Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Luận văn tốt nghiệp-cải cách kinh tế của việt nam nhật bản part4 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.71 KB, 6 trang )

19

ôtô, sắt thép, xây dựng…(Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong bối
cảnh toàn cầu hoá, Chủ biên Vũ Văn Hà, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2002).

Có thể nói rằng, kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay Nhật Bản đã và đang ở
trong một quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sâu sắc. Nền kinh tế Nhật
Bản đang chuyển dịch theo hướng giảm s
ự can thiệp của Chính phủ và tăng
cường sự cạnh tranh của một nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường, và theo
hướng một nền kinh tế mà sự tiến bộ của ký thuật thông tin đang được lan
rộng một cách nhanh chóng đem lại những khả năng cạnh tranh mới cho
các công ty trên thị trường. Trước và ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
nông nghiệp và dệt là những ngành đặc tr
ưng của cơ cấu kinh tế Nhật Bản
kiểu cũ. Trong những thập kỷ gần đây, cơ cấu kinh tế Nhật Bản lại được
đặc trưng bởi các công ty to lớn đã được thiết lập một cách vững chắc trong
nhiều ngành công nghiệp nặng (như luyện kim, chế tạo máy, và hoá chất),
hệ thống ngân hàng, và các công ty thương mại tổng hợp lớn,… Và trong
những nă
m gần đây, cơ cấu kinh tế này lại đang được chuyển đổi theo
hướng cải tổ cơ cấu và đầu tư vào kỹ thuật thông tin để có thể hoạt động có
hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã và đang được cải tổ và
nâng cấp, có rất nhiều ngành ngh
ề mới đang được hình thành trong nền
kinh tế Nhật Bản. Người ta gọi đó là “Kinh tế Nhật Bản kiểu mới”. Sự
chuyển dịch cơ cấu ngành chính là nhân tố quan trọngnhất tạo ra gương
mặt mới của nền kinh tế Nhật Bản.

2. Những thành tựu trong lĩnh vực cải cách tài chính.



Theo đánh giá chung, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản đã thu
được nh
ững kết quả bước đầu như: Vai trò và chức năng của hai cơ quan
chủ yếu trong hệ thống tài chính là Bộ Tài chính (MOF) và Ngân hàng
Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã có sự thay đổi về cơ bản với việc tăng
cường tính độc lập và quyền tự quyết của BOJ trong việc quản lý và thực
hiện chính sách tiền tệ; Luật Ngân hàng mới đã có hiệu lực và đi vào hoạt
động k
ể từ năm 1997; nhiều ngân hàng đã tiến hành việc bán những uỷ thác
đầu tư; các cơ quan tài chính đã có quyền chủ động hơn trong việc giải
20

quyết những vấn đề nảy sinh; và rất nhiều công ty kinh doanh chứng khoán
đã được thành lập và đi vào hoạt động. Việc hợp nhất, các ngân hàng nhằm
làm tăng sức mạnh tài chính và khả năng lợi nhuận đã được đẩy mạnh. Sự
thâm nhập của các ngân hàng thương mại và ngân hàng uỷ thác vào kinh
doanh bảo hiểm thông qua các chi nhánh cũng đã được thực hiện…

Sau hơn 5 năm triển khai và thực hiện, cuộ
c cải cách hệ thống tài
chính Nhật Bản bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Cuộc
cải cách này đã và đang dẫn tới những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản.
Khu vực tài chính Nhật Bản đã trở nên có sức cạnh tranh hơn, sự thâm
nhập của nước ngoài vào khu vực này cũng trở nênít khó khăn hơn, các thị
trường vố
n độc lập cũng đã được phát triển thêm một bước. Các cơ quan tài
chính Nhật Bản đã hoàn toàn được tự do trong các hoạt động của mình và
các phương tiện quản lý tài sản đã được cải thiện một cách có ý nghĩa, sự
thâm nhập lẫn nhau về công việc kinh doanh của các ngân hàng, các công

ty chứng khoán và công ty bảo hiểm, cùng với xu hướng hợp nhất các loại
cơ quan này đã được đẩy mạnh, các thị trườ
ng vốn đã được phát triển thêm
một bước, đặc biệt là mạng lưới thị trường thông qua hệ thông trao đổi
thương mại điện tử và qua Internet; Sự liên doanh, liên kết với nước ngoài
và sự thâm nhập của các công ty ài chính nước ngoài vào Nhật Bản đã
được đẩy mạnh dưới các hình thức như: FDI, mua cổ phần, tham gia trực
tiếp vào công việc quản lý của các công ty Nhật Bản và các thị trường
chứ
ng khoán ở Nhật Bản; Và chất lượng quản lý tín dụng của các cơ quan
trong hệ thống tài chính Nhật Bản đã được cải thiện rất đáng kể (Hệ thống
tài chính Nhật Bản: Những đăc trưng cơ bản và cuộc cải cách hiện nay;
chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).

II. NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP CẢI CÁCH TRONG
TỪNG LĨNH VỰC CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Mặc dù
đã từng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh
tế của Nhật Bản, đặc biệt là trong thời kỳ tăng trưởng ngoạn mục (1955 –
1973), hệ thống tài chính Nhật Bản mà trong đó các ngân hàng đóng vai trò
trung tâm, kể từ cuối thập kỷ 80 đến nay đã bộc lộ rất nhiều những yếu kém
và bất cập, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của đấ
t nước.
21

Trong suốt hơn một thập kỷ vừa qua, Chính phủ Nhật Bản đã phải thực
hiện khá nhiều chính sách và biện pháp nhằm cơ cấu lại hệ thống tài chính
thích ứng với những đòi hỏi của tình hình kinh tế trong nước và bối cảnh
quốc tế mới. Tuy nhiên, những giải pháp tình thế được thực hiện trong
những năm đầu thập kỷ 90 đã chứng tỏ r

ằng đó không phải là những
phương thuốc hữu hiệu đẻ chữa trị căn bệnh “khủng hoảng cơ cấu” kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính của Nhật Bản nói riêng. Chỉ khi chương
trình “Big Bang” do Thủ tướng Hashimoto khởi sướng và được thực hiện
kể từ tháng 11/1996, hệ thống tà chính Nhật Bản mới thực sự bước vào một
cuộc cải cách sâu sắc và toàn diện.
Đặc
điểm nổi bật của hệ thống tài chính Nhật Bản là chủ yếu dựa vào
ngân hàng nên trước hết chúng ta sẽ đi vào các chính sách, biện pháp để cải
cách ngân hàng trung ương (NHTW) và ngân hàng thương mại (NHTM).
1. Các chính sách đối với NHTW và NHTM
Hệ thống tài chính Nhật Bản, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, đã
được ca ngợi có vai trò sống còn trong phát triển kinh tế của Nhật Bản
trước những năm 1990. Rất nhiều ngân hàng Nhật Bản th
ời kỳ đó là những
ngân hàng lớn nhất trên thế giới: 9 trong số 10 ngân hàng hàng đầu thế giới
xét về quy mô tài sản là những ngân hàng Nhật Bản. Các ngân hàng này có
những quỹ tiền gửi khổng lồ, chi phí thấp và những đánh giá tín dụng cao
nhất. Chính vì thế, Nhật Bản đã thay đổi hẳn trong những năm 1990 với
những món nợ khó đòi khổng lồ của các ngân hàng, kinh tế triền miên
trong vòng suy thoái, giảm phát liên tục trong nhữ
ng năm gần đây. Vậy làm
thế nào để có thể lập lại trật tự của hệ thống tài chính để ngân hàng có thể
làm tốt vai trò trung gian tài chính của mình trong việc thu hút vốn nhàn rỗi
và cung cấp vốn cho doanh nghiệp, thực sự đáp ứng những yêu cầu mới
trong qua trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Chương trình cải cách
“Big Bang” đã đưa ra những chính sách và biện pháp tương đối toàn diện
để đổi mớ
i nguyên tắc hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức hệ thống ngân
hàng Nhật Bản.

