lưu hương
ký có nghệ thuật khá điêu luyện, Nhà thơ không viết về một đề tài nào
khác ngoài tâm sự và mối tình của mình đối với những người bạn trai,
Có khi đó là một tình bạn thắm thiết gần như một tình yêu, có khi đó là
một tình yêu thật sự, Trong số những người quan hệ với Hồ Xuân
Hương có ông Tốn Phong thị, ông hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
ông Sơn Phủ, ông Thanh Liên, ông Chí Hiên, và đặc biệt có cả một
''ngưởi cũ'' là ông Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu tức Nguyễn Du, tác
giả Truyện Kiều,
Qua những bài thơ chép trong Lưu hương ký, thấy rõ tình cảm của
nhà thơ đối với những người bạn trai của mình rất chân thành, và nhiều
bài bên cái đằm thắm dịu dàng có thêm một chút ngậm ngùi của những
mối tình không trọn vẹn, Chẳng hạn đây là bài Nhớ người cũ viết gửi
Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu:
Dặm khách muôn nghìn nỡi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng,
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không,
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn sơn càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương sim mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong !
Trần Thanh Mại, Bản Lưu hương ký

và lai lịch phát hiện nó, tạp chí Văn học số
11 - 1964, ,
Những bài chữ Hán cũng cùng một cảm hứng như thế, Nhà thơ không
ngượng ngùng gì khi nói lên một cách công khai tình cảm yêu đương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
của mình, Điều đó đối với một phụ nữ sống trong xã hội phong kiến,
phải nói là hết sức táo bạo, Bài Nguyệt dạ ca là một thí dụ,
Nhà thơ viết:
Lộ như châu hề nguyệt như sai (sa),
Thúc vãng lai hề chiếu dư hoài,
Uyển cô nhân hề thiên nhai,
ái bất kiến hề tâm bồi hồi,
Đài hoang thần nữ miếu,
Vân tác Sở vương đài,
Minh nguyệt quang như thử,
Ngã tư chi nhân hề an tại tai!
(sương như hạt châu, trăng như ngọc sáng,
Trăng qua qua lại lại chiếu rọi xuống tấm lòng tôi,
ấm ức thay, người bạn cũ mãi còn ở ngoài ven trời,
Yêu mà không thấy mặt, dạ bao xiết bồi hồi,
Miếu nữ thần rêu đã phủ khắp,
Đài vua Sở mây đã tan rồi,
trăng sáng rực rỡ như kia,
Mà con người mình nhớ nhung còn mãi nơi đâu,)
Đánh giá chung Lưu hương ký, ông Trần Thanh Mại, người đầu
tiên giới thiệu tập thơ này viết: ''Nhìn chung lại thơ chữ Hán và chữ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Nôm của Hồ Xuân Hương như được ghi chép trong Lưu hương ký

không trực tiếp nêu lên được những vấn đề xã hội lớn lao và cấp thiết,
Dù thế nào mặc lòng, chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong thơ này những
giọng chân thành tha thiết để đấu tranh cho một tình yêu bình đẳng,
Lưu hương ký là tiếng kêu thất vọng để có một tình yêu thành
thực,chung thúy ''
Như thế phải chăng ngoài những bài thơ Nôm của Xuân Hương mà
lâu nay chúng ta biết, Xuân Hương còn là tác giả của tập Lưu hương
ký này nữa? Trong tình hình tư liệu hiện nay, chúng tôi cho rằng một
sự khẳng định nhu thế có lẽ chưa được thận trọng mà cần phải tiếp tục
khảo sát thêm,
Về nội dung, Lưu hương ký không phải không có chỗ giống với thơ
Nôm của Hồ Xuân Hương, Trong Lưu hương ký chúng ta thấy tác giả
như Hồ Xuân Hương (hay chính là Hồ Xuân Hương) là một phụ nữ
giầu nhiệt tình, yêu đời, bất chấp tất cả lễ giáo phong kiến, lúc nào
cũng tha thiết muốn yêu và không bao giờ có được một tình yêu toại
nguyện, Có lẽ vì thế mà Trần Thanh Mại nhận xét Lưu hương ký ''khá
gần gũi với những bài trữ tình trong ''thơ Hồ Xuân Hương'' quen thuộc
như Chiếc bách, Hờn duyên, Cái hồng nhan v,v,,, '',
Nhưng đọc kỹ chúng tôi vẫn thấy có một khoảng cách giữa thơ
Nôm của Hồ Xuân Hương với Lưu hương ký, chủ yếu là về phong
cách biểu hiện, Trong Lưu hương ký có cả thơ chữ Hán, lẫn thơ chữ
Nôm, Riêng phần thơ Nôm trong Lưu hương ký nếu so sánh với thơ
Nôm lâu nay được coi là của Hồ Xuân Hương, thì hai bên vẫn khác
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
nhau nhiều lắm, Thơ Nôm trong Lưu hương ký có rất nhiều từ Hán
Việt, và từ Hán Việt được sử dụng với phong cách trang nhã, Giọng
thơ lại hiền lành, chữ không góc cạnh, gân guốc như ở thơ Hồ Xuân
Hương, Thơ Hồ Xuân Hương có bài trữ tình, có bài trào phúng, nhưng
phong cách của nhà thơ vẫn thống nhất rõ nét qua cả hai thể loại; trong

