Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Những Điều Cần Biết Về Multiple Myeloma pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.81 KB, 22 trang )

Những Điều Cần Biết Về
Multiple Myeloma

Bác sĩ Trần Lý Lê, Chuyên Khoa Nội Thương và Khảo Cứu Ung
Thư
Tài liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ
Multiple Myeloma là một loại ung thư bắt nguồn từ plasma cell, một
loại tế bào bạch cầu, còn có tên là plasma cell myeloma. Mỗi năm taị Hoa
Kỳ có khoảng 20 ngàn bệnh nhân mới.
Mọi tế bào máu bắt nguồn từ những tế bào trong tủy gọi là tế bào gốc
(stem cells). Tủy nằm tại trung tâm của các xương trong cơ thể.
Tế bào gốc trưởng thành (mature) và trở nên những loại tế bào máu
khác nhau, mỗi loại tế bào máu làm một công việc đặc biệt:
- Bạch cầu: giúp cơ thể chống lại sự nhiễm trùng. Có nhiều loại bạch
cầu.
- Hồng cầu: đưa dưỡng khí (oxy) đến mọi mô trong cơ thể.
- Tiểu cầu: giúp máu đông khi chảy máu.
Tế bào Plasma là một loại bạch cầu tạo ra kháng thể (kháng tố,
antibody). Kháng thể là thành phần chính trong hệ đề kháng (immune
system) giúp cơ thể chống lại bệnh tật. Mỗi loại tế bào plasma tiết ra một thứ
kháng thể khác nhau.
Tế bào Myeloma
Myeloma, như những loại ung thư khác, xuất phát từ tế bào. Bình
thường, tế bào sinh trưởng, tạo ra tế bào mới khi cần thiết. Khi tế bào già
lão, chết, và được thay thế bởi tế bào mới. Sự tuần hoàn có thứ tự này thay
đổi khi bị ung thư. Tế bào mới được sinh sản khi cơ thể không cần đến, tế
bào già lão không chết, cứ tiếp tục sống. Những tế bào dư thừa này tạo thành
một khối u gọi là bướu. Myeloma bắt đầu khi tế bào plasma trở nên bất
thường. Những tế bào bất thường sinh sản tạo ra những tế bào mới, cũng bất
thường như tế bào mẹ, càng lúc, cơ thể càng có nhiều tế bào bất thường khi
những tế bào này tiếp tục sinh sản. Những tế bào plasma bất thường được


gọi là tế bào myeloma.
Khi tế bào myeloma sinh sản quá mức trong tủy xương, sẽ chiếm chỗ
của những tế bào máu khác. Tế bào myeloma cũng tích tụ tại những phần
đặc khác của xương, ngoài tủy xương. Chứng ung thư này được gọi là
multiple myeloma vì chứng bệnh ảnh hưởng đến nhiều xương; khi tế bào
myeloma tích tụ trong một xương, khối u này gọi là plasmacytoma.
Tế bào myeloma tạo ra những kháng thể gọi là M protein và những
protein khác. Các protein này tích tụ trong máu, nước tiểu và các bộ phận.
Những yếu tố gia tăng tỷ lệ multiple myeloma (risk factor):
Dù chưa khẳng định được những nguyên nhân gây ra chứng ung thư
này, Y học đã nhận ra những yếu tố có thể làm gia tăng tỷ lệ multiple
myeloma:
- Tuổi tác: Tuổi 65 trở lên có tỷ lệ ung thư multiple myeloma cao hơn,
hiếm thấy ở tuổi dưới 35.
- Chủng tộc: tỷ lệ ung thư cao nhất ở những người da đen, và thấp
nhất ở những người Á Châu.
- Giới tính: nam phái có tỷ lệ bệnh cao hơn nữ phái.
- Đã bị bệnh monoclonal gammopathy of undetermined significance
(MGUS): Chứng MGUS xảy ra khi tế bào plasma bất thường tạo ra một
lượng kháng thể M protein thấp; chứng bệnh này thường không gây nguy
hiểm nhưng gia tăng tỷ lệ multiple myeloma. Hiện nay, bác sĩ chỉ theo dõi
và thử máu để đo lượng M protein và chữa trị khi triệu chứng xuất hiện.
- Có thân nhân bị Multiple Myeloma sẽ có tỷ lệ bệnh tật cao hơn.
Chưa có tài liệu nào khẳng định được những yếu tố khác như phóng
xạ, thuốc khai quang, thuốc nhuộm tóc, vài loại siêu vi khuẩn, di thể, chứng
mập phì có làm gia tăng tỷ lệ ung thư multiple myeloma hay không.
Triệu chứng
Những triệu chứng thông thường gồm có:
- Gãy xương, thường gãy xương sống
- Đau đớn trong xương, thường là đau lưng, ngực

