Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Những nguyên nhân làm cho PPP và IFE không đúng trong thực tế ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.71 KB, 30 trang )

CHƯƠNG III – NHỮNG NGUYÊN NHÂN LÀM CHO PPP
và IFE KHÔNG ĐÚNG TRONG THỰC TẾ
1. Những lý do khiến cho PPP không đúng trong thực tế
Có thể nêu những lý do tại sao PPP khó xuất hiện trong thực tế như
sau:
Chi phí vận chuyện và những hạn chế mậu dich: Lý thuyết ngang
giá sức mua giả định là không có thuế và chi phí vận chuyển giữa 2
thị trường là bằng 0. Điều này có nghĩa là sẽ không có bất kỳ biểu
thuế quan nào cho hàng nhập khẩu và hàng xuất khấu. Tuy nhiên
trên thực tế, điều này lại không xảy ra. Chi phí vận chuyển có thể
làm cho hàng hóa nhập khẩu trở nên mắc hơn so với hàng hóa
trong nước. Thêm vào đó, những hàng rào mậu dịch như hạn ngạch
và thuế quan cũng là những thứ khiến cho hàng hóa nhập khẩu trở
nên đắc đỏ. Vậy, cho dù là hàng hóa nước ngoài có rẻ hơn hàng
hóa trong nước cách mấy thì khi nhập khẩu vào trong nước, với chi
phí vận chuyển và hàng rào mậu dịch phát sinh, những thứ hàng
hóa đó cuối cùng cũng sẽ có giá sấp xỉ trong nước. Điều này không
làm cho người dân trong nước mua hàng hóa nhập khẩu nhiều hơn.
Lý thuyết PPP không thể áp dụng được.
Do mức giá chênh lệch của cùng một món hàng ở cùng 1 quốc gia:
Để minh họa dễ hiểu cho điều này, tôi xin lấy một ví dụ đơn giãn:
đó là việc bạn đi ăn một tô hủ tiếu ở TP.HCM và ăn một tô hủ tiếu
ở vùng quê. Tôi không biết rõ giá cả của nó ra sao nhưng tôi có thể
nói chính xác một điều: giá của tô hủ tiếu ở TP. HCM cao hơn ở
quê (ở đây tôi giả định là bạn vào ăn ở cùng một cửa tiệm và cửa
tiệm này có 2 chi nhánh: một cái ở TP. HCM và một cái ở quê).
Tại sao lại có sự khác biệt đó? Để làm một tô hủ tiếu ở TP. HCM
ta phải tốn chi phí cao hơn, chi phí đó là bao gồm: tiền thuê mướn
nhân viên, mặt bằng, nguyên liệu, vân và vân. Do đó mặc dù là
cùng một cửa tiệm với cùng một món hàng (ở đây là tô hủ tiếu),
giá cả của nó lại chênh lệch nhau. Vậy nên lấy tô hủ tiếu ở TP.


HCM hay tô hủ tiếu ở vùng quê để bỏ vào rổ hàng hóa khi so sánh
với nước khác? Đó chính là vấn đề khiến cho lý thuyết ngang giá
sức mua gặp khó khăn. Ngay chính trong cùng quốc gia, giá cả của
cùng một món hàng cũng khác nhau.
Thông tin bất cân xứng: Ngang giá sức mua cũng dựa trên nền tảng
là thông tin hoàn hảo với mọi người, nghĩa là nhà xuất khấu sẽ biết
xuất khẩu hàng của họ đến nơi giá cao và ngược lại, nhà nhập khẩu
biết nhập khẩu hàng từ nơi có gia thấp. Tuy nhiên trên thực tế thì
thông tin không cân xứng. Liệu toàn bộ nhà xuất khẩu có biết rõ
nơi nào có giá cao để họ đưa hàng đến đó hay tất cả những nhà
nhập khẩu đều biết nơi nào đang có giá thấp để họ nhập hàng.
Thực tế chỉ có 1 số hay 1 nhóm người biết. Chính vì vậy mà ngang
giá sức mua không thiết lập.
Có sự tham gia của thị trường tiền tệ: Ở đây, để cho đơn giản, tôi
sẽ chỉ lấy ví dụ sau: lạm phát ở Việt Nam cao hơn và do đó hàng ở
Mỹ rẻ hơn. Theo tình huống này, sẽ xuất hiện 2 hình thức kinh
doanh. Hình thức thứ nhất, nhà nhập khẩu Việt Nam sẽ nhập khẩu
hàng từ Mỹ về. Do phải nhập khẩu hàng của Mỹ nên cầu USD ở
VN sẽ tăng lên. Hình thức thứ hai, do lãi suất ở Việt Nam cao hơn
nên nhà đầu tư ở Mỹ sẽ quyết định đầu tư ở Việt Nam, dẫn đến
cung USD cũng tăng lên. Vậy, rõ ràng một điều là cả cung và cầu
USD đều tăng, do đó tỷ giá hối đoái sẽ không thể xác định được
theo ngang giá sức mua. Lúc này, tùy thuộc vào mức tăng của cung
và cầu USD, độ dóc của cung và cầu USD mà tỷ giá USD/VND sẽ
thay đổi ra sao. Lý thuyết ngang giá sức mua lại một lần nữa không
thể áp dụng được trên thực tế.
Rỗ hàng hóa ở mỗi nước là khác nhau: Tùy thuộc vào điều kiện địa
lý, kinh tế, chính trị mà ở mỗi nước sẽ có mỗi rỗ hàng hóa khác
nhau. Như ta đã biết, ngang giá sức mua được thực hiện dựa trên ý
tưởng rỗ hàng hóa giống nhau giữa các nước. Nhưng thức tế, mỗi