khi đó giữa thơ trữ tình của Hồ Xuân Hương với thơ trữ tình trong Lưu
hương ký thì tuy cùng một loại, mà phong cách khác nhau rất nhiều,
Vì những lý do như thế, để đảm bảo tính chất khoa học của vấn đề
trong cuốn sách này chúng tôi sẽ không đề cập đến Lưu hương ký
trong khi phân tích đánh giá Hồ Xuân Hương, Điều đó không có nghĩa
chúng tôi phú nhận Lưu hương ký không phải của Hồ Xuân Hương,
mà chỉ có nghĩa là trong khi chờ đợi một sự xác minh khoa học, Cách
làm như thế là thận trọng hơn cả,
Tư liệu về Hồ Xuân Hương có nhiều rắc rối mà tư liệu về cuộc đời
của Hồ Xuân Hương cũng có nhiều rắc rối, không rõ ràng gì, Cho đến
nay, không có một tài liệu gốc nào về cuộc đời của Xuân Hương còn
giữ lại,
Theo những tài liệu lưu truyền về tiểu sử Xuân Hương trước nay
thì Hồ Xuân Hương quê ở làng Quýnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh
Nghệ An, Họ Hồ ở Quỳnh Lưu là một họ tương đối lớn, từng có người
đậu đạt và làm quan, nhưng đến đời Hồ Phi Diễn thì họ này suy tàn,
Hồ Phi Diễn, tương truyền là ông thân sinh của Hồ Xuân Hương sinh
năm 1704 đậu tú tài năm hai mươi bốn tuổi dưới triều Lê Bảo Thái,
Nhà nghèo, Hồ Phi Diễn không có tiền để tiếp tục học thêm, ông ra
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Bắc dạy học kiếm sống, Ông đồ Diễn thường dạy ở hai tỉnh Hải
Dương, Bắc Ninh, về sau ông lấy một cô gái Bắc Ninh họ Hà làm vợ
lẽ, Hồ Xuân Hương là kết quả của cuộc tình duyên ấy, Trước khi sinh
Hồ Xuân Hương, gia đình ông đồ Diễn có một thời sống ở phường
Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, gần hồ Tây, Thăng Long, Lúc Hồ
Xuân Hương lớn lên, gia đình một dạo cũng dọn về thôn Tiên Thị,
tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư, Hà Nội), và
khi trưởng thành, bà có làm một ngôi nhà ở gần hồ Tây, lấy tên là Cổ
Nguyệt đường. Các bài thơ Chơi chùa Quán Sứ, Đề đền Sầm Nghi

Đống còn ghi lại dấu vết những ngày nhà thơ sống ở đế đô này,
Không rõ vì lẽ gì từ bê Hồ Xuân Hương vẫn thường sống với mẹ.
Xuân Hương có đi học, thông minh, nhưng không học được nhiều. Lúc
lớn lên, cô gái ấy lại thích làm thơ, và trong cuộc đời thơ văn của
mình, Xuân Hương có một người bạn trai rất đỗi tri âm là Chiêu Hổ.
Nhiều người nói Chiêu Hổ chính là Phạm Đình Hổ, tác giả Vũ trung
tuỳ bút và Đông Dã học ngôn thi ộâp., Chắc không đúng vì Chiêu Hổ
của Hồ Xuân Hương nghịch ngợm không kém gì bà, còn Phạm Đình
Hổ là một nhà thơ mực thước. Về cuộc đời riêng của Xuân Hương, có
lẽ điều đau nhất còn dấu vết khắc sâu trong thơ văn là con đường tình
duyên trắc trở của bà. Xuân Hương muộn chồng, đến khi lấy chồng
cũng chẳng ra gì, Một lần bà lấy lẽ tổng Cóc và một lần lấy lẽ ông phú
Vĩnh Tường.
Trong số thơ Xuân Hương còn để lại, một nét khá nổi bật mà chúng
ta biết được là nhà thơ đi rất nhiều, Lần theo dấu vết bàn chân của
Xuân Hương khi ở Chùa Quán Sứ khi ở Động Hương Tích, ở núi ông
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Chồng bà Chồng, đèo Ba Dội v,v,,, chúng ta có thể hình dung ra cuộc
du lãm của nhà thơ kéo dài qua nhiều tỉnh miền Bắc và miền, Trung,
bao gồm cả đồng bằng lẫn miền núi: Hà Đông, Ninh Bình, Thanh Hóa,
Tuyên Quang: Sơn La . Đấy là chưa kể Nghệ,An, quê cha và Bắc
Ninh, quê mẹ, thế nào Xuân Hương lại chẳng đi về, Một con người đi
nhiều, người ấy lại là phụ nữ. Điều đó quả là hiếm thấy trong xã hội
phong kiến ngày trước,
Tóm lại, về cuộc đời Hồ Xuân Hương, còn nhiều chi tiết cần xác
minh lại, cần phải tìm tòi thêm (l )
Dù sao, một số vấn đề sơ bộ có thể kết luận được, Đó là nhà thơ có
một cuộc đời hoàn toàn bất như ý,Xuân Hương sống vào một thời kỳ
chế độ phong kiến đã mục rỗng,thối nát và bà là nạn nhân của cái chế