a. Đối với NHTW
22

Như chúng ta đã biết, ngân hàng trung ương là một định chế quản lý
nhà nước về tiền tệ – tín dụng. Nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia.
Song, tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước, HNTW có thể độc
lập hay trực thuộc Chính phủ. Chẳng hạn ở Mỹ và Đức, thực hiện thể chế
NHTW độc lập với Chính phủ. Trong th
ể chế này, Chính phủ không được
can thiệp vào hoạt động của NHTW. Nhưng ở Nhật, Anh, Pháp và một số
nước khác thực hiện thể chế NHTW trực thuộc Chính phủ, Chính phủ có
ảnh hưởng quyết định đối với hoạt động của NHTW.
Khác với tính chất quản lý nhà nước của các bộ, NHTW thực hiện
việc quản lý nhà nước qua các nghiệp vụ kinh doanh có đem lại lợi nhuận.
Song, vi
ệc kinh doanh này chỉ là phương tiện nâng cao hiệu suất của công
tác quản lý, chứ không phải là mục đích của hoạt động chính của NHTW.
Mục đích hoạt động của NHTW là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế,
điều hoà lưu thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng, nhằm bảo đảm
lưu thông tiền tệ ổn định, từ đó tạo diều kiện tăng trưởng kinh t
ế, tăng việc
làm và kiềm chế lạm phát. Với 3 chức năng cơ bản là: phát hành tiền tệ,
ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng của nhà nước, NHTW đóng vai
trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế – xã hội như điều tiết
khối lượng tiền trong lưu thông, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (DOJ) ra đời vào năm 1886 theo
sáng kiến của Bộ trưở
ng Tài chính Masayoshi Matsuka. Đây là một phần
trong chương trình hiện đại hoá tài chính Nhật Bản của thời Minh Trị. Mục
tiêu là để cải cách hệ thống tiền tệ, thiết lập một đồng tiền chung trong cả

nước, tạo cơ sở cho tài chính quốc gia và thúc đẩy sự phát triển của ngân
hàng nói chung. Gần 60 năm sau Pháp lệnh BOJ được thay thế bằng một
luật NHTW mới được thực hiện trong thời kỳ Chính phủ
do giới quân sự
lắm quyền vào năm 1942. Sự sửa đổi lần đó có thêm vào quyền hạn của
NHTW trong chính sách tiền tệ, nhưng vẫn coi HNTW là một bộ phận của
Bộ Tài Chính. Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, BOJ hầu như không có sự
thay đổi. Hai sáng kiến nhằm cải cách Luật NHTW – một lần vào cuối
những năm 1950 và một lần nữa vào năm 1965 đều không đem lại kết quả
.
Vì lúc đó kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ cao nên các chính trị gia cũng
23

như công chúng thấy không quan tâm nhiều tới sự thay đổi Luật NHTW.
Điều này mới chỉ được thực sự nghĩ tới khi nền kinh tế đã như một quả
bóng căng phồng vào cuối những năm 1980 và khi bong bóng nổ thì những
tiếng kêu cứu từ những tổ chức cho vay và của công chúng buộc Chính phủ
phải có một vài hành động để thay đổi chính sách tiền tệ và hệ thống tài
chính. Một u
ỷ ban tư vấn riêng của Thủ tướng Hashimoto và báo cáo đầu
tiên được công bốvào tháng 11 năm 1996. Sau đó quá trình sửa đổi luật bắt
đầu được Uỷ ban Nghiên cứu hệ thống tài chính và Ban Cố vấn trong Bộ
Tài chính tiến hành. Tháng 2 năm 1997 dự thảo luật được nội các chấp
thuận và được 2 viện của Quốc hội thông qua vài tháng sau đó. Với tiêu đề
“Tiến tới sự độc lập của BOJ” báo cáo của Uỷ
ban Tư vấn đã tổng hợp ý
kiến của các quan chức trong BOJ và Bộ Tài chính.
Luật NHTW mới của Nhật Bản ghi rõ NHTW được độc lập trong
chính sách tiền tệ và cụ thể hoá những vấn đề thuộc phạm vi của NHTW.
Điều 1 của Luật đưa ra 2 mục tiêu của NHTW là quản lý tiền, ổn định giá