nước lại chọn cho mình một rỗ hàng hóa khác nhau. Điều này đã
gây khó khăn khi muốn so sánh sức mua ở mỗi nước và chính nó
đã làm cho việc xác định PPP gặp khó khăn trong thực tế.
Chất lượng của cùng một món hàng ở mỗi nước là khác nhau: Tôi
nghĩ bạn sẽ không mua một chiếc máy Ipod Trung Quốc dởm dù
nó có rẻ hơn bao nhiêu đi nữa. Đó là 1 lý do khác khiến cho PPP ít
khi xuất hiện trong thực tế. Hãy tượng tượng bạn là người Mỹ, bạn
thấy 2 chiếc máy Ipod: một cái sản xuất trong nước với giá cao
hơn và một cái sản xuất ở Trung Quốc với giá rẻ hơn. Nhưng bạn
vẫn mua cái sản xuất ở Mỹ (trong nước)! Tại sao vậy? Vì Ipod sản
xuất ở Mỹ có chất lượng cao hơn. Vậy rõ ràng dù hàng nước ngoài
dù có rẻ hơn nhưng lại kém chất lượng thì cũng không thể khuyến
khích người tiêu dùng trong nước mua chúng.
Yếu tố cuối cùng – Không có hàng hóa thay thế: Lại tiếp tục lấy ví
dụ về Ipod. Tại sao ở Việt Nam, một chiếc máy nghe nhạc Ipod có
giá khá cao nhưng người ta vẫn mua nó? “Tại không ai ở Việt Nam
sản xuất máy nghe nhạc nên tôi phải mua nó về xài.” Đó là lý do
tại sao dù giá cao nhưng người trong nước vẫn tiếp tục tiêu dùng
hàng nước ngoài.
Ngoài ra, còn có thể xuất phát từ lý do chuộng hàng ngoại của
những người tiêu dùng trong nước.
Tất cả những lý do đó đã làm cho PPP khó ứng dụng trong thực tế.
2. Những lý do làm cho IFE không đúng trong thực tế
Còn những lý do nào khiến cho IFE xuất hiện trong thực tiễn?
Đầu tiên, cần phải nhắc lại rằng hiệu ứng Fisher quốc tế dựa trên 2
giả định:
• Thứ nhất, các nhà đầu tư ở các nước khác nhau đòi hỏi một tỉ
suất sinh lợi thực giống nhau.
• Thứ hai, chênh lệch lãi suất danh nghĩa giữa các quốc gia là
do chênh lệch lam phát.

Ví dụ:
Mỹ Anh
TSSL thực 2% 2%
Lạm phát 6% 3%
Ls danh
nghĩa
8% 5%
Dựa vào ví dụ trên, nếu đứng ở gốc độ người tiêu dùng: người tiêu
dùng Mỹ sẽ mua hàng hóa của Anh do chênh lệch lạm phát giữa
Anh và Mỹ, làm cho tỷ giá GBP/USD tăng giá 3%. Còn ở gốc độ
nhà đầu tư: nếu nhà đầu tư Anh đầu tư vào Mỹ thì sẽ hưởng lãi
suất 8%, cao hơn là đi đầu ở Anh (chỉ có 5%). Đến cuối kì, nhà
đầu tư Anh hưởng lãi suất 8% nhưng do đồng GBP tăng giá 3%
nên đã làm cho tỳ suất sinh lợi mà nhà đầu tư Anh nhận được chỉ
còn 5%, bằng với khi đầu tư ở Anh. Hiệu ứng Fisher quốc tế tồn
tại.
Trên thực tế thì hiệu ứng Fisher quốc tế có đúng hay không khi mà
hiệu ứng này dựa vào ngang giá sức mua. Mà trên thực tế thì
ngang giá sức mua không luôn luôn đúng. Và thêm vào đó nữa là
các nhà đầu tư trên thực tế có đòi hỏi tỷ suất sinh lợi thực có giống
nha? Điều này còn tùy thuộc vào mức độ rủi ro ở mỗi quốc gia.
Thường thì rủi ro là khác nhau ở mỗi quốc gia nên tỷ suất sinh lợi
thực trên thực tế cũng không giống nhau
Một ví dụ khác cho trường hợp tỷ suất sinh lợi thực là khác nhau:
Mỹ Anh
TSSL thực 3% 2%
Lạm phát 6% 3%
Ls danh
nghĩa
9% 5%

