Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Những vấn đề cơ bản của triết học ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.85 KB, 5 trang )

àn thêm về vấn đề cơ bản của
triết học
Vũ Tình
Tạp chí Triết học
08:15' AM - Thứ bảy, 07/10/2006
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là một trong những yêu cầu
quan trọng hàng đầu của việc tìm hiểu triết học nói chung và tìm
hiểu một học thuyết triết học nào đó nói riêng.
Trong nhiều năm, các giáo trình triết học Mác - Lênin ở nước ta, về
cơ bản, đều khẳng định: Vấn đề cơ bản của triết học là "mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức". Gần đây, giáo trình về môn học này của
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh viết: "Quan hệ
giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật, giữa ý thức và vật chất, trở
thành vấn đề lớn và là vấn đề cơ bản của triết học".
Hiện nay, cách giải thích tại sao "mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức" hay “quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật, giữa ý
thức và vật chất" lại là vấn đề cơ bản của triết học cũng khác nhau.
Có giáo trình viết: Trong thế giới cố vô vàn hiện tượng, nhưng
chung quy chúng chỉ phân thành hai loại, một là những hiện tượng
vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là những hiện tượng tinh thần (ý
thức, tư duy). Do đó vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
giữa tồn tại và tư duy là vấn đề cơ bản của triết học". Lại có giáo
trình cho rằng: Vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý
thức và vật chất được gọi là vấn đề cơ bản hay vấn đề tối cao của
triết học vì giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải
quyết các vấn đề khác của triết học".
Hiện tượng này cũng xảy ra tương tự khi đề cập đến nội dung vấn
đề cơ bản của triết học. Thí dụ: "Vấn đề cơ bản của triết học có hai
mặt. Mặt thứ nhất giải quyết vấn đề giữa vật chất và ý thức cái nào
có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào Mặt thứ hai


vấn đề cơ bản của triết học giải quyết vấn đề khả năng nhận thức
của con người”, "Khi nghiên cứu các hệ thống, các trường phái triết
học, chủ nghĩa Mác cho rằng, vấn đề quan trọng hàng đầu là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và thế giới tự nhiên,
cái nào có trước, cái nào có sau…”
Thông tin liên quan:
Giới thiệu sách “Câu
chuyện triết học”
10/11/2010
Khái niệm triết học tại Sài
Gòn trước 1975
17/07/2010
Cần biết và cần nghĩ
24/06/2010
Liệu triết học có phải là
khoa học không?
28/04/2010
Diễn từ tại lễ trao giải
thưởng Văn hóa Phan
Châu Trinh
27/03/2010
Tiếu lâm và triết học
03/03/2010
Người ta cần triết học để
làm gì?
17/11/2009
M.Heidegger với "tồn tại
và thời gian"
12/11/2009
Triết học là gì, triết học

khởi đầu ra sao?
12/03/2009
Thế giới quan – chiếc la
bàn định hướng cuộc sống
27/12/2007
Thế nào là một bài viết có
tính triết học?
26/07/2007
Triết học trong “thế giới
phẳng”
23/07/2007
Tiếp tục đổi mới nghiên
cứu và giảng dạy triết học
ở nước ta
18/04/2007
Triết học là gì?
16/03/2007
“Trà dư tửu hậu” và triết
học
03/02/2007
xem tất cả
Là những tài liệu để giảng dạy, học tập, các giáo trình triết học Mác - Lênin ở nước ta hiện nay
tuy có sự thống nhất về tư tưởng và đều xuất phát từ các tác phẩm kinh điển, nhưng trong trường
hợp này, lại có sự lý giải ít nhiều khác nhau, đã gây ra những lúng túng nhất định không chỉ đối
với người học (đặc biệt là đối với đối tượng lấy tự học là chính), mà còn đối với cả người dạy và
người tham khảo. Vì vậy, việc trao đổi thêm những nội dung trên nhằm góp phần tìm cách diễn
giải sao cho rõ để không chỉ phản ánh đúng đắn quan điểm từ kinh điển của triết học Mác -
Lênin, mà còn phù hợp với sự phát triển của dân trí đương thời là điều cần thiết.
Theo chúng tôi, trước khi đi vào nội dung cụ thể vấn đề cơ bản của triết học, phải làm sáng tỏ
vấn đề cơ bản của các khoa học nói chung và của triết học nói riêng là gì?

