Những Điều Cần Biết Về Ung Thư (phần 1)
Bác sĩ Trần Lý Lê
Tài liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ - Ấn bản tháng Mười, 2006
A. Ung thư là gì?
Ung thư là tên gọi chung của các bệnh tật từ tế bào - đơn vị căn bản của sự sống - mà ra.
Muốn hiểu về ung thư, ta cần biết tại sao tế bào bình thường, khoẻ mạnh lại trở nên ung
hoại. Cơ thể con người được cấu tạo bởi nhiều bộ phận, mỗi bộ phận có một hoặc nhiều
loại tế bào. Thông thường, tế bào chỉ sinh sôi nảy nở khi cần thiết. Tế bào khi già lão sẽ
chết, và được thay thế bởi những tế bào mới. Sự sinh sản có trật tự này giúp cơ thể duy trì
sức khoẻ. Tuy nhiên, đôi khi sự sinh sản trật tự này bị đảo lộn, tế bào cứ tiếp tục sinh sôi
mặc dù cơ thể không cần đến; những tế bào thừa thãi này gom lại thành một khối mô, gọi
là bướu hay u.
Bướu có thể lành hoặc độc:
a) Bướu lành (lành tính):
- Bướu lành không phải là ung thư, không gây tử vong
- Nói chung, bướu lành có thể được cắt bỏ, và thường không tái sinh.
- Những tế bào trong bướu lành không ăn lậm đến các mô lân cận
- Những tế bào trong bướu lành không lan ra những bộ phận khác trong cơ thể.
b) Bướu độc (ác tính): Bướu độc cũng được gọi là ung thư.
- Bướu độc có thể gây tử vong.
- Bướu độc thường được cắt bỏ nhưng có thể tái sinh.
- Những tế bào trong bướu độc có thể ăn sâu và hủy hoại những tế bào, bộ phận chung
quanh. Tế bào ung thư có thể thoát ra ngoài bướu, vào dòng máu hoặc dòng bạch huyết
(lymphatic system) và lan tràn từ nơi ung hoại đầu tiên (primary site) qua những bộ phận
khác, tạo thành những bướu độc mới. Sự lan tràn của tế bào ung thư gọi là metastasis.
Ung thư được đặt tên theo những bộ phận trong cơ thể hoặc những tế bào nơi sự ung hoại
khởi đầu. Chẳng hạn như ung thư khởi đầu từ phổi được gọi là ung thư phổi, loại ung thư
khởi đầu từ tế bào (tạo ra màu nâu đen) trong da, melanocytes, được gọi là melanoma.
Khi ung thư lan từ nơi khởi thủy đến những bộ phận khác, bướu độc mới sẽ có cùng một
loại tế bào bất thường và có cùng một tên gọi như bướu độc nguyên thủy. Thí dụ, khi ung
thư phổi lan đến não bộ, tế bào ung thư tìm thấy trong não bộ là những tế bào phổi đã ung
hoại. Biến chứng này gọi là ung thư phổi đã lan tràn (không phải là ung thư não bộ), hay
ung thư phổi di căn. Khi ung thư lan tràn, ta sẽ tìm thấy tế bào ung thư trong những hạch
bạch huyết cầu lân cận. Nếu ung thư đã vào đến những hạch bạch huyết cầu này thì có
nghĩa là ung thư có thể đã lan đến những bộ phận khác như gan, xương, hay não bộ.
B. Những yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư
Y học chưa giải thích được tại sao người này bị ung thư mà người khác không bị ung thư.
Nhưng qua việc nghiên cứu, các chuyên gia đã tìm thấy một số yếu tố gia tăng tỷ lệ ung
thư (risk factors); những yếu tố này bao gồm:
- Tuổi tác
- Thuốc lá, thuốc lào
- Ánh nắng
- Một số hóa chất
- Một số vi khuNn và siêu vi khuNn
- Một vài nội tiết tố
- Thân nhân bị ung thư
- Rượu
- Thiếu dinh dưỡng, thiếu vận đông và bệnh mập phì
Có những yếu tố có thể tránh, nhưng cũng có những yếu tố không thể ngăn ngừa như y sử
của gia đình. Hãy làm những việc có thể làm để duy trì sức khỏe, tránh các yêu tố gia
tăng tỷ lệ ung thư.
N ếu lo âu về chứng ung thư, ta nên thảo luận với bác sĩ.
Qua thời gian một số yếu tố tác động lẫn nhau khiến các tế bào lành mạnh trở nên hư
hoại. Khi nghĩ đến các yếu tố gây ung thư, cần nhớ những chi tiết căn bản sau đây:
- Không phải bất cứ thứ gì cũng gây ung thư
- Ung thư không do thương tích
- Ung thư không phải là bệnh truyền nhiễm, lây từ người này sang người khác. Tuy nhiên
một số