- Yếu đuối, mệt mỏi
- Khát nước trầm trọng
- Nóng sốt, bị nhiễm trùng thường xuyên
- Xuống ký
- Buồn nôn hoặc táo bón
- Đi tiểu nhiều lần
Những triệu chứng này có thể gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau, chưa hẳn là do ung thư. Tuy nhiên, khi có những triệu chứng này, cần
gặp bác sĩ để tìm nguyên nhân.
Chẩn bệnh
Đôi khi bác sĩ nhận ra bệnh multiple myeloma qua việc thử máu,
nhưng thông thường, bác sĩ tìm ra bệnh qua hình quang tuyến tìm dấu vết
của xương gãy. Ngoài việc khám bệnh và tìm hiểu bệnh sử, bác sĩ có thể
dùng những cách chẩn bệnh sau:
1. Thử máu: tìm sự bất thường và số lượng của các loại tế bào máu.
Myeloma tạo ra một lượng tế bào plasma cao và một lượng calcium cao.
Hầu hết bệnh nhân bị thiếu máu (giảm hồng cầu). Myeloma cũng tạo ra
nhiều protein với một số lượng cao, M protein, beta-2-microglobulin, và
những loại protein khác.
2. Thử nước tiểu: đo lượng Bence Jones protein (một loại M protein)
trong nước tiểu qua 24 tiếng đồng hồ. Khi lượng Bence Jones protein lên
cao, gây nghẽn mạch máu; bác sĩ sẽ cần theo dõi tình trạng hoạt động của
thận vì bệnh nhân có nguy cơ thận suy.
3. Quang tuyến: tìm xương gãy hoặc những dấu hiệu của xương bị
mỏng (bone thinning).
4. Sinh thiết: bác sĩ trích mô để tìm tế bào ung thư, bác sĩ rút tủy qua
xương hông hoặc những xương lớn khác. Bác sĩ lấy tủy qua hai cách:
a) Rút tủy (bone marow aspiration): bác sĩ dùng kim nhỏ để hút tủy từ
xương hông qua mông, hoặc,
b) Sinh thiết (bone marow biopsy): bác sĩ dùng kim lớn để khoan ra