Trong trường hợp này chênh lệch lạm phát là 3%. Do đó, theo
ngang giá sức mua thì cuối kì, tỷ giá GBP/USD sẽ tăng lên là 3%.
Nhà đầu tư Anh khi đầu tư ở Mỹ sẽ nhận được tỷ suất sinh lợi là
9%, tuy nhiên do GBP/USD tăng 3% nên tỷ suất sinh lợi mà nhà
đầu tư Anh thực sự nhận được vào cuối kỳ là 6%. Điều này làm
cho hiệu ứng Fisher quốc tế không còn đúng nữa.
Chênh lệch lãi suất danh nghĩa giữa các quốc gia không do chênh
lệch lạm phát gây ra mà do chênh lệch tỷ suất sinh lợi thực.
Ví dụ:
Mỹ Anh
TSSL thực 3% 2%
Lạm phát 3% 3%
Lsdanh nghĩa 6% 5%
Trong trường hợp này, ngang giá sức mua không xuất hiện, nên
không có sự thay đổi tỷ giá hối đoái vào cuối kì. Vậy khi nhà đầu
tư Anh đầu tư sang Mỹ, họ sẽ nhận được đúng lãi suất danh nghĩa
là 6% (cao hơn so với Anh là 5%) mà không cần phải lo lắng gì về
sự biết động của tỷ giá.
Mặt khác, ngoài nhân tố lãi suất, tỉ giá hối đoái cũng bị ảnh hưởng
bởi nhiều nhân tố khác, như: lạm phát, lãi suất, thu nhập của người
dân, chính sách kiểm soát tỷ giá của chính phủ, sự đầu cơ của các
nhà đầu tư, kỳ vọng lãi suất tương lai của nhà đầu tư, … Các yếu
tố này cũng góp phần làm cho hiệu ứng Fisher khó lòng hiện hữu.
Chúng ta hãy lấy nhân tố chính phủ để phân tích: Mặc dù những
giả thuyết đưa ra về hiệu ứng Fisher là đúng đi chăng nữa thì liệu
trên thực tế có xảy ra như những gì chúng ta dự định nếu có sự can
thiệp của chính phủ, phải nói là đây là một nhân tố quan trọng, bởi
vì thị trường không bao giờ thiếu bàn tay của chính phủ.
Ví dụ: Mỹ Anh
TSSL thực 2% 2%

Lạm phát 6% 3%
Lsdanh nghĩa 8% 5%
Theo ngang giá sức mua: ở gốc độ người tiêu dùng Mỹ, họ sẽ mua
hàng hóa của Anh do chênh lệch lạm phát, làm cho tỷ giá
GBP/USD tăng giá 3%. Nếu như trong trường hợp này, tỉ giá
GBP/USD lại giảm thì sao, có thể chính phủ Anh muốn tăng cường
xuất khẩu và họ làm cho GBP/USD không tăng đến mức 3% bằng
cách mua USD vào. Vậy là cuối cùng không tồn tại hiệu ứng
Fisher quốc tế.
Ngoài ra, ở nhiều nước, chính phủ thường cố định tỉ giá trong một
biên độ hẹp. Khi đó, mức tỷ giá đúng là có tăng hoặc giảm, nhưng
không thể bằng mức chênh lệch lạm phát được.
KẾT LUẬN
“Hãy dẹp bỏ lý thuyết ngang giá sức mua và hiệu ứng Fisher quốc
tế đi. Nó chẳng đúng gì cả.” Ta có nên nói vậy không? Chúng tôi
nghĩ vẫn còn quá sớm để kết luận rằng PPP và IFE là sai. Thật sự
thì ngang giá sức mua và hiệu ứng Fisher quốc tế vẫn có những
điểm đúng của nó. Nguyên nhân dẫn đến việc bác bỏ chúng là vì
chúng ta đang sống trong một thị trường bất hoàn thảo. Sự bất
hoàn thảo này đã làm cho lý thuyết PPP và IFE không thể áp dụng
được. Mặc dù vậy, trong dài hạn, một vài kiểm định vẫn cho thấy 2
lý thuyết trên là đúng. Cuối cùng, chúng tôi muốn kết luận một
điều rằng: “Hãy vẫn dụng cả lý thuyết lẫn thực tiễn để tìm ra cốt
lõi của vấn đề”. PPP và IFE là 2 ví dụ điển hình của câu nói đó mà
chúng tôi muốn đưa đến cho cách bạn.
Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác
thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các
loại tiền tệ khác.