Ngành khoa học nào cũng phải nghiên cứu hàng loạt vấn đề. Tất cả những vấn đề đó tạo nên hệ
chống các vấn đề (hay hệ vấn đề) thuộc đối tượng nghiên cứu của ngành khoa học đó. Vị trí, vai
trò của các vấn đề trong hệ vấn đề không giống nhau. Có vấn đề chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Có vấn
đề đóng vai trò quan trọng. Lại có vấn đề đóng vai trò cực kỳ quan trọng, quan trọng đến mức nó
đóng vai trò là nền tảng, định hướng cho ngành khoa học ấy giải quyết những nội dung còn lại.
Đấy chính là vấn đề cơ bản của một ngành khoa học.
Triết học cũng vậy. Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới,
về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy, triết học có hệ vấn đề của mình. Trong hệ vấn
đề ấy, có vân đề đóng vai trò là nền tảng, định hướng để giải quyết những vấn đề khác. Theo
chúng tôi, đây là cơ sở quan trọng nhất để xác định vấn đề cơ bản của triết học.
Về nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen viết:
"Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư
duy và tồn tại”. Trong tác phẩm này và một số tác phẩm khác, khi nói về vấn đề cơ bản của triết
học, Ph.Ăngghen không định nghĩa tư duy là gì, tồn lại là gì mà chỉ nêu một số khái niệm khác
tương tự như tinh thần, tự nhiên, vì vậy dễ dẫn đến cách giải thích quan hệ giữa "tư duy và tồn
tại", "tinh thần và tự nhiên" của Ph.Ăngghen là quan hệ giữa "ý thức và vật chất" hoặc quan hệ
giữa "vật chất và ý thức".
Chúng ta biết rằng, ngay sau khi nêu quan điểm "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại", Ph.Ăngghen viết tiếp:
“Ngay từ thời hết sức xa xưa, khi con người hoàn toàn chưa biết gì về cấu tạo thân thể của họ và
chưa biết giải thích những điều thấy trong mơ, họ đã đi đến chỗ quan niệm rằng tư duy và cảm
giác của họ không phải là hoạt động của chính thân thể họ (TG nhấn mạnh) mà là hoạt động của
một linh hồn đặc biệt nào đó cư trú trong thân thể và rời bỏ thân thể họ khi họ chết, ngay từ thuở
đó, họ đã phải suy nghĩ về quan hệ giữa linh hồn ấy với thế giới bên ngoài" Do đó, vấn đề quan
hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần với tự nhiên, một vấn đề tối cao của toàn bộ triết học,
cũng hoàn toàn giống như bất cứ tôn giáo nào, đều có gốc rễ trong các quan niệm thiển cận và
ngu dốt của thời kỳ mông muội (TG nhấn mạnh ). Vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, một
vấn đề đã đóng một vai trò lớn lao trong triết học kinh viện thời trung cổ, vấn đề xem cái nào có
trước, tinh thần hay tự nhiên? vấn đề đó bất chấp giáo hội, lại mang một hình thức gay gắt: thế

giới do Chúa Trời sáng tạo ra, hay nó vẫn tồn tại từ trước đến nay (TG nhấn mạnh).
Cách giải đáp vấn đề ấy đá chia các nhà triết học thành hai phe lớn. Những người quả quyết rằng
tinh thần có trước tự nhiên, và do đó rút cục lại thừa nhận rằng thế giới được sáng tạo ra bằng
cách nào đó những người đó là thuộc phe chủ nghĩa duy tâm. Còn những người cho rằng tự
nhiên là cái có được thì thuộc các học phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
Như vậy, trong quan hệ "giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần với tự nhiên" thì khái niệm tư duy,
tinh thần mà Ph.Ăngghen sử dụng nên giải thích như thế nào cho rõ? Có nên không khi chúng ta
cho rằng: " một là những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là những hiện tượng tinh
thần (ý thức, tư duy)", hoặc " mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý thức và vật chất được
gọi là vấn đề cơ bản của triết học". Mặc dù phần nói về chủ nghĩa duy tâm khách quan có giải
thích về khái niệm tinh chần, nhưng ngay từ đầu, cách trình bày trên đã làm cho người tìm hiểu
vấn đề cơ bản của triết học và cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm đồng
nhất nội dung khái niệm tư duy, tinh thần với nội dung khái niệm ý thức, tinh thần mà xã hội
đang sử đụng (ý thức, tinh thần là ý thức, tinh thần của con người). Sự đồng nhất này không
đúng, vì khái niệm tư duy, tinh thần mà Ph.Ăngghen sử dụng ở đây chỉ muốn đề cập đến cái phi
vật chất, cái không phải là vật chất.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều thừa nhận sự tồn tại của cái phi vật chất. Với chủ
nghĩa duy vật, đấy là ý thức, tinh thần, sản phẩm của vật chất, cái phản ánh vật chất, cái bị vật
chất quyết định cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Với chủ nghĩa duy tâm, đấy là thực thể
siêu tự nhiên (không có nguồn gốc từ tự nhiên, không phải là cái phản ánh tự nhiên), thế giới vật
chất là sản phẩm thuần trí của thực thể siêu tự nhiên này nên thế giới vật chất không có thực chất
của nó.
Theo quan điểm truyền thống, chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái, chủ nghĩa duy tâm khách
quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan, trong đó chủ nghĩa duy tâm chủ quan gắn liền với tên tuổi
của triết gia - Giáo sĩ người Anh Giogiơ Béccơly (George Berkeley). Chúng ta biết rằng, vào thế
kỷ XVII, Giogiơ Béccơly đã biện minh cho chủ nghĩa duy tâm dưới hình thức mới bằng cách
dựa trên những tiền đề hơi khác so với các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm truyền thống. Đấy
là vạn vật quanh ta là các khái niệm trong ý thức của ta (Béccơly và những người sau ông nói
nhiều và nhấn mạnh ý này) song tất cả (cả ta và ý thức của ta) đều có nguồn gốc từ cái thuần trí
của giới siêu tự nhiên, bị cái thuần trí của giới siêu tự nhiên quyết định. (Cuộc đối thoại thứ nhất