một mảnh xương và rút tủy cùng lúc. Bác sĩ Bệnh Lý thẩm định các mẫu tế
bào tìm myeloma.
Quý vị có thể đặt những câu hỏi sau trước khi bác sĩ trích mô (làm
sinh thiết):
- Trích mô ảnh hưởng đến việc chữa trị ra sao?
- Bác sĩ chọn phương thức nào để trích mô?
- Việc trích mô kéo dài bao nhiêu lâu? Tôi sẽ thức trong khi làm sinh
thiết? Có đau đớn lắm không?
-Làm sinh thiết có rủi ro không? Có gây ra việc lan tràn ung thư
không? Tôi có bị xuất huyết? Nhiễm trùng?
- Chừng nào thì tôi biết kết quả? Ai sẽ là người giải thích kết quả cho
tôi hiểu?
- Nếu tôi bị ung thư, ai sẽ là người nói chuyện với tôi về những bước
sắp tới? Và bao giờ?
Định kỳ ung thư
Sau khi chẩn bệnh, bác sĩ cần định kỳ ung thư trước khi hoạch định
cách chữa trị, ngoài thử máu đo lượng các protein như albumin, beta-2-
microglobulin, bác sĩ có thể cần dùng thêm những cách thử nghiệm khác
như CT scan, MRI hoặc chụp quang tuyến tất cả mọi xương trong cơ thể
(bone survey).
Multiple myeloma có 4 thời kỳ (giai đoạn): "smoldering" (chưa có
triệu chứng dù tế bào myeloma đã xuất hiện), I, II hoặc III. Việc định kỳ tùy
theo ảnh hưởng đến xương hoặc thận. Giai đoạn I khi có triệu chứng như
hoại xương. Giai đoạn II hoặc III trầm trọng hơn và nhiều tế bào myeloma
đã xuất hiện trong cơ thể.
Chữa trị
Chứng Multiple Myeloma có nhiều cách chữa trị: Theo dõi & chờ đợi
(watchful waiting), chữa trị "khởi đầu" (induction therapy) và ghép tế bào
gốc. Đôi khi bác sĩ dùng chung nhiều cách chữa trị.
Xạ trị có thể được dùng để trị nhức xương, dùng riêng hoặc dung

chung với các cách chữa trị khác.
Cách chữa thường tùy thuộc vào thời kỳ cũng như triệu chứng của
ung thư. Nếu bệnh nhân bị multiple myeloma mà không có triệu chứng nào
(smoldering myeloma), bác sĩ có thể không chữa trị ngoài việc theo dõi bệnh
trạng thường xuyên.
Nếu bệnh nhân có triệu chứng, bác sĩ có thể bắt đầu việc chữa trị
"khởi đầu" (induction therapy) và đôi khi tiếp tục với cách ghép tế bào gốc.
Hiện nay, các cách chữa trị chứng multiple myeloma giúp bệnh nhân
cầm cự chịu đựng các triệu chứng của bệnh tật, chưa hoàn toàn chữa dứt
chứng bệnh, vì thế bác sĩ có thể giới thiệu những cuộc thử nghiệm lâm sàng
(clinical trial).
Trong bất cứ thời kỳ nào của ung thư, bác sĩ cũng có thể dùng những
cách chữa phụ, giảm đau, giúp bệnh nhân dễ chịu gọi là supportive care.
Nên thảo luận với bác sĩ về phản ứng phụ và việc chữa trị sẽ ảnh
hưởng đến sinh hoạt hàng ngày ra sao. Hóa chất và xạ trị thường gây hư hoại
các tế bào bình thường nên phản ứng phụ thường xảy ra. Phản ứng phụ
không đồng nhất cho mọi người, và có thể thay đổi từ lần chữa trị này sang
lần chữa trị khác. Trước khi bắt đầu bác sĩ sẽ giải thích rõ ràng về việc trị
liệu và phản ứng phụ có thể xảy ra, và cách tiết giảm.
Bác sĩ có thể giới thiệu quý vị đến một chuyên viên, hoặc quý vị có
thể nhờ bác sĩ giới thiệu đến chuyên viên. Những chuyên viên chữa trị ung
thư Multiple Myeloma bao gồm bác sĩ chuyên khoa về máu (hematologist),
bác sĩ chuyên khoa ung thư, bác sĩ xạ trị ung thư hoặc bao gồm cả chuyên
viên điều dưỡng về ung thư và dinh dưỡng.
Trước khi chữa trị, bệnh nhân nên hỏi bác sĩ những câu hỏi sau:
- Chứng bệnh của tôi ở thời kỳ nào?
- Thận có bị ảnh hưởng không? Nếu có, ảnh hưởng ra sao?
- Làm thế nào để lấy bản sao của bản tường trình từ bác sĩ Bệnh Lý
(pathologist)?
- Những cách chữa trị nào có thể dùng được? Bác sĩ đề nghị cách nào,