Đo lường
Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong
giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền
kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ
chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh
doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch
vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình",
gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số
giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức
giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ
lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng
của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời
điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo
kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của
nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì
giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho
mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu
vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ
số lạm phát bao gồm:
* Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên
lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong
đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ.
Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một
CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này
được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể
được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những
khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong
khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói
chung).

* Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được
mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn.
Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần
trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông
thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng
trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong
muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao
hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính
đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả
danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường
với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau
khi lạm phát đã xảy ra).
* Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất
nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh
thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể
sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là
không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây
cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất
kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin
rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh
hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày
"hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một
trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
* Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa
bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa
chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
* Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng
hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng
hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị
lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.

* Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản
phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP
danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác
định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực).
(Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức
giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng
tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân.
Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm
phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính
toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
Các loại lạm phát phân theo mức độ
Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến dưới 10
phần trăm một năm.
Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai
hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã,
nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm
đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài
sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh
đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ
lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi
người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển
sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện
thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả

tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa
chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định
nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip
Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là
cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì
cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một
trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức
sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào
tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy
hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ
tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1
lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu
cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong
những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế
chiến thứ hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các
hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp
định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện
trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự
căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú
sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã
đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số
nước Mỹ La-tinh.
Tiêu chí để xác định siêu lạm phát
(1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền;
(2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà
bằng một ngoại tệ ổn định;
(3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín
dụng là rất ngắn;
(4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ

lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.
Vai trò trong kinh tế
Các hiệu ứng tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát
(tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh
tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của
lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà
sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này
khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm
được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
Các hiệu ứng tiêu cực
Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực
thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy
vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
* Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào
người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng
với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay
làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân
hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí
mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như
thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với
không có lạm phát.
* Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên,
các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng
giá sản phẩm.
* Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn:
trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và
đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác
lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì

giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so
với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ
nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình
trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
* Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá
nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế
không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp
thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh
nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả
phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
* Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử
dụng để làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có
lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn
hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại
của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam
kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát
cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay
bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được
lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến
thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các
tác động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho
rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này
được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải.
Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua
việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ
ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm
cách chống lại loại lạm phát này.

Nguyên nhân
Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở
mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể
giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi
đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng
tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao
hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung
tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu
về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung
cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có
thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm
vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì
lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí
nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của
mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền
kinh tế cũng tăng.
Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho
người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không
thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình.
Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu
quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản

phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm
cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng
cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu.
Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như
trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền
trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu
đội lên.
Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ
vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước;
hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu
cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên
là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng
tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện
tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
Tăng trưởng cà chống lạm phat 2010 ở Việt Nam
Từ đầu năm 2010 đến nay, Việt Nam dường như phải lựa chọn:
nguy cơ lạm phát, chống lạm phát và bảo đảm tốc độ tăng trưởng.
Vấn đề của chúng ta là gì thưa ông?
Cách thức tăng trưởng của chúng ta hiện nay thiên về chiều rộng,
dựa vào vốn đầu tư là chủ yếu. Sự đóng góp của năng suất lao
động và năng suất tổng hợp đối với tăng trưởng thấp. Huy động
vốn đầu tư của VN lên tới 42-43% GDP trong khi hiệu quả đầu tư
nhìn chung là thấp và có xu hướng giảm dần.
Mục tiêu chống lạm phát và bảo đảm tăng trưởng trong dài hạn có

thể đi với nhau, song hành với nhau. Nhưng tại thời điểm hiện
nay, theo tôi, lạm phát, bất ổn định kinh tế vĩ mô hiện nay nội
sinh từ cách thức tăng trưởng. Nếu như VN tiếp tục đi theo con
đường này thì đến một vài năm nữa, có thể đi đến một ngõ cụt.
Điều đó cũng có nghĩa là nếu như không thay đổi cách thức tăng
trưởng, bất ổn kinh tế vĩ mô luôn luôn thường trực, lạm phát luôn
luôn ở mức cao. Muốn chống lạm phát thì chúng ta phải quay trở
về cái công cụ là phải nâng cao đuợc hiệu quả sử dụng đồng vốn.
Có người lập luận rằng, nếu xây thêm cầu, xây thêm cảng, xây
thêm đường, chúng ta có những khoản đầu tư lớn. Điều này về
lâu dài cũng là để cải thiện hiệu quả của nền kinh tế?
Đầu tư để mà nâng cao chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng là
một đầu tư cần thiết và để nâng cao hiệu quả nền kinh tế. Nhưng
nếu đó là đầu tư đúng hướng, đầu tư vào giải quyết đúng những
vấn đề tắc nghẽn của nền kinh tế.
Nếu đầu tư dàn trải, ở đâu cũng cầu, ở đâu cũng cảng, ở đâu cũng
sân bay, ở đâu cũng khu công nghiệp, hiệu quả của đồng vốn sẽ
giảm xuống và đồng thời, lại không giải quyết được những điểm
tắc nghẽn về cơ cấu hạ tầng đối với nền kinh tế. Đây là vấn đề
hiện VN đang mắc phải.
Đành rằng, xây cầu cảng, dù hàng năm không có ai sử dụng cũng
đóng góp tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, Tăng trưởng nêu trên là
tăng trưởng kém chất lượng, tăng trưởng không bền vững
Với cách thức tăng trưởng như trên, khối doanh nghiệp bị tác
động như thế nào?
Nếu như cứ đầu tư như vậy và đặc biệt là đầu tư Nhà nước mở
rộng như thế thì khu vực DN Nhà nước được hưởng lợi nhiều
hơn.
Trong khi nếu không giải quyết được những điểm ách tắc của nền
kinh tế, nhất là ách tắc trong cơ sở hạ tầng, vận chuyển hàng hóa,