độ ấy. Là người phụ nữ xuất
thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, cuộc sống đã đẩy Xuân
Hương xuống tầng lớp tận cùng của xã hội. Quằn quại và đau đớn,
lòng căm phẫn đối với xã hội bất công, một cái gì tha thiết của cuộc
sống riêng tây và sự lăn lộn tiếp xúc với những người phụ nữ cùng bị
áp bức trong xã hội, tất cả đã hun đúc nên con người và tài năng của
Xuân Hương, thôi thúc Xuân Hương viết lên những vần thơ nhọn sắc
và cháy bỏng, những vần thơ thông minh và tình tứ, những vần
thơ rất quần chúng mà cũng rất độc đáo, rất Xuân Hương,
II HỒ XUÂN HƯƠNG, NHÀ THƠ CỦA PHỤ NỮ
Trong văn học Việt nam nửa cuối thế kỷ XVIII - lửa đầu thế kỷ
XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
bà trước hết là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, Không phải người
phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ
bình thường, ngưởi phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc
sống, Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ
đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng
nói của những người phụ nữ ấy, những tiếng than và những tiếng thét,
những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay.
Ai cũng biết cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phận riêng dành
cho phụ nữ, Nhưng cái đau khổ của phụ nữ bao giờ cũng có khía cạnh
Năm 1983 ông Hoàng Xuân Hãn ở Paris có cung
cấp thêm một số tư liệu về Hồ Xuân Hương, Căn cứ
vào tập Quốc sử đi biên của Phan Thúc Trực
ôngHoàng Xuân Hãn nói Hồ Xuân Hương còn là
vợ lẽ của Trần Phúc Hiển, quan Tham hiệp trấn
Yên Quảng (tức Quảng yên sau này), Trần Phúc
Hiển sau đó ăn hối lộ nên bi xử tử năm 1819, Thời

gian ở Yên Quảng Hồ Xuân Hương có làm một số
bài thơ vịnh cảnh đẹp ở Hạ Long, ông có dịch và
giới thiệu 5 bài chép trong tập Đại nam dư địa chí
ước biên, Cũng trong tài liệu này ông Hoàng Xuân
Hãn phản bác lại ý kiến cho Hồ Xuân Hương lấy lẽ
ông phủ Vĩnh Tường, Xem Hoàng Xuân Hãn, Hồ
Xuân Hương với vịnh Hạ Long và trong tập san
khoa học xã hội bản tiếng Việt) số l0-n, tháng 12
năm 1983 ở p&ns, (Chú thích của lần tái bản, N,L)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
chua xót, tái tê riêng của nó, Phụ nữ cũng là người làm lụng đầu tắt
mặt tối, cũng đói cơm rách áo, cũng bị trăm nghìn thứ chà đạp như bất
cử một người bị áp bức nào khác, Nhưng xã hội phong kiến còn dành
cho họ nhiều sự bạc đãi: các qui chế nặng nề của đạo đức, của lễgiáo,
của tập tục xã hội mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt
đau đớn hơn nhiều lần cái đau khổ về thể chất!
Hồ Xuân Hương là nhà thơ phụ nữ, và nhà thơ của phụ nữ, bằng
kinh nghiệm của cuộc đời chung, và,kinh nghiệm của cuộc đời riêng
chẳng ra gì của mình, nhà thơ đứng về phía những người phụ nữ bị áp
bức. Trong thơ mình, Xuân Hương không nói đến toàn bộ nổi khổ của
phụ nữ. Xuân Hương hình như chỉ muốn nói đến nỗi đau khổ riêng có
tính chất giới tính của mình, Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường
xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi
kịch không kém phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa
trong một cuộc sống vốn dĩ đã rập khuôn theo những chế ước nặng nề
của lễ giáo, Hồ Xuân Hương viết về nỗi khổ của người phụ nữ ''lấy
chồng chung'' hay nỗi khổ của người phụ nữ ''không chồng mà chửa''
v.v Trong bài Cảnh chồng chung, nhà thơ vạch ra làm lẽ chẳng qua
chỉ là một thứ làm mướn, thậm chí còn tệ hơn làm mướn nữa: đó là thứ