lý do tại sao? Các cách chữa trị có thay đổi không?
- Tôi sẽ bị những biến chứng gì? Làm cách nào để giảm bớt những
biến chứng này?
- Có biến chứng nào ảnh hưởng lâu dài hay không?
- Cách chữa trị có ảnh hưởng nhiều đến đời sống hằng ngày hay
không?
- Có cuộc thử nghiệm lâm sàng nào cho chứng bệnh của tôi hay
không?- Tôi có cần đi khám bệnh định kỳ thường xuyên không?
Chờ đợi và theo dõi
Những bệnh nhân chọn cách chờ đợi khi chứng ung thư "thầm lặng
(smoldering myeloma) không gây triệu chứng và bác sĩ sẽ theo dõi bệnh
trạng cẩn thận. Thời gian theo dõi này có thể kéo dài. Qua việc chờ đợi,
bệnh nhân tránh những phản ứng phụ do hóa chất hoặc xạ trị gây ra.
Nếu chọn việc chờ đợi, bệnh nhân cần thăm bệnh định kỳ, mỗi 3
tháng, và việc chữa trị có thể bắt đầu nhanh chóng khi triệu chứng xuất hiện.
Một số bệnh nhân không muốn chờ đợi vì lo âu và chọn việc chữa trị
sớm. Những người đã chọn việc chờ đợi nhưng vẫn lo âu bất an nên thảo
luận với bác sĩ.
Quý vị nên thảo luận với bác sĩ trước khi chọn việc chờ đợi:
- Nếu tôi chọn việc chờ xem, tôi có thể đổi ý không?
- Bệnh trạng có trở nên khó trị không?
- Tôi cần thăm bệnh định mỗi mấy tháng?
- Giữa những lần thăm bệnh, tôi cần báo cho bác sĩ những triệu chứng
nào?
Chữa trị "khởi đầu" (induction therapy)
Nhiều loại thuốc dùng để chữa myeloma; cách chữa trị thường thấy là
việc dùng chung nhiều loại thuốc. Những loại hóa chất thường được sử dụng
chung với nhau gọi là combination therapy. Có nhiều cách "dùng chung
(combination) các thuốc men.
Mỗi loại thuốc diệt tế bào ung thư một cách khác nhau:

- Hóa chất: Diệt tế bào myeloma nhanh chóng nhưng cũng diệt cả các
tế bào lành mạnh.
- Targeted therapy: dùng để ức chế sự tăng trưởng của tế bào
myeloma qua việc ngăn chặn tác dụng của loại protein đặc biệt cần thiết cho
sự tăng trưởng của tế bào myeloma.
- Steroids: một vài loại steroid có tác dụng chống ung thư, các chuyên
viên cho rằng steroid có thể khởi đầu (trigger) tiến trình sống-chết của tế bào
myeloma. Bác sĩ có thể dùng 1 loại steroid riêng biệt hoặc dùng chung với
các thuốc men khác.
Thuốc có thể uống hoặc truyền qua tĩnh mạch, và bệnh nhân có được
chữa trị tại nhà, văn phòng bác sĩ hoặc bệnh viện.
Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại thuốc và lượng thuốc sử dụng. Nói
chung, những loại hóa chất chữa Multiple Myeloma ảnh hưởng đến những tế
bào sinh trưởng nhanh chóng trong cơ thể. Trong cơ thể bình thường, những
tế bào tăng trưởng và sinh sôi nhanh chóng là:
- Tế bào máu: bạch cầu (giúp cơ thể chống lại sự nhiễm trùng), tiểu
cầu (làm đông máu), hồng cầu (dẫn dưỡng khí đi khắp cơ thể). Khi tế bào
máu bị hủy hoại bệnh nhân thường bị nhiễm trùng, bị xuất huyết (vì máu
không đông), và cảm thấy yếu sức, mệt mỏi (vì thiếu máu, thiếu dưỡng khí).
Khi các tế bào máu hạ thấp, bác sĩ sẽ dùng thuốc men để thúc đẩy cơ thể sản
xuất thêm các tế bào cần thiết này.
- Tế bào tại chân tóc: bị hủy hoại gây rụng tóc. Tóc có thể sẽ mọc trở
lại nhưng màu tóc và sợi tóc có thể đổi khác.
- Tế bào lót bộ phận tiêu hóa (từ miệng đến hậu môn): bệnh nhân bị lở
miệng, môi, tiêu chảy, biếng ăn. Bác sĩ sẽ dùng thuốc men để tiết giảm các
phản ứng phụ này.
Ngoài ra, các phản ứng phụ có thể bao gồm chóng mặt, ngầy ngật, tê
bại hoặc chịu cảm giác kim chích tại chân tay và hạ huyết áp. Các phản ứng
phụ này sẽ dứt khi việc chữa trị chấm dứt.
Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị hóa

