Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Luận văn tốt nghiệp-cải cách kinh tế của việt nam nhật bản part7 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.96 KB, 6 trang )

37

Trước tình hình suy thoái kinh tế kéo dài, đặc biệt là vấn đề tài chính
và ngân sách khó khăn, chính phủ Nhật Bản đã quyết định tăng cường các
biện pháp chính sách cải cách nhằm đem lại sự ổn định hơn cho khu vực tài
chính bằng cách tăng cường các biện pháp chính sách cải cách nhằm đem
lại sự ổn định hơn cho khu vực tài chính bằng cách tăng cường các biện
pháp đẩy nhanh sự khôi phục các chức năng tài chính trung gian, giả
i quyết
các khoản nợ khó đòi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân bổ lại các nguồn
tài lực cho các lĩnh vực tăng trưởng mới, và hiện thực hoá sự phục hồi của
các nghành tàu chính và công nghiệp Nhật Bản. Chính phủ của Thủ tướng
Koizumi sẽ tiếp tục chương trình cải cách cơ cấu một cách toàn diện dưới
khẩu hiệu “Không có tăng trưởng n
ếu không có cải cách”.
Nhằm lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản, Chính phủ Nhật
Bản cho rằng cần phải tiến hành tất cả những biện phápchính sách có thể.
Hiện nay, Chính phủ đã và đang đẩy mạnh cải cách cơ cấu thông qua 4 trụ
cột chính là: cải cách hệ thống tài chính, cải cách thuế, cải cách sự can
thiệp của Chính phủ, cải cách cơ cấu chi tiêu củ
a Chính phủ, nhằm đẩy
mạnh những cố gắng theo hướng lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản,
và nhằm hiện thực hoá sự tăng trưởng bền vững dựa vào cầu của khu vực
tư nhân trong khi khắc phục sự giảm phát. Chính phủ Nhật Bản cũng đã và
đang thực hiện mọi biện pháp có thể nhằm tạo thêm việc làm và mạng lướ
i
an toàn cho các xí nghiệp vừa và nhỏ, phân cấp mạnh mẽ cho các chính
quyền địa phương trong việc giải quyết các khoản nợ khó đòi. Sau đây là
nội dung cụ thể của các chính sách và biện pháp cải cách trong lĩnh vực
kinh tế hiện nay.
1. Cải cách hệ thống tài chính


Đây được coi là lĩnh vực nóng bổng và kho khăn nhất của các cuộc
cải cách hiện nay. Trong lĩnh vực này, Chính phủ Nhật Bản chủ trương:
Cần phải giải quyết ngay vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng chủ yếu
nhằm lấy lại lòng tin cho hệ thống tài chính Nhật Bản và sự quản lý tài
chính cũng như tạo ra một thị trường tài chính được thế giới đánh cao;
Chính phủ đặt mục tiêu giải quyết một bước vấn đề nợ khó đòi vào cuối
năm tài chính 2004 bằng cách giảm một nửa tỷ l
ệ các khoản cho vay không
38

hoạt động của các ngân hàng chủ yếu, và chủ trương tạo ra một hệ thống tài
chính mạnh hơn có thể hỗ trợ cho cải cách cơ cấu; Nhằm xây dựng một
khung khổ mới cho việc quản lý tài chính và tạo thuận lợi cho cải cách cơ
cấu, Chính phủ sẽ tiến hành 3 biện pháp chủ yếu là: Thắt chặt việc đánh giá
tài sản; đảm bảo sự dủ vốn; và t
ăng cường công tác quản lý.
2. Cải cách thuế
Chính phủ sẽ xúc tiến cải cách thuế một cách toàn diện và mạnh mẽ
nhằm làm cho hệ thống thuế thích hợp nhất với tình hình của thế kỷ XXI.
Cuộc cải cách này cũng nhằm tạo ra một hệ thống thuế gọn nhẹ và đơn
giản. Hiện nay các chính sách cải cách thuế đang trong quá trình xem xét
dựa trên cơ sở 6 điểm chính sau đây:
Dành
ưu tiên cao nhất cho sự phục hồi nền kinh tế Nhật Bản
Tính toán đầy đủ đến những đặc trưng và khả năng của mỗi cá nhân
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với cải cách chi tiêu của Chính phủ
Thực hiện cải cách thuế phù hợp với cải cách hệ thống đảm bảo xã
hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với giảm sự can thiệp của Chính phủ