những điểm kết nối hàng hóa của nước ta với thị trường bên
ngoài, toàn bộ nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng và khu vực kinh tế tư
nhân chịu ảnh hưởng, chịu thiệt thòi.
Thời gian vừa rồi, dư luận cũng nói rất nhiều về chính sách tiền tệ
như cung tiền, lãi suất, tỉ giá… Và thị trường thì cứ hướng vào
đó, coi đó là những thủ phạm gây ra lạm phát. Quan điểm của
Viện QLKT TW thế nào?
Quan điểm của cá nhân tôi thì cho rằng, như trên tôi đã trình bày,
bất ổn của nền kinh tế vĩ mô hiện nay nói chung và lạm phát nói
riêng là nội sinh từ cách thức tăng trưởng thiên về chiều rộng, đầu
tư nhiều mà hiệu quả thì không cao.
Do chúng ta theo đuổi mục tiêu tăng trưởng như vậy, cho nên để
đạt được điều đó phải huy động vốn nhiều: qua cả ngân sách, qua
tiền tệ, tức là chính sách tiền tệ phải mở rộng, chính sách tài khóa
cũng tương tự như thế. Đồng thời với đó, quản lí đầu tư của ta,
đặc biệt là quản lí đầu tư Nhà nước nó không được tốt, kém hiệu
quả.
Nguyên nhân cốt lõi là hiệu quả đầu tư kém, không phải chính
sách tiền tệ. Cho nên, việc xử lí chỉ thông qua chính sách tiền tệ
như hiện nay, theo tôi, nếu có tác dụng thì cũng rất ngắn hạn,
không giải quyết được vấn đề cốt lõi phát sinh ra thực trạng hiện
nay.
Giảm bội chi ngân sách bằng giảm đầu tư Nhà nước
Các nước láng giềng, những nước có trình độ tương đương với
VN có gặp phải vấn đề như trên không và họ đã xử lý như thế
nào?
Chúng ta cũng bàn nhiều và cũng đã nhìn đến kinh nghiệm các
nước trong thập kỉ 90 của thế kỉ trước dẫn tới cuộc khủng hoảng
năm 1997. Những vấn đề VN gặp phải hiện nay, các nước họ
cũng đã gặp phải. Sau khủng hoảng như thế, họ tái cơ cấu lại nền

kinh tế và nhấn mạnh đến cái hiệu quả và cái năng suất chất
lượng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Tại thời điểm hiện nay, chúng ta phải thay đổi càng sớm càng hay
việc chuyển từ thiên về tăng trưởng theo chiều rộng, sang tăng
trưởng theo chiều sâu. Và phải đặc biệt lưu ý đến việc nâng cao
được hiệu quả đầu tư Nhà nước nói chung và đầu tư của các DN
Nhà nước nói riêng.
VN cần cơ cấu lại nền kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh
của DN và tăng cường hiệu quả của đầu tư công. Viện Quản lí
kinh tế Trung ương,đã đề đạt ra những biện pháp cụ thể nào?
Tại thời điểm hiện nay, chúng tôi nghĩ rằng là phải cắt giảm bội
chi ngân sách bằng cách giảm chi, giảm đầu tư Nhà nước. Cơ cấu
lại, rà soát lại các dự án đầu tư, tập trung vốn vào những dự án
đầu tư tập trung vào cơ sở hạ tầng, giải quyết các vấn đề tắc
nghẽn của nền kinh tế.
Đầu tư như vậy sẽ phát huy ngay hiệu quả là góp phần vào nâng
cao hiệu quả đầu tư Nhà nước nói riêng và đầu tư của nền kinh tế
nói chung. Ở điểm này, việc cắt giảm đầu tư ngân sách, nâng cao
hiệu quả đầu tư công là một mũi tên bắn trúng được rất nhiều
đích. Đó là nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời bắn ra
một tín hiệu rằng đây đang là một cách thức thay đổi, thay đổi
cách thức tăng trưởng, nhấn mạnh hơn đến nâng cao hiệu quả
tăng trưởng theo chiều sâu.
Và như vậy, nó giảm áp lực đối với lạm phát đồng thời, tăng dư
lượng cho chính sách tiền tệ. Anh có thể nới lỏng chính sách tiền
tệ để mở hơn và tăng thêm vốn cho khu vực kinh tế tư nhân. Như
vậy, vừa đảm bảo được tăng trưởng lại vừa giảm được áp lực lạm
phát.
Dù sao đó vẫn là những giải pháp dài hạn, còn ở ngắn hạn thì
sao?