chất:
- Tôi sẽ được chữa trị bằng loại thuốc nào? khi nào thì bắt đầu? Khi
nào thì xong?
- Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi chữa trị?
- Mục đích của việc chữa trị là gì? Làm thế nào để biết rằng việc chữa
trị có hiệu quả?
- Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách
nào phòng ngừa không?
- Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? Việc chữa trị
ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày ra sao?
Ghép tế bào gốc (stem cell transplantation)
Nhiều bệnh nhân được chữa trị qua cách ghép tế bào gốc; cách chữa
trị này cho phép bác sĩ dùng một lượng hóa chất hoặc một lượng phóng xạ,
hoặc cả hai, rất cao. Lượng hóa chất cao hoặc lượng phóng xạ cao sẽ hủy
diệt mọi tế bào máu trong tủy, tế bào bình thường cũng như tế bào myeloma.
Tế bào gốc sau khi ghép sẽ thay thế những tế bào bị hủy diệt trong cuộc
chữa trị.
Bệnh nhân sẽ ở tại bệnh viện khi được ghép tế bào gốc, truyền qua
tĩnh mạch như khi truyền máu, và bác sĩ có dùng cách ghép tế bào gốc nhiều
lần.
Tế bào gốc có thể đến từ chính bệnh nhân hoặc từ người tặng:
-Dùng tế bào gốc của bệnh nhân để ghép (Autologous
stemcelltransplantation): Tế bào gốc được lấy ra từ máu bệnh nhân, hủy diệt
tế bào ung thư nếu có, rồi đông lạnh. Sau khi bệnh nhân được chữa trị bằng
một lượng hóa chất hay quang tuyến rất cao, tế bào gốc được xả lạnh, và
ghép trở lại.
- Dùng tế bào gốc của người tặng (donor) để ghép (Allogeneic
stemcell transplantation): người tặng có thể là thân nhân hoặc kẻ lạ. Bác sĩ
cần thử nghiệm để tìm loại máu phù hợp (match) với bệnhnhân.
- Dùng tế bào gốc của anh/chị/em song sinh để ghép (Syneneic stem