và cải cách tài chính ở các đia phương
Chia sẻ gánh nặng một cách công bằng cho tất cả các cá nhân và các
công ty, có tính đến các nhóm thu nhập thấp khi thật sự cần thiết.
3. Cải cách sự can thiệp của Chính phủ
Về vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản chủ trương: Thực hiện giảm hơn
nữa s
ự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm phát huy đến mức tối
đa khả năngcủa khu vực tư nhân và mở rộng kinh doanh tư nhân; Thực
hiện các “Đặc khu dành cho cải cách cơ cấu”. Điều này đã cho phép các
chính quyền địa phương hoặc các hãng tư nhân áp dụng và tận hưởng sự
miễn trừ đặc biệt của Chính phủ, dựa trên cơ sở những đóng góp của
địa
39

phương. Đặc khu cải cách cơ cấu có ý nghĩa quan trọng bởi vì các thực thể
địa phương ở khu vực đó có thể xúc tiến cải cách cơ cấu trên cơ sở sáng
kiến của chính họ.
4. Cải cách chi tiêu của Chính phủ
Cải cách chi tiêu Chính phủ là sự cần thiết tất yếu cho việc lấy lại
sinh khí cho nền kinh tế và giải quyết tình trạng thâm hụt lớn trong ngân
sách. Nói một cách cụ thể
hơn, Chính phủ Nhật Bản đã và đangthwcj hiện
4 biện pháp chủ yếu là: Xem xét lại sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội theo
quan điểm phân bổ một cách có trọng điểm và hiệu quả nguồn vốn đầu tư
công cộng; Thiết lập một hệ thống bền vững dựa trên cơ sở: Cải cách hệ
thống đảm bảo xã hội phù h
ợp với sự thay đổi xã hội, như “Xã hội của
những người cống hiến suốt đời” hoặc “Xã hội không phân biệt giới tính”;
bình đẳng giữa các thế hệ; và cân đối giữa nghĩa vụ và quyền lợi; Thực
hiện mạnh mẽ và toàn diện các cuộc cải cách tài chính và phân cấp cho các

chính quyền địa phương nhằm giảm sựcan thiệp của Chính phủ trung ương
vào các vấn đề
địa phương, cũng như mở rộng quyền và nghĩa vụ của các
chính quyền địa phương; Cải cách một cách toàn diện ngành lương thực;
đồng thời tăng cường năng suất và hiệu quả của khu vực công cộng thông
qua các nguồn lựcbên ngoài và sáng kiến tài chính tư nhân; Thực hiện khẩu
hiệu “Từ công cộng chuyển sang tư nhân”.
Tóm lại, quá trình cải cách kinh tế Nhật Bản đã, đang và sẽ
vẫn còn
tiếp tục được thực hiện. Những thành công bước đầu của cuộc cải cách này
là rất đáng khích lệ, song bên cạnh đó cũng còn tồn tại không ít khó khăn
và bất cập mà hệ thống kinh tế Nhật Bản vẫn đang và sẽ tiếp tục phải
đương đầu. Tương lai của hệ thống này sẽ ra sao vẫn còn là một điều bí ẩn.
Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng
định rằng, hệ thống này đã có những sự
thay đổi cho dù rất chậm chạp và sẽ còn tiếp tục được cải cách theo hướng
một nền kinh tế thị trường mở theo kiểu phương Tây hiện nay – lấy thị
trường vốn và cạnh tranh tự do làm động lực chính cho sự phát triển của
nó.

40

CHƯƠNG III. QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM –
NHẬT BẢN
I. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Như chúng ta đã biết, mục tiêu tổng quát phát triển KT-XH Việt
Nam đến năm 2010 đã được khẳng định trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 10 năm thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: "Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân tạ
o nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con
người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị th
ế nước ta trên thị
trường quốc tế được nâng cao", với mục tiêu kinh tế cụ thể là:
- Đưa GDP năm 2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 với nhịp độ tăng
GDP bình quân 7,5%/năm.
- GDP bình quân đầu người đạt 700 - 750 USD.
- Nhịp dộ tăng xuất khẩu gấp 2 lần nhịp độ tăng GDP (15%/năm).
Để thực hiện được mục tiêu trên Đảng ta coi công nghiệp hoá, hi
ện
đại hoá đất nước là nhiện vụ quan trọng hàng đầu. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. “Gắn chặt xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Đại hộ
i lần thứ IX
của Đảng nhận định “toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan”, và
nền kinh tế độc lập tự chủ không đối lập với việc mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại mà lại là điều kiện quan trọng để nước ta chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, có khả năng đón bắt thời cơ do toàn cầ
u hoá và khu vực hoá
kinh tế mang lại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để
phát triển đất nước.
41

Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước là những

đổi mới về tư duy, lý luận, thực tiễn của Đảng ta nhằm huy động mọi
nguồn lực cho phát triển đất nước được thể hiện tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI. Đại hội VI đã khẳ
ng định trong thời kỳ quá độ lâu dài đi lên chủ
nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm:
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (kinh tế nhà nước và hợp tác xã) và
thành phần kinh tế khác (sản xuất nhỏ hàng hoá, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước với các hình thức khác nhau), mở đường cho việc
thu hút nguồn vốn FDI.
Đại hội Đảng toàn qu
ốc lần thứ VI Đảng ta đã đưa ra chủ trương:
"Mở rộng kinh tế với nước ngoài và thiết lập trật tự, kỷ cương trong mọi
hoạt động kinh tế, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác sản xuất
với Liên Xô, Lào, Cămpuchia và các nước xã hội chủ nghĩa khác, từng
bước phát triển quan hệ kinh tế với một số nước khác, thu hút vốn và kỹ
thuật c
ủa nước ngoài bằng nhiều hình thức: hợp tác sản xuất, gia công,
nhận thầu dịch vụ, hợp doanh, đầu tư toàn bộ, vay vốn dài hạn", "chúng ta
cần mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước đang phát triển, với một số
nước hoặc tổ chức tư nhân trong thế giới tư bản chủ nghĩa".
Bằng những khẳng định và cam kết, Nhà nước ta đ
ã thừa nhận và
đảm bảo bằng pháp luật sự tồn tại và quyền lợi của một thành phần kinh tế
mới, đó là kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước, mở ra một
hướng mới cho hợp tác kinh tế quốc tế, khai thông mọi nguốn vốn đầu tư
quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đưa đấ
t
nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài không chỉ là phương thức
chính để thu hút vốn đầu tư bên ngoài mà còn là con đường thích hợp để

tiếp nhận công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở lối đi vào
thị trường khu vực và thị trường thế giới, thúc đẩy xuất khẩu, tăng nă
ng lực
cạnh tranh, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi
của tình hình quốc tế, khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh trong
từng thời kỳ phát triển". Với phương hướng: "Cần tích cực cải thiện hơn
42

nữa môi trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên
doanh với nước ngoài có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn
vốn đầu tư, chú trọng phát triển các mối quan hệ hợp tác với các công ty đa
quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập nền
kinh tế khu vực và thế giới; ưu tiên cho đầu tư tr
ực tiệp, nhất là từ những
công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có tầm cỡ thế giới để tranh thủ chuyển
giao công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý, điều hành tiên tiến, mở lối thâm
nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996), Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “Chúng ta chủ trương xây dựng một n
ền kinh tế mở, đa
phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất
chưa có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế để tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá Phát triển rộng rãi các hình thức kinh
tế tư bản Nhà nuớc; áp d
ụng nhiều phương thức hợp tác, liên doanh giữa
Nhà nước với các nhà tư bản trong nước và các công ty tư bản nước ngoài.
Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có
hiệu quả vốn đầu tư.
II. CÁC QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ

VIỆT NAM – NHẬT BẢN
Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, việc mởi rộng hợp tác nói
chung, hợp tác kinh tế nói riêng là nhu cầu t
ất yếu với mọi quốc gia. Tuy
nhiên, mỗi quốc gia phải xuất phát từ thế và lực của mình mà có quan điểm
hợp tác phù hợp với từng đối tác cụ thể. Việt Nam đang trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất cần vốn, kỹ thuật và công nghệ
quản lý… Có thể giải quyết nhu cầu đó qua tham gia mở rộng hợp tác quốc
tế, mà Nhật Bản là m
ột đối tác chủ yếu. Việc xác định quan điểm hợp tác
với Nhật Bản, từ đó có những giải pháp cụ thể để tận dụng tốt nhất thế
mạnh, cơ hội từ Nhật Bản là rất có ý nghĩa.
1. Nhu cầu mở rộng hơn nữa hợp tác tương hỗ giữa Nhật Bản và Việt
Nam trong tình hình hiện nay

×