Hiện nay không nên chạy theo các giải pháp ngắn hạn mà là giải
pháp căn bản. Giải pháp căn bản có thể có cả tác động ngắn hạn
hay đồng thời với nó phát huy được cả tác động trung và dài hạn
tích cực.
Nếu giải pháp nào ngắn hạn mà có thể xử lí được vấn đề một vài
ba tháng, sau đó thì lạm phát, bất ổn lại quay trở lại, theo tôi,
không nên dùng. Chúng ta nên dùng những giải pháp tác động
ngắn hạn và dài hạn cùng chiều nhau, tác động tích cực đến việc
nâng cao hiệu quả đầu tư, đảm bảo tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ
mô.
Chính phủ đã từng có quyết tâm mạnh mẽ cắt giảm đầu tư công
Năm 2008, Chính phủ đưa ra rất nhiều những dự án phải cắt giảm
đầu tư nhưng dường như chưa kịp thực hiện. Sang năm 2009,
chúng ta lại phải tiếp tục giải ngân cho những dự án đó. Thậm
chí, chúng ta tiếp tục phải tìm những dự án có thể giải ngân để có
thể ứng vốn của năm sau cho dự án đó. Như vậy, chúng ta đã siết
lại, sau đó lại nới ra. Còn xu hướng hiện tại là gì, thưa ông?
Đúng là điều đáng tiếc! Vào tháng 4/2008, tôi cảm nhận một
quyết tâm cắt giảm đầu tư công hết sức mạnh mẽ. Tại thời điểm
đó, chúng tôi cũng kì vọng rằng những giải pháp như thế nó sẽ là
bước đột phá để cơ cấu lại, bố trí lại, sắp xếp lại đầu tư Nhà nước
và nâng cao hiệu quả của đầu tư Nhà nước.
Đáng tiếc rằng là sau đó thì khủng hoảng và buộc chúng ta phải
thực hiện những chính sách như trên vừa mới mô tả, và dẫn đến
những tác dụng, những tác động, những tính hữu ích. Quyết tâm
tại thời điểm tháng 4/2008 không còn nữa.
Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề đó vẫn là vấn đề thời sự và việc giảm
thâm hụt ngân sách Nhà nước, thu hẹp lại đầu tư công, bố trí lại,
sắp xếp lại đầu tư và nâng cao hiệu quả của nó có lẽ vẫn là một
trong những giải pháp căn bản, vừa tác động trực tiếp trước mắt,

vừa tác động về lâu dài là tích cực.
TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ DỰ BÁO
Số 9
5/2008
(425)
Tìm kiếm nâng cao

Quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và kiềm chế lạm phát ở
Việt Nam
In bài này
Chuyên đề: Nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí số: Tạp chí Số 9 (Số 425)
Năm xuất bản: 2008

Tình hình lạm phát trong năm 2007 và bốn tháng đầu năm 2008
đang đặt ra nhiều câu hỏi về giải pháp nào để ổn định kinh tế vĩ
mô và kiềm chế lạm phát ở mức thấp. Để góp phần giải quyết bài
toán tổng thể đó, bài viết này xin bàn sâu về mối quan hệ giữa lạm
phát với lãi suất nhằm tìm ra lời giải nhỏ trong gói giải pháp lớn
đang được tiến hành hiện nay.

Chính sách lãi suất ở nước ta trong các năm qua
Thực tế, ở Việt Nam, lãi suất cũng như tỷ giá chỉ được vận hành
với một số nét đặc trưng của thị trường từ năm 1989. Trước tình
trạng lạm phát tăng cao đến năm 1989, chúng ta đã áp dụng lãi
suất thực dương. Lãi suất danh nghĩa tiền gửi từ 0,9% đến
2,4%/tháng và lạm phát ở mức 1,9%/ tháng nên lãi suất thực
dương ở mức 2,1%/tháng. Chính nhờ giải pháp này lạm phát đã
giảm đi trông thấy. Tuy nhiên, phải thấy rằng trong thời gian này
các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên như nấm sau mưa với