và cuộc đối thoại thứ hai đặc biệt là đoạn kết trong cuộc đối thoại thứ hai giữa Philông
( Philonnus) và Hylaxơ (Hylas) của Béccơly phản ánh rất rõ tư tưởng này).
Vì vậy nếu chỉ dừng lại ở quan niệm chủ nghĩa duy tâm nhủ quan cho rằng ý thức của con người
của chủ thể là cái tồn cài sẵn trong con người, là cái có trước, còn các sự vật bên ngoài chỉ là
phức hợp các cảm giác, chỉ là cái phụ thuộc vào ý thức chủ thể thì chưa đủ. Chúng tôi cho rằng
khi tuyệt đối hoá vai trò của ý thức con người (ý thức của chủ thể), coi sự vật là ,,phức hợp các
cảm giũa, thì không có nghĩa chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại do nguồn gốc này
hay nguồn gốc khác, dưới hình thức này hay hình thức khác của sự vật, mà ở đây chủ nghĩa duy
tâm chủ quan đã tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, của ý thức ở góc độ nhận thức luận. Hơn
nữa, sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm chủ quan là một trong những biểu hiện sự bế tắc, sự truy
tìm lối thoát về mặt lý luận của chủ nghĩa duy tâm. Về bản chất, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
không phủ nhận sự tồn tại của thế giới siêu tự nhiên, phi vật chất, vì vậy, có thể được không khi
hiểu: chủ nghĩa duy tâm không chia thành hai phái, mà chủ nghĩa duy tâm chủ quan hay chủ
nghĩa duy tâm khách quan chỉ là những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Những vấn đề trên không phải được rút ra từ câu chữ, từ lý luận thuần tuý, mà quan trọng hơn, từ
nhu cầu của cuộc sống hiện thực. Cho đến nay, không phải chỉ những người thuộc chủ nghĩa duy
vật hay những người có học vấn cao mới hiểu tinh thần, ý thức là của con người, mà đấy thuộc
loại kiến thức phổ thông, bất cứ ai cũng biết. Chính vì vậy không ít người, đặc biệt đặc biệt là
giáo dân của các tôn giáo hữu thần, tuy không thừa nhận "tinh thần", "ý thức" kể cả cái gọi là "ý
thức khách quan" là cái có trước, là cái quyết định giới tự nhiên, song họ lại rất tin tưởng ở một
thế giới siêu tự nhiên, phi vật chất tồn tại với tư cách là lực lượng sáng tạo . Ngay cả các nhà duy
vật, thậm chí các nhà khoa học duy vật, cũng có lúc này, lúc khác rơi vào quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm (thường là duy tâm chủ quan), thì, kể cả những lúc duy tâm nhất cũng không ai
quan niệm "tinh thần", "ý thức" của con người có trước tự nhiên, không ai quan niệm sự vật là
"phức hợp các cảm giác" xét dưới góc độ bản thể luận.
Về bản chất vấn đề cơ bàn của triết học
Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề giữa tư duy và
tồn tại, song do "tư duy" được các trường phái triết học quan niệm khác nhau nên bản chất vấn
đề cơ bản của triết học cũng được hiểu khác nhau.
Với chủ nghĩa duy tâm khách quan, đấy là mối quan hệ giữa giới siêu tự nhiên, phi vật chất tồn