cell transplantation).
Trước khi ghép tế bào gốc, bệnh nhân nên hỏi bác sĩ những câu hỏi
sau:
-Xin giải thích những lợi, hại của việc ghép tế bào gốc
- Tôi sẽ được ghép tế bào gốc loại nào?
- Như thế nào để biết rằng việc ghép tế bào gốc có hiệu nghiệm hay
không?
- Tôi sẽ bị những biến chứng gì?
- Tôi sẽ ở nhà thương bao nhiêu lâu?
- Cơ hội bình phục của tôi ra sao?
Ý kiến thứ nhì
Trước khi bắt đầu việc chữa trị, quý vị có thể tham khảo một bác sĩ
khác để lấy ý kiến về chẩn đoán và chữa trị. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi
phí này nếu quý vị hoặc bác sĩ yêu cầu. Quý vị cần một thời gian để thu góp
tài liệu, y sử, các kết quả thử nghiệm và sắp xếp buổi tham khảo với một bác
sĩ khác. Việc chờ đợi thường không ảnh hưởng đến kết quả của việc chữa trị.
Để an tâm hơn, quý vị có thể thảo luận về việc chờ đợi này với bác sĩ của
mình.
Nhiều cách để tìm một bác sĩ cho ý kiến thứ nhì: Hỏi bác sĩ của mình,
hỏi chi tiết tại bệnh viện, những tổ chức y tế địa phương, trường Y khoa…
để lấy tên một vị bác sĩ chuyên khoa.
Chữa trị phụ (supportive care):
Chứng multiple myeloma và việc chữa trị thường đưa đến những biến
chứng trầm trọng nên bác sĩ cần dùng những cách chữa trị phụ để giúp bệnh
nhân chịu đựng chứng bệnh và việc chữa trị.
- Nhiễm trùng: Bệnh nhân bị nhiễm trùng dễ dàng, và cần dùng thuốc
kháng sinh.
Một số bệnh nhân được chủng ngừa cúm và sưng phổi.
Đôi khi bệnh nhân cần phải cách ly (tránh đám đông, tránh những
người bị cảm cúm hoặc những bệnh truyền nhiễm khác) vì khi bị nhiễm

trùng thường khó chữa trị.
- Thiếu hồng cầu: Bệnh nhân thường mệt mỏi yếu đuối và cần được
tiếp máu
- Đau đớn: chứng multiple myeloma thường gây ra đau nhức từ trong
xương, bác sĩ có thể dùng thuốc giảm đau hoặc xạ trị giúp bệnh nhân bớt đau
đớn. Những loại vật dụng giúp chống đỡ sức nặng của cơ thể (braces) cũng
có thể làm giảm đau. Ngoài ra giải phẫu có thể dùng để "tháo" áp suất của
xương gãy trên thần kinh tủy sống gây đau đớn.
Một số bệnh nhân dùng cách thoa bóp (massage), châm cứu hoặc ngồi
thiền tập thở để giảm đau.
- Mỏng xương (bone thinning): tế bào myeloma ngăn sự tăng trưởng
của những tế bào tạo xương, và xương mỗi ngày mỗi mỏng. Bác sĩ dùng
những loại thuốc ngừa mỏng xương và ngăn việc gãy xương để chữa trị.
Hoạt động, đi bộ, bơi lội cũng giúp xương cứng cáp hơn.
- Lượng calcium lên quá cao trong máu: chứng myeloma khiến
calcium thoát ra từ xương và vào máu. Khi lượng calcium lên quá cao, bệnh
nhân trở nên biếng ăn, buồn nôn, bứt rứt và nhầm lẫn; đôi khi mệt mỏi, mất
sức, mất nước trong cơ thể Bác sĩ thường truyền nước biển và dùng những
loại thuốc để làm giảm lượng calcium trong máu.
- Thận suy bại: chứng multiple myeloma gây suy thận, bệnh nhân đôi
khi cần lọc thận (dialysis) để lấy ra những chất phế thải.
- Amyloidosis: chứng multiple myeloma gây amyloidosis; amyloid là
một loại protein bất thường, khi lượng protein này lên cao, sẽ tích tụ tại tim
gây đau đớn và sưng phù tay chân. Bác sĩ dùng thuốc để làm giảm lượng
protein này.
Dinh dưỡng
Dinh dưỡng rất quan trọng trong mọi giai đoạn, trước khi, trong khi và
sau khi chữa trị ung thư. Bệnh nhân cần một lượng đầy đủ calorie, protein,
sinh tố, và khoáng chất. Khi cơ thể được bồi bổ đúng mức, bệnh nhân
thường cảm thấy dễ chịu hơn.