cả, và đảm bảo cung cấp vốn cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính
khác, duy trì trật tự củ
a hệ thống tài chính. Quy định này cho thấy NHTW
là trung tâm của hệ thống thanh toán cũng như là tổ chức để duy trì “trật tự
tài chính”. Điều 3 của Luật tuyên bố sẽ tôn trọng quyền tự quyết của
NHTW bằng sự độc lập trong quá trình ra quyết định và công bố nội dung
các quyết định. Luật cũng quy định chức năng và việc bổ nhiệm các chức
vụ của NHTW. Ban trị sự
của BOJ sẽ gồm: 1 thống đốc, 2 phó thống đốc, 6
thành viên được lựa chọn nằm trong Ban chính sách, 3 kiểm toán viên,6
giám đốc điều hành, và một số cố vấn. Thống đốc, 2 phó thống đốc, 6
thành viên được lựa chọn nằm trong Ban Chính sách, ban này do Nội các
chỉ định với sự đồng ý của 2 viện trong Quốc hội sẽ được ra những quyết
định quan trọng về chính sách tiền tệ và về hệ th
ống ngân hàng. Những
kiểm toán viên cũng do Nội các bổ nhiệm, nhưng các giám đốc điều hành
và các cố vấn thì do Bộ trưởng Tài chính bổ nhiệm theo sự giới thiệu của
Ban Chính sách. Luật ghi rõ 6 thành viên được lựa chọn phải là chuyên gia
kinh tế hoặc tài chính, hoặc những người có kiến thức uyên thâm về kinh tế
– xã hội để tăng cường tính minh bạch và có thể hạn chế sự can thiệp của
Bộ Tài chính. Như
vậy luật mới đã lành mạnh hoá chức năng của Ban
Chính sách tiền tệ, trong tổng số 9 người của ban thì 4 thành viên mới được
24

bổ nhiệm vào tháng 4 năm 1998 đều độc lập với Chính phủ. Trong Ban
Chính sách tiền tệ, không một thành viên nào có quyền áp đặt quan điểm
của riêng mình, mọi người đều có thể thẳng thắn nêu ý kiến. Bắt đầu từ
tháng 1 năm 1998, BOJ đã thực hiện các cuộc họp định kỳ 1 hoặc 2 lần
trong một tháng về chính sách tiền tệ, và sau 5 hoặc 6 tuần sẽ công bố công

khai nội dung các cuộc họp. Đ
ây có thể coi là một đột phá để đưa Nhật Bản
tiến đến các tiêu chuẩn quốc tế về tính minh bạch trong hoạt động ngân
hàng. Ngoài ra, trong việc quản lý nhân sự BOJ đã bãi bỏ quy chế thăng
chức tự động hàng năm, tăng cường hiệu quả nguồn nhân lực, áp dụng một
cách then trọng hệ thống thăng chức dựa vào sự đóng góp của các cá nhân
cho hoạt động của ngân hàng.
Nh
ư vậy vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức của BOJ đã có những
thay đổi đáng kể theo hướng độc lập, tự quyết chứ không phải là tổ chức
chỉ biết thực thi những mệnh lệnh của Bộ Tài chính như trước kia. Tuy
nhiên, những thay đổi này vẫn chưa thể theo kịp các đồng sự phương Tây
của họ. Có những phê phán cho rằng BOJ tuy đã được độ
c lập trong thực
thi chính sách tiền tệnhưng lại bị hạn chế trong việc quản lý tiền tệ. Khi nói
về quan hệ với Chính phủ, Điều 4 của Luật mới lại ghi “tiền mặt và quản lý
tiền tệ là một bộ phận trong chính sách kinh tế tổng thể, BOJ cần phải giữ
quan hệ mật thiết với Chính phủ và trao đổi ý kiến đầy đủ, như vậy thì
chính sách tiền tệ mới có sự hài hoà với chính sách kinh tế của Chính phủ”.
Điều này có nghĩa là BOJ phải bàn bạc với Bộ Tài chính, và nó không
giống với đồng sự của họ ở Đức hoặc ở Mỹ, các quan chức của NHTW ở 2
nước này không đựoc phép nhận xét công khai về chính sách tài chính ngay
cả khi nó không phù hợp với sự lựa chọn trong chính sách tiền tệ. Điều 37
và 38 khi nói về trường hợp cho vay khẩn cấp thì l
ại thiếu sự phân biệt giữa
việc bảo vệ hệ thống thanh toán của BOJ với sự quan tâm của Chính phủ
trong việcgiúp đỡ cho vay đối với các tổ chức. Với vai trò người cho vay
cuối cùng, về nguyên tắc BOJ chỉ cho những ngân hàng có khả năng trả nợ
được vay nhưng điều 37 của Luật lại ghi “khi các tổ chức tài chính thiếu
vốn tạm thời ngoài dự đoán do những tai nạ

n ngẫu nhiên mà không thanh
toán được” thì BOJ có thể cho vay. Ngoài ra điều 38 còn nói Bộ Tài chính
có thể yêu cầu BOJ cho vay trong những trường hợp khác như “khi thấy
cần thiết phải duy trì hệ thống theo trật tự nếu thấy tình trạng kinh doanh và

×