tại dưới những tên gọi khác nhau với giới tự nhiên, con người và xã hội loài người.
Với chủ nghĩa duy tâm chủ quan, đấy là mối quan hệ giữa toàn bộ những biểu hiện của tinh thần,
ý thức con người như ý chí, tình cảm, tri thức… với hiện thực.
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng thì:
“ Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại" thường được lý giải trực tiếp là "mối quan hệ giữa ý thức
và vật chất".
Thực ra, khái niệm "tư duy” có ngoại diên hẹp hơn khái niệm "ý thức” còn khái niệm "tồn tại" lại
có ngoại điên rộng hơn khái niệm “vật chất". Vì vậy, chỉ trong trường hợp này và chỉ trong
những trường hợp tương tự như thế này thì mới có thể đồng nhất "tư duy”, với "ý thức", "tồn tại"
với "vật chất", còn trong nhưng trường hợp khác thì nội dung của những khái niệm đó phải được
phân biệt rõ ràng, nhất là khi đề cập đến các vấn đề bản chất của thế giới, tính thống nhất vật
chất của thế giới và lý luận nhận thức.
Cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa
duy tâm. Song, theo Ph.Ăngghen, lúc đầu [và chỉ lúc đầu (TG nhấn mạnh), cơ sở của sự phân
biệt đó chỉ là ở việc thừa nhận hay không thừa nhận tự nhiên là cái có trước và do đó, không thửa
nhận hay thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới. Điều này cho thấy, quan hệ trước sau không phải là
cơ sở quan trọng hàng đầu, cũng không phải là cơ sở duy nhất để xác định duy vật hay duy tâm
trong khi giải quyết những vấn đề mà triết học đặt ra, mà quan trọng hơn, phải xét xem vai trò
quyết định thuộc về nhân tố nào thuộc về vật chất hay ý thức. Chẳng hạn, vấn đề cơ bản của triết
học trong lĩnh vực xã hội là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đấy là mối quan hệ
giữa những nhân tố vật chất mà những biểu hiện cơ bản của nó là hoàn cảnh địa lý, dân số và
phương thức sản xuất với nhưng nhân tố tinh thần được biểu hiện qua ý thức của những con
người cụ thể, hình thành nên tâm lý xã hội, hệ tư tưởng với hai cấp độ ý thức sinh hoạt đời
thường và ý thức lý luận. Trong mối quan hệ này, tồn tại xã hội không thể có trước, ý thức xã hội
không thể có sau, mà sự ra đời của tồn tại xã hội và ý thức xã hội là đồng thời. Tính chất duy vật
ở đây chỉ được bộc lộ khi thừa nhận ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội, là cá i bị tồn tại
xã hội quyết định.
Tương tự, gọi là duy âm chủ quan với những biểu hiện của nó như chủ quan duy ý chí chủ quan
duy tình cảm, chủ quan duy tri thức… không có nghĩa là quan niệm những yếu tố thuộc ý thức
này là cái có trước, mà chỉ là quan niệm cho rằng những yếu tố này (ý chí, tình cảm, tri thức… )

có thể quyết định sự thành công hay thất bại của con người (xem nhẹ hoàn cảnh khách quan).
Ranh giới giữa ý thức và vật chất vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối của
ranh giới này được giới hạn ở góc độ nhận thức luận cơ bản, đó là sự thừa nhận tính thứ nhất của
vật chất, tính thứ hai của ý thức. Ngoài giới hạn ấy, khi khẳng định nguồn gốc vật chất của ý
thức, khẳng định khả năng ý thức được vật chất hoá thông qua hoạt động của con người thì chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã thừa nhận tính tương đối của ranh giới này.
Mặt khác, nói đến ý thức là nói đến ý thức của con người, nói đến vật chất là nói đến giới tự
nhiên, thế giới vật chất, nên bản chất mối quan hệ giữa ý chức và vật chất là mối quan hệ giữa
con người với giới tự nhiên mà con người đang sống trong đó. Ở đây, hai mặt trong vấn đề cơ
bản của triết học được chủ nghĩa duy vật biện chứng đặt ra rất rõ ràng, và chủng có mối quan hệ
rất mật thiết với nhau:
Mặt thứ nhất: Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì vị trí, vai trò của con
người đối với giới tự nhiên như thế nào?
Mặt thứ hai: Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì khả năng nhận thức của con
người về giới tự nhiên ra sao?
Đây là một trong những cách hướng đến triết học ứng dụng - triết học đặt ra và định hướng giải
quyết những nội dung không chỉ liên quan đến những vấn đề chung nhất có tính toàn cầu như
môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, chiến tranh, hoà bình, lương thực, nhà ở… mà còn
liên quan đến cả những vấn đề do cuộc sống nghề nghiệp, cuộc sống đời thường của mỗi cá
nhân, mỗi cộng đồng đặt ra.
Vân đề cơ bản của triết học đã, đang và chắc chắn sẽ còn nhiều quan điểm khác nhau. Một vài ý
kiến trên chỉ để các bạn đồng nghiệp tham khảo với mong muốn góp phần làm cho việc học tập,
nghiên cứu, giảng dạy, truyền bá triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng đạt hiệu quả
hơn.

×