Tuy nhiên, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì nhiều
nguyên nhân, mệt mỏi, biếng ăn hoặc khó nuốt thức ăn. Khi dùng hóa chất
trị liệu, bệnh nhân có thể không còn nếm được thức ăn, hoặc cho rằng thức
ăn không còn hương vị, thơm ngon như trước. Bệnh nhân cũng có thể chịu
các phản ứng phụ như biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy.
Có nhiều cách để bồi bổ cơ thể khi không thể ăn uống đầy đủ. Hãy
thảo luận với chuyên viên về dinh dưỡng (registered dietitian) để chọn cách
dinh dưỡng thích hợp với đầy đủ calorie, protein, sinh tố (vitamins), và
khoáng chất (minerals).
Khi có thể, nên duy trì sự hoạt động, đi bộ, yoga, bơi lội hoặc những
hoạt động khác có thể gia tăng năng lực. Nên thảo luận với bác sĩ về việc
vận động cơ thể và báo cho bác sĩ biết khi việc vận động gây đau đớn.
Thăm bệnh định kỳ
Sau khi chữa trị, bệnh nhân sẽ cần được khám bệnh định kỳ. Ngay cả
khi không có dấu hiệu nào về ung thư tái phát, vẫn cần thăm bệnh vì mầm
ung thư có thể còn sót lại trong cơ thể.
Khám bệnh định kỳ giúp bác sĩ kiểm soát theo dõi diễn tiến của bệnh
trạng chính và các biến chứng của trị liệu Các loại thử nghiệm như thử máu,
chụp hình quang tuyến hoặc cả trích mô được bác sĩ sử dụng để thăm bệnh.
Báo cho bác sĩ biết nếu bị bệnh giữa những buổi khám bệnh định kỳ.
Những nguồn hỗ trợ
Chứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người
bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên
điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua
những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu.
Người bệnh có thể lo âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt
hàng ngày kể cả việc chịu đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những
chuyến ra vào bệnh viện, phản ứng phụ và những phí tổn trị liệu.
Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ
hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm

hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn hỗ trợ chia sẻ qua bạn hữu, thân
nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác.
Nguồn hỗ trợ có thể bao gồm:
Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong nhóm trị liệu có thể trả lời hầu
hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng.
Chuyên viên xã hội, chuyên viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn
giáo có thể giúp đỡ phần tinh thần. Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc
chỉ dẫn những nguồn tài trợ, việc chuyên chở, trị liệu tại nhà…
Những nhóm hỗ trợ: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân
khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và
việc chữa trị. Những nhóm hỗ trợ này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện
thoại, hoặc qua internet. Các chuyên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại
miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương
trình hỗ trợ, dịch vụ và các tin tức, tài liệu liên quan đến ung thư.
Sự hứa hẹn của ngành khảo cứu ung thư
Bác sĩ tại Hoa Kỳ đang thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng.
Thử nghiệm lâm sàng được hoạch định với mục đích trả lời các câu hỏi quan
trọng về cách trị liệu hữu hiệu nhất. Các chương trình nghiên cứu để chữa trị
Multiple Myeloma bao gồm cách dùng chung nhiều loại hóa chất, dùng
chung hóa chất với sinh hóa tố và các cách chữa trị khác. Thử nghiệm cách
ghép tế bào gốc hữu hiệu nhất, dùng sớm hoặc dùng trong các giai đoạn về
sau.
Những tìm hiểu khoa học đã tạo được nhiều lợi ích, giúp con người
sống lâu hơn, và khoa học tiếp tục tìm kiếm. Các chuyên gia đang tìm kiếm
phương pháp ngăn ngừa ung thư, cách tìm ra bệnh sớm hơn, cũng như cách
trị liệu hiệu quả hơn.

×