làm mướn không công, Hồ Xuân Hương nêu lên được một nét điển
hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong kiến. Xã hội phong kiến bắt
người phụ nữ phải chính chuyên một chồng trong khi cho phép đàn
ông có quyền năm thê bảy thiếp. Trừ trường hợp cá biệt, lấy vợ lẽ vì
người vợ cả không có con trai ''nối dõi tông đường'', thông thường
trong xã hội phong kiến lấy lẽ là để thỏa mãn cuộc sống dâm dật của
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
bọn địa chủ, đồng thời để có thêm sức lao động. Đó là cách thuê nhân
công mà không phải trả tiền công, ý nghĩa phê phán sâu sắc trong bài
thơ của Hồ Xuân Hnơng là ở đó. Và ý nghĩa ấy được nhân lên rất
nhiều, do chỗ người phụ nữ của Xuân Hương cố hết sức để chịu đựng:
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần cỏ cũng không,
Cố đấm ăn xôi ,xôi lại hẩm,
cầm bằng làm mướn, mướn không công!
và đã không chịu đựng nổi, đã thét lên:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Hồ Xuân Hương nhận thức được cảnh bất công, ngang trái của việc
lấy chồng chung, nhà thơ lên tiếng chửi mắng quyết liệt, nhưng điều
kiện xã hội phong kiến vẫn cứ cho phép nó nghiễm nhiên tồn tại. Lịch
sử hạn chế nhà thơ, Xuân Hương không tìm được lối thoát. Bài thơ kết
thúc không mở ra bước ngoặt nào cả, mà đóng lại bằng một tiếng thở
dài bất lực:
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong !
Nhà thơ không thể vuợt lên trên hoàn cảnh xã hội. Bất mãn với
thực tại, Xuân Hương nghĩ giá gì ngày trước, dừng đi lấy chồng! Đó là
một cách nói chứ không phải một giải pháp, và tiếng thở dài của Xuân
Hương chỉ làm đậm thêm cái mỉa mai của thực tại,

TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giở dửng dưng, lạnh
nhạt. Nhà thơ luôn luôn có một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói
đến với tất cả sự xúc động chân thành của mình, Khi giận dữ thì thét
lên, mắng chửi; khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Nếu bài
Cảnh chồng chung là tiếng nói phẫn uất chua xót đối với chế độ đa thê
bất công mà người phụ nữ phải chịu đựng, thì bài Không chồng mà
chửa lại là một bời nói rất mực khoan dung, độ lượng đối với cảnh ngộ
không may của họ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tai họa
tầy đình, Thời Hổ Xuân Hương sống và sáng tác, bộ luật Gia Long ghi
rõ: ''Nam nữ đã đính hôn với nhau, nhưng chưa cưới mà dã thông gian
thì phải phạt một trăm trượng''. Và chú thêm: ''người đàn bà phạm tội
gian dâm thì hết cả liêm sỉ, nên bắt cởi áo cánh, cho để mặc váy mà gia
hình; còn tội khác, khi phạt cũng được mặc cả áo''.
Đấy là ''tội'' của những người có đính hôn, nhưng chưa cưới xin đã
ăn nằm với nhau.Chứ những người không có đính hôn, những phụ nữ
''không chồng mà chửa'' thì ''tội'' không thể hình dung được. Giai cấp
phong kiến thống trị lấy việc lăng nhục nhân cách con người để trả thù
cho cái mà chúng gọi ''phá hoại nhận cách'', là ''hết cả liêm sỉ'', Thật
không có sự lệ thuộc nào bằng sự lệ thuộc của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Pháp luật, lễ giáo, tập tục, những tam cương ngũ
thường, tam tòng tứ đức đã hoàn toàn biến phụ nữ thành một thứ sở
hữu của người gia trưởng, của đàn ông. Họ biết tước hết mọi quyền lợi,
kể cả quyền được yêu, và quyền đối với con cái của họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Trong hoàn cảnh như vậy, quan hệ vợ chồng chưa chắc đã là quan
hệ yêu đương, và việc ''không chồng mà chửa'' chưa hẳn là chuyện bừa