tổng số hơn 7.180 đơn vị. Hàng loạt tổ chức tín dụng ở thành thị
đua nhau tăng lãi suất để huy động vốn. Cả hệ thống rơi vào
vòng xoáy tăng lãi suất để huy động vốn nhưng không để ý đến
việc cho vay ra thế nào để vừa bảo toàn vốn và vừa có lãi cao.
Bên ngoài xã hội có hiện tượng đầu tư rủi ro cao, không có sự
kiểm soát nghiêm ngặt nên kết quả nhiều đơn vị sản xuất không
trả được nợ cho các tổ chức tín dụng. Hậu quả sau đó là nhiều tổ
chức tín dụng đổ bể. Đến cuối năm 1990, số quỹ tín dụng chỉ
còn 160 đơn vị.
Sang giai đoạn 1991-1995, chúng ta đã gắn lãi suất danh nghĩa
với chỉ số giá để đảm bảo lãi suất thực dương từ năm 1992, đây
là sự tuân thủ nguyên tắc lãi suất thực dương. Trong giai đoạn
này chính sách trần và sàn lãi suất đã có tác dụng nhất định trong
thúc đẩy kinh tế phát triển và hạn chế bớt rủi ro lãi suất gây ra
như giai đoạn trước đó. Lãi suất liền gửi tiết kiệm VNĐ trong
giai đoạn 1991-1995 là rất cao: năm 1992 là 34,1%/năm, năm
1993 là 20,4%/năm, năm 1994 là 16,8%/năm và năm 1995 là
16,8%/năm trong khi tỷ lệ lạm phát trong những năm này đã
giảm đáng kể nên lãi suất thực dương năm 1992 là 16,6%, năm
1993: 15,2%, năm 1994: 2,4%, năm 1995: 4,1% .
Qua thực tế điều hành cho thấy áp dụng lãi suất thực dương là
một chính sách đúng đắn để chống lạm phát. Nhưng nếu duy trì
lãi suất thực dương quá cao sẽ đẩy đến đầu tư có thể bị sút giảm
trong đỉnh điểm của lãi suất dương và hiệu quả kinh tế có thể
giảm sút.
Nếu lấy lãi suất dương chia cho tỷ lệ lạm phát để tìm quy luật
quan hệ giữa chúng với nhau, chúng ta thấy năm 1992 tỷ lệ này
là 94,85%, năm 1993 là 292,3%, năm 1994 là 16% và năm 1995
là 32,5%. Như vậy, năm 1993 tỷ lệ lãi suất dương so với tỷ lệ
lạm phát là quá cao (292,3%) đã góp phần đưa lạm pháp từ

17,5% năm 1992 xuống 5,2% năm 1993 nhưng lại làm cho hiệu
quả sản xuất kinh doanh khó lòng đạt cao được như vậy. Năm
1994, tỷ lệ này lại giảm quá thấp chỉ bằng 16% đã nâng cao
được hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng lại có tác động không
tốt cho kiềm chế lạm phát dẫn đến tỷ lệ lạm phát lại tăng lên từ
5,2% năm 1993 lên 14,4% năm 1994.
Từ năm 1995, các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép tự
do định mức lãi suất tiền gửi với mục tiêu tăng cường sự cạnh
tranh giữa các ngân hàng trong huy động vốn. Tuy nhiên, Nhà
nước quy định mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
tiền gửi tối đa không được quá 0,35%. Như vậy thực chất các
ngân hàng vẫn phải chịu khống chế cả lãi suất tiền gửi và cho
vay, cho dù mức chênh lệch lãi suất thực tế có khác nhau giữa
các ngân hàng tuỳ thuộc cơ cấu chi phí cụ thể. Chính sách này có
lợi cho các NHTM là duy trì được mức lợi nhuận mong muốn.
Sang năm 1997-1998, chúng ta đã không xiết chặt kiểm soát mà
lại có vẻ nới lỏng chính sách lãi suất, trần lãi suất được nâng lên
để các NHTM có thể tăng lãi suất tiền gửi nhằm huy động vốn
và quy định giới hạn chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền
gửi ở mức 0,35%/tháng đã dần hết tác dụng, cuối cùng là bãi bỏ.
Hơn nữa, mặc dù trong giai đoạn 1996-2000 do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực nên nền kinh tế tăng
trưởng thấp nhưng về chính sách lãi suất chúng ta vẫn chưa cho
áp dụng hoàn toàn theo cơ chế thị trường nên lãi suất Việt Nam
đồng vẫn cao hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát. Thực tế hầu như
ba năm đầu của giai đoạn này lãi suất không thay đổi, chỉ trong
hai năm 1999, 2000 do có thiểu phát nên lãi suất đã được điều
chỉnh giảm chút ít nhưng không đáng kể. Còn xem xét mức lãi
suất thực dương thì lại không phải giảm mà tăng lên.
Tuy nhiên, nếu so với tỷ lệ lạm phát thì lãi suất dương trong thời

