Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Áp xe gan - đường mật pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.87 KB, 6 trang )

Áp xe gan - đường mật Sự nguy hiểm khó lường
Áp xe gan - đường mật là bệnh cảnh khá phổ biến đứng
hàng thứ hai sau áp xe gan amíp, đồng thời là một cấp
cứu về tiêu hóa, thường do sỏi mật và giun đũa chui vào
đường mật - túi mật, nhất là khi có tắc nghẽn ống mật
quản. Bệnh nhân cần được chẩn đoán sớm, điều trị kịp
thời để phòng những biến chứng có thể dẫn tới tử vong.
Tại sao bị áp xe đường
mật?
Trong điều kiện bình
thường, cơ vòng Oddi hoạt
động tốt, dòng chảy của mật
quản trong đường mật bình
thường, trong đường mật
không có vi khuẩn hoặc số
lượng rất ít không đủ gây bệnh.
Trong trường hợp có sỏi đường mật gây tắc nghẽn, ứ trệ và
tăng áp lực dịch mật tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn đi

Tổn thương gan do áp xe.
ngược dòng và xâm nhập gây nhiễm khuẩn đường mật và
cuối cùng có thể gây ra áp xe gan mật.
Trong giun chui ống mật, ngoài cơ chế cơ học như sỏi, giun
còn trực tiếp mang vi khuẩn từ đường ruột và có thể cả ký
sinh trùng vào đường mật nên càng dễ làm viêm đường mật
và áp xe mật quản.
Ngoài ra còn có các bệnh lý khác như ung thư đường mật, u
đầu tụy, bệnh lý cơ vòng Oddi. Viêm xơ chít hẹp cơ vòng
Oddi hoặc các bệnh lý hiếm gặp hơn như loét dạ dày - tá
tràng thủng vào đường mật, ung thư đại tràng, ung thư dạ
dày hoặc các thủ thuật soi chụp đường mật ngược dòng có


thể gây viêm nhiễm đường mật.
Biểu hiện của bệnh
Bệnh thường khởi phát đột ngột, tự nhiên xảy ra mà không
có một dấu hiệu nào báo trước hoặc có thể xuất hiện sau
khi ăn nhiều dầu mỡ; với các biểu hiện như đau, sốt, vàng
da, vàng mắt. Có thể kèm theo dấu hiệu tổn thương túi mật
với các biểu hiện như túi mật to, đau, tổn thương đường
mật ngoài gan, viêm ống mật chủ và triệu chứng của tụy.
Nếu không được điều trị hoặc không đáp ứng sẽ chuyển
thành giai đoạn áp xe gan mật quản thường vào tuần thứ
hai, với triệu chứng nhiễm khuẩn ngày càng nặng với sốt
cao kèm rét run. Tắc mật ngày càng nhiều với vàng da,
vàng mắt đậm. Gan to nhanh rất đau, có điểm đau khu trú
nhiều chỗ. Ngoài ra còn có thể có túi mật to, đau hoặc dấu
hiệu tổn thương ống mật chủ, tụy.
Chẩn đoán dựa vào các biểu hiện lâm sàng như trên kết hợp
với xét nghiệm máu (bạch cầu tăng cao, tăng bilirubin trực
tiếp, phosphatase kiềm tăng, GGT và men ALAT, ASAT
có thể tăng) và quan trọng là các xét nghiệm chẩn đoán
hình ảnh như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính. Ở đây siêu
âm rất có giá trị để phát hiện số lượng và vị trí các ổ áp xe
đồng thời giúp phát hiện nguyên nhân như giun, sỏi,
thương tổn các cơ quan khác như đường mật và túi mật. CT
scanner cũng cho kết quả tương tự. Chụp và nội soi đường
mật ngược dòng cũng là một nghiệm pháp có giá trị cao,
ngoài ý nghĩa chẩn đoán trong trường hợp siêu âm cho kết
quả đường mật âm tính mà còn là một biện pháp hữu hiệu
để điều trị nguyên nhân gây tắc nghẽn đường mật do sỏi
hoặc do giun.
Biến chứng của áp xe gan đường mật

Biến chứng của áp xe gan - đường mật thường nhiều và
nặng nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Biến chứng thường gặp và nặng nề nhất là nhiễm trùng
huyết với các biểu hiện như sốt cao liên tục 39 - 40oC, kèm
rét run, tình trạng nhiễm khuẩn và nhiễm độc nặng. Gan to
rất đau, tắc mật nặng không đáp ứng với điều trị.
Hội chứng gan thận do nhiễm khuẩn và tắc mật nặng, do
bilirubin máu quá cao gây tắc ống thận; Tràn dịch màng
phổi và màng tim; Viêm tụy cấp: có thể là một bệnh cảnh
đi kèm; Xơ gan mật: đây là một biến chứng lâu dài sau
nhiều đợt viêm nhiễm làm hoại tử xơ hóa gan mật; Vỡ ổ áp
xe vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể; Chảy máu
đường mật: đây là một biến chứng phối hợp do cơ học và
viêm nhiễm thường là nặng nề với nôn ra máu hình thỏi bút
chì, bệnh cảnh xuất huyết nội tạng gây choáng phối hợp
xuất huyết và nhiễm khuẩn.
Điều trị như thế nào?
Đây là bệnh cảnh nặng, ngoài nhiễm khuẩn còn kèm nhiễm
độc và biến chứng ngoại khoa, do đó cần đặt trong bối cảnh
điều trị nội ngoại khoa và hồi sức cấp cứu. Nghỉ ngơi,
truyền dịch để nuôi dưỡng và cân bằng nước và điện giải.
Dùng các thuốc giảm đau, giãn cơ trơn như nospa hay
sparmaverin. Thường sử dụng các kháng sinh có phổ tác
dụng trên vi khuẩn gram âm như quinolon thế hệ 2. Trong
trường hợp bệnh nặng cần sử dụng phối hợp kháng sinh và
dùng bằng đường tiêm, thường phối hợp thêm
cephalosporin thế hệ 3 như cefotaxim, ceftriazon hoặc
cefuroxim. Ngoài ra cần chú ý đến nhiễm các vi khuẩn kị
khí, do đó cần phối hợp thêm metronidazol hoặc
clindamycin.

Điều trị ngoại khoa khó thực hiện vì bệnh nhân đau trong
tình trạng nhiễm khuẩn nặng có thể có choáng, hơn nữa ở
đây có nhiều ổ áp xe kích thước nhỏ có thể nằm sâu khó
phát hiện hoặc loại bỏ. Nói chung phẫu thuật chủ yếu nhằm
để loại bỏ các tắc nghẽn cơ học như giun hoặc sỏi.
Để dự phòng, cần duy trì một chế độ ăn uống bảo đảm vệ
sinh, làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, định kỳ 6 tháng đến 1
năm tẩy giun một lần để hạn chế các yếu tố thuận lợi cho
bệnh lý viêm nhiễm đường mật xảy ra.
ThS. Nguyễn Bạch Đằng

×