bãi, trong bộc trên dâu, mà nhiều khi lại là kết qua của một tình yêu
thật sự. Người phụ nữ ''không chồng mà chửa'' trong bài thơ của Xuân
Hương là trường hợp ấy, Nàng nói với người tình của mình nửa như
trách móc, nửa như tâm sự:
cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng !
không coi việc làm của nàng là tội lỗi. Đó chỉ là chuyện ''cả nể'' đối
với người tình, và vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy. Lễ giáo, luật
pháp phong kiến khắc nghiệt làm cho người tình không dám nhìn nhận
kết quả tình yêu của chàng. Chỗ nhút nhát ấy của bạn tình, nguời phụ
nữ của Xuân Hương cũng rất độ lượng:
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng !
nàng chỉ yêu cầu một điều là phải nhìn nhận sự việc cho đúng đắn. Đây
là chuyện tình, chuyện nghĩa chứ không phải chuyện bướm ong trong
chốc lát: ''Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa''. Còn kết quả của nó,
bạn tình không dám nhận, nàng xin đảm đương tất cả:
''Mảnh tình một khối thiếp xin mang'',
Cuối cùng nguời phụ nữ của Xuân Hương thấy không thể sống khuất
phục được, nàng đã ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến,
bằng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
không có, nhưng mà có, mới ngoan,
Thái độ của, Xuân Hương bắt gặp thái độ của quần chúng nhân dân
trong ca dao:
Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chăng mà chửa thế gian sự thường,
Cố nhiên, quần chúng nhân dân cũng như Hồ Xuân Huơng không
phải bênh vực cho quan hệ bừa bãi giữa nam nữ, mà ở đây là cách nói

''ăn miếng trả mếng'' có tính cách đốp chát trong lối đối thoại của nhân
dân với giai cấp phong kiến thống trị,
Xuân Hương là nhà thơ yêu con nguời, yêu cuộc uống, Tình cảm
chân thành làm cho thơ Xuân Hương dường như lúc nào cũng che dấu
bên trong một nụ cười. Đối với Xuân Hương, nụ cười có ý nghĩa nhiều
hơn nhũng giọt nước mắt. Tất nhiên nói thế chẳng phải nước mắt
không có ý nghĩa. Nhất là đối với những giọt nước mắt hết sức chân
thành và thông cảm như của một Nguyễn Du chẳng hạn, thì đó vẫn là
niềm an ủi lớn đối với con người, đó vẫn là một bằng chứng rằng con
người không phải tất cả là láng sói, mà còn có những tấm lòng. Song
dù sao cũng phải nhận rằng, cuộc sống cũ nước mắt đã đọng lại thành
sông, thành biển, khóc thêm vài giọt nữa phỏng có ích gì? Xuân
Hương không muốn khóc, Xuân Hương không muốn phủ một màu
đen lên cuộc đời vốn đã đen ngòm của những con người đau khổ, mà
muốn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lực để sống và
chống chọi với cuộc sống. Nhà thơ sẽ bảo một bà lang khóc chồng:
Văng vẳng tai ghe tiếng khóc gì,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Thương chồng nên nỗi khóc tì ti,
sẽ bảo một cô gái chồng chết:
Nín đi kẻo thẹn với non sông,
Ai về nhắn nhủ đàn em bé
sẽ đem đến chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ phải công bằng và
nhân đạo hơn để cho những cô gái không chồng mà chửa có thể tiếp
tục sống, làm mẹ và làm người:
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!
Nhưng đối với phụ nữ, Xuân Hương không phải chỉ có thông cảm
và bênh vực. Đặc biệt hơn nữa là nhà thơ còn hết sức đề cao và ca ngợi
họ. Xuân Hương tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân chính của họ.

Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh hẩm hiu của
người phụ nữ như chiếc bánh trôi '' bảy nổi ba chìm với nước non''; con
ốc nhồi ''đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi'', hay quả mít ''da nó sù sì” v.v
nhà thơ chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ.
Quả mít da sù sì, nhưng ''múi nó dày'', Chiếc bánh trôi bảy nổi ba chìm
và ''rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn'', nhưng ''vẫn giữ tấm lòng son''
Trong bài thơ Đề tranh tố nữ, Xuân Hương ca ngợi người phụ nữ ,ở
một khía cạnh khác: ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong của các cô
gái đang xoan:
chị cũng xinh mà em cũng xinh,
Đôi lứa như in tờ giấy trắng, ,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh,,,
Và trong bài Thiếu nữ, ngòi bút của nhà thơ lại đi vào một lĩnh vực
hoàn toàn mới mẻ về cái đẹp của họ: cái đẹp trong cơ thể. Bài thơ là
một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, ,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc,nồng,
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long,
Đôi gò bồng đảo hương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông,
Quân tử dùng dằng đi chẳng đứt,
Đi thì cũng dở ở không xong,
Không phải bằng đường loét và màu sắc, mà bằng một thứ ngôn
ngữ trang trọng, bức tranh khỏa thân của Xuân Hương mới sinh động
biết bao!
Có người cho đây là một cách nhảm nhí của nhà thơ, một thứ ''dâm
hay tục'', Nhưng bài thơ có gì là nhảm nhí, có gì là dâm, là tục? Ở đây

người đọc chỉ thấy một thân hình cân đối mĩ lệ của người thiếu nữ, một
quang cảnh nên thơ với những bồng đảo, đào nguyên
Bức tranh không hề khiêu gợi một sự thèm khát nào của dục vọng
thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ
thanh cao,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
III HỒ XUÂN HƯƠNG, NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG
Trước kia Xuân Hương thường bị giai cặp phong kiến thống trị coi
là người đàn bà lăng loàn, đĩ thõa. Họ căm ghét Xuân Hương, bởi vì
Xuân Hương dám nói những điều bọn mũ cao áo dài không dám nói
đến. Đó mới là một phần, Một phần nữa điều này họ không dám nói ra
nhưng là cái chú yếu nhất khiến họ căm ghét Xuân Hương , bởi vì nhà
thơ phụ nữ, này dám thẳng tay đánh tát vào mặt cả một duộc bọn
phong kiến thống trị suốt từ trên xuống dưới, chẳng có sợ hãi, chẳng có
nể nang ai một chút nào. Nhà thơ xé toạc hết các bộ mặt nạ giả dối, lột
trần hết những chiếc áo đạo đức cũn cỡn để chúng lộ nguyên hình là
một lũ bịp bợm, dối đời và dốt nát.
Hiền nhân quân tử là mẫu người lý tưởng của xã hội phong kiến,
thực ra cũng chẳng ''hiền nhân quân tử'' gì. Họ cũng có lắm khát khao
phàm tục. Thấy một cô gái ngú hớ hênh, quân tử cũng ''dùng dằng đi
chẳng dứt'', Hay trước cảnh đèo Ba Dội - mà hiển nhiên aicũng có thể
hiểu được ý ngầm trong cách miêu tả của nhà thơ – thì hiền nhân ''mỏi
gối chồn chân cũng muốn trèo'' ý nghĩa phê phán của bài thơ không
phải ở chỗ nhà thơ nói đến cái khát khao phàm tục mà ở chỗ nhà, thơ
vạch trần tính mâu thuẫn đầy tính chất khôi hài của một nội dung rất
phàm tục lại được che đậy bằng một lớp vỏ đạo đức giả dối.
Trong xã hội phong kiến, giai cấp thống trị cố dùng những từ ngữ
đẹp đẽ để trang điểm cho cái địa vị vô thượng của chúng. Nào những
'thiên tử'', những ''minh quân'', ''lương tướng'', những ''thế thiên hành

đạo'' Xuân Hương phủ nhận, và nói ngược lại tất cả. Bài thơ Vịnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
cái quạt, Xuân Hương mượn cớ tả cái quạt dể ám chỉ cái khác, rồi bà
nói to lên với mọi người:
Chúa dấu vua yêu một cái này!
Vua chúa chỉ yêu ''cái này'' thôi và không yêu cái gì khác nữa ! Đả kích
vua chúa đến như thế, đương thời chỉ có ca dao với chuyệnTrạng
Quỳnh. Xuân Hương cũng chẳng tha bọn văn nhân tài tử, dốt nát mà
khoe chữ nghĩa là chuyện lố lăng, bà chửi thẳng vào mặt:
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền,
Hay:
ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc đậu thưa,
Nhà thơ cũng không ngần ngại kéo lên sân khấu cười cợt cả bộ mặt
thẩn thờ của những tên quan thị,(quan hoạn ) hám danh vọng đã làm
cái việc trái lẽ thường; cả cái đầu trọc của những nhà sư ''miệng nam
mô, bụng một bồ dao găm”, Hồ Xuân Hương tỏ ra khó chịu nhất là dối
với bọn nầy. Trước Xuân Hương cũng như cùng thời với- bà có nhiều
nhà thơ đả kích bọn chúng. Xã hội rối ren, nhà chùa không còn là nơi
tu hành trang nghiêm, Nhiều kẻ lợi dụng cảnh chùa để làm điều bậy bạ.
Một con người khao khát cuộc sống hồn nhiên, khao khát được hưởng
lạc thú của tình yêu như Xuân Hương, tất không thể chịu được lối tu
hành giả dối đó. Y như rằng mỗi lần nói đến sư mô là thơ Xuân Hương
lại quất chiếc roi đánh đét vào bọn chúng:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Nào mũ tu lờ, nào áo thâm,
Đi đâu không đội để ong châm

Đầu sư há phải gì bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái nhầm,
Hay:
Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà,
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi núp sau lưng sáu bảy bà,
Khi cảnh, khi tiêu, khi- chũm chọe,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha,,,
Xuân Hương căm ghét bọn tu hành giả dối, nhà thơ cũng chẳng ưa
gì lối tu hành. Cảnh đẹp của chùa chiền không gây được một xúc động
nào đối với bà. Đứng trước cảnh chùa Quán Sứ, chùa Thầy hay chùa
Hương Tích, Xuân Hương không tìm vẻ đẹp của thiên nhiên, mà bà cái
chú ý đến cảnh ngược đời của bọn người sùng đạo:
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt đòm,
Trong con mắt của nhà thơ, sinh hoạt ở chùa Quán Sứ lười biếng và vô
nghĩa:
Chày kình tiểu để suông không đấm,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Tràng hạt vải lần đếm lại đeo,
Sáng banh không kẻ khua tang mít,
Trưa trật nào ai móc kẻ rêu,
còn chùa Hương được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động'', cũng
phô ra hớ hênh, xấu xí:
Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hõm hòm hom,
Có người đọc những bài thơ viết về cảnh chùa chiền của Xuân
Hương, thấy nhà thơ miêu tả cái gì cũng trơ trẽn: thô lỗ, vội vàng lên

án nhà thơ là đem cái “dâm đãng” bôi nhọ cảnh đẹp của đất nước.
Nhưng đối với Xuân Hương, có bao giờ bà gọi các nơi này là cảnh
đẹp? Xuân Hương không thể ca ngợi nó như bất cứ một nhà thơ nhàn
tản nào, Bởi vì bao giở Xuân Hương cũng đứng chắc chắn trên lập
trường nhân sinh để nhìn cảnh vật. Nhà thơ không thể chịu được bất cứ
cái gì có liên quan đến sự tha hóa con người, làm cho con người thoát
ly bản tính hồn nhiên tươi trẻ của mình. Với Xuân Hương, tất cả những
gì là con người, của con người đều gần gũi, thân thiết, và rất xa lạ đối
với nhà thơ những gì xa lạ con người, đối lập vớí con người. Nói cho
công bằng, cảnh chùa chiền thường là những thắng cảnh, ngày nay
chúng ta, những người duy vật chủ nghĩa không ,bị một giáo lý nào
ràng buộc, đi du ngoạn cảnh chùa để thưởng thức vẻ đẹp của thiên
thiên và những công trình văn hóa của cha ông, nhưng ngày xưa có
mấy nhà thơ nói đến vẻ đẹp của chùa chiền mà không gắn nó với cái
''thú mầu'' của đạo Phật, không tán dương triết lý hư vô của Phật giáo?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Biết như vậy, chúng ta mới hiểu cách miêu tả của Xuân Hương, Hồ
Xuân Hương phê phán bao giờ cũng gay gắt, Với bà, không, thể có
thái độ khoan dung, nửa vời, mà phải đánh một cái ngã gục ngay tức
khắc, Thiếu sót của bà là chưa thấy hết bản chất xấu xa nhiều mặt của
giai cấp phong kiến thống trị. Xuân Hương nói nhiều đến tính chất giả
dối, dốt nát của giai cấp thống trị và coi nó như là bản chất của chúng,
mà không thấy, cũng ghê tởm không kém sự giả dối và dốt nát là
những thủ đoạn bóc lột, bòn xương rút tuỷ nông dân của chúng, Xuân
Hương dường như vẫn thiên về lập trường phụ nữ trong khi nhìn nhận
cái xấu của giai cấp thống tri, hơn là lập trường của người bị áp bức
bóc lột. Và có thể là do ảnh hưởng của cuộc đời riêng bất hạnh của
mình. Xuân Hương chú ý nhiều đến mặt xã hội phong kiến kìm hãm
cuộc sống bản năng của phụ nữ, của ái ân trai gái mà chưa chú trọng

đúng mức đến các mặt khác.
Xuân Hương là một nhà thơ phiến diện, phiến diện cả trong vũ khí
đả kích của bà - hầu như Xuân Hương chỉ dùng mỗi cái tục để đả kích,
ở đây nảy ra một vấn đề tranh luận sôi nổi, mà cho đến nay vẫn chưa
kết thúc. Đó là thơ Xuân Hương có dâm có tục hay không? Tại sao có
những yếu tố ấy , và nên đánh giá nó như thế nào?
*
* *
Một điều không ai chối cãi được là thơ Xuân Hương có một cái gì
khác thường. Nhà thơ thật có cái nhìn kỳ lạ đối với mọi hiện tượng
xung quanh, trong thiên nhiên cũng như trong xã hội, Từ quả mít, con
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
ốc nhồi, chiếc quạt đến cái đầu trọc của nhà sư; từ cảnh dệt cửi ban
đêm, cảnh đánh đu ngày tết, cảnh tát nước, đến bòn đá Ông Chồng Bà
Chồng, đèo Ba Dội v,v,,, Xuân Hương như muốn nói đếnnhững
chuyện khác nữa, chuyện của đàn bà, và chuyện riêng trong buồng kín
của vợ chồng. Chúng ta biết Hồ Xuân Hương là một con người tài hoa,
yêu đời và giàu sức sống mà cuộc đời luôn luôn bị chèn ép, câu thúc –
không phải chỉ chèn ép câu thúc về tinh thần, về tình cảm, mà cả về
đời sống bản năng, về hạnh phúc ái ân của trai gái. Điêù đó có làm
chonhà thơ căm phẫn và khao khát, rạo rực một cái gì Nhiều phụ nữ
khác cùng cảnh ngộ với Xuân Hương chắng phải không khác khao như
bà, có điều lễ giáo phong kiến và tập tục hàng nghìn, đời, đã dồn ép
những tâm sự ấy xuống tận đáy sâu của suy nghĩ, của tiềm thức, và họ
chỉ còn lờ mờ một cảm giác bi quan nhẫn nhục chịu đựng, và xót
thương cho số kiếp của họ. Phải có can đảm và lạc quan như người lao
động trong văn học dân gian mới có thể nói lên cái khát khao cháy
bỏng ấy:
Bao giờ lão mới chầu trời,

Thì em lại kiếm một người trai tơ,
Xuân Hương rất gần gũi với chú nghĩa lạc quan của người lao động;
nhưng cá tính sắc cạnh của nhà thơ không cho phép Xuân Hương ao
ước một cách hiền lành như câu ca dao trên, mà bà viết về ''đá Ông
Chồng Bà Chồng'', về ''đánh đu'', về ''dệt cửi'':
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG- GS NGUYỄN LỘC
Nhà thơ nói đến hạnh phúc ái ân đâu phải là dâm đãng? Xã hội phong
kiến chú trương tiêu diệt cá tính, cái gì ''là mình'', ''của mình'' đều bí coi
là xấu xa, đê tiện, và ''thanh cao'' là huỷ diệt mọi nhu cầu cá nhân để
tôn thờ giai cấp thống trị, thì sao một kẻ dám ''là mình'', dám nói lên
khát vọng chân thành của mình lại không được ngợi khen mà bị chà là
dâm đãng? Tiếng thơ của Xuân Hương có quá quắt, nhu cầu ái ân của
Xuân Hương có da diết, táo tợn, nhưng xét cho công bằng, đâu phải lỗi
tại nhà thơ? Đó là tiếng kêu, tiếng thét, là sự phản ứng quyết liệt của
một khát vọng chính đáng bị xã hội phong kiến dìm xuống không cho
thực hiện được.
Nghệ thuật ''dâm đãng'' là nghệ thuật khêu gợi thú tính của con
người, lấy việc thỏa mãn nhục dục trần truồng làm mục đích. Đó là thứ
nghệ thuật không có lý trí, giết chết mọi quan niệm về cái đẹp, một
nghệ thuật kiểu nhà xăm, không hơn không kém. Thơ Xuân Hương
đâu phải như vậy. Đọc Xuân Hương bao giờ người ta cũng thấy một
đầu óc tỉnh táo, một lý trí lành mạnh, Nhà thơ bao giờ cũng đứng cao
hơn hiện tượng mình miêu tả để miêu tả, Xuân Hương thích chọn
những đề tài mập mờ, ẩn hiện để người đọc có thể liên tưởng đến
những sinh hoạt ái ân của trai gái và nhà thơ miêu tả một cách say sưa,
nhưng bà là một nghệ sĩ chân chính nên Xuân Hương vẫn bình tĩnh
phát hiện ra cái đẹp của nó.

Những câu thơ viết về ''đá Ông Chồng bà Chồng'' của bà là những
câu thơ đẹp, rộng lớn:
Từng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
TÀI LIỆU THAM KHẢO

×