kỳ này đã được hạ xuống ở mức thấp hơn so với thời kỳ trước:
Năm 1996 là 5,4%, năm 1997: 6,3%, năm 1998: 1%, năm 1999:
5,35% và năm 2000 là 5,05%. Mặc dù lãi suất dương thấp như
vậy nhưng nếu chia lãi suất dương cho tỷ lệ lạm phát thì cho
thấy tỷ lệ này vẫn rất cao. Năm 1996 tỷ lệ lãi suất dương chia
cho tỷ lệ lạm phát là 120%, năm 1997 là 175%, năm 1998 là
11,6%, năm 1999 là 5350% và năm 2000 thì quá cao trên
6000%. Điều này có thể giải thích vì sao giai đoạn này thiểu
phát.
Trong giai đoạn 2001-2007, chính sách lãi suất đã từng bước
được đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường. Bước đầu lãi suất
USD đã được tự do hoá (6/2001), sau đó đến lãi suất đồng Việt
Nam được tự do hoá (6/2002). Mặc dù chính sách lãi suất được
coi là tự do hoá nhưng vẫn tồn tại lãi suất cơ bản do NHNN công
bố. Lãi suất cơ bản được áp dụng từ tháng 8 năm 2000 và được
xác định hàng tháng trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay của
15 NHTM áp dụng với khách hàng tốt nhất. Tuy nhiên, nhiều
khi lãi suất này có thể được quyết định bởi 4 NHTM nhà nước
vì thị phần tín dụng của 4 ngân hàng này chiếm trên 70% thị
trường trong nước. Để dễ tính toán và so sánh chúng tôi chọn
mức lãi suất tương đối trung bình, tức là lấy mức lãi suất tiền gửi
ba tháng.
Năm 2001, lãi suất thực dương quá cao nên đã đưa đến lạm phát
thấp (lãi suất thực dương lớn gấp 5,75 lần tỷ lệ lạm phát). Năm
2002 tình hình lãi suất thực dương có giảm xuống, chỉ lớn bằng
0,5 lần tỷ lệ lạm phát nên lạm phát đã nhích lên ở mức hợp lý
(4,0%). Năm 2007, lãi suất thực dương là âm nên tỷ lệ lạm phát
tăng cao.
Điều chú ý là năm 2004, khi tình hình kinh tế có biến động
không tốt, lạm phát có dấu hiệu tăng lên nhưng lãi suất lại không

tăng lên tương ứng do đó lãi suất thực bị âm và tỷ lệ giữa lãi suất
thực âm này so với tỷ lệ lạm phát là 34,7% thể hiện giá của đồng
tiền giảm xuống đáng kể. Hơn nữa năm 2007, lạm phát tăng cao
nên lãi suất thực dương xuống thấp.
Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những
biến động, đầu năm lãi suất lên cao. Đặc biệt là từ đầu tháng
2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến động mạnh do
các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên mức 13-
14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên
1,5%/tháng vào tháng 3 năm 2008, có nơi còn cho vay với lãi
suất xấp xỉ 20%/năm. Đây là một sự chuyển động theo tín hiệu
lãi suất thực dương. Tuy nhiên, bên cạnh người gửi tiền phấn
khởi vì lãi suất tiền gửi lên là người đi vay phải lo lắng cho việc
không thể nào chịu đựng nổi lãi suất đi vay 15-17%/năm. Các
NHTM thì vẫn sử dụng chính sách huy động lãi suất cao và cho
vay lãi suất cũng cao theo, tức là vẫn có lãi lớn trong trước mắt.
Thực tế đã có một số NHTM cổ phần với nhận thức như vậy đã
cố tình đẩy lãi suất huy động lên làm cho thị trường tiền tệ có
nhiều biến động mạnh.
Sau khi NHNN có công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008
về việc chốt trần lãi suất huy động VNĐ ở mức 12%/năm thì
ngày 24/3/2008, Hiệp hội các Ngân hàng có họp và có sự đồng
thuận về lãi suất, các NHTM mới có sự điều chỉnh lãi suất với
mức 10,5%/năm (dưới 6 tháng) và 11%/năm (trên 6 tháng). Đến
đầu tháng 4 năm 2008 lãi suất huy động VNĐ kỳ hạn 1 năm ở
mức 11,5-12%, lãi suất cho vay VNĐ ở mức16-18%/năm, lãi
suất huy động USD kỳ hạn 6 tháng đến 1 năm ở mức 6%-
6,5%/năm. Đến ngày 16/4/2008, Thủ tướng Chính phủ đã yêu
cầu NHNN bỏ trần lãi suất huy động, để thị trường tự điều tiết vì
thấy các NHTM đều huy động với lãi suất thấp hơn lãi suất trần.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy sau khi có ý kiến của Thủ tướng
Chính phủ, một vài NHTM cổ phần đã tranh thủ đẩy lãi suất huy
động lên cao hơn mức trần 12%. Việc đẩy lãi suất huy động lên
trên 12% của một vài NHTM cổ phần là nhằm thu hút được
nhiều vốn vì họ vẫn có lãi khi cho vay với lãi suất cao 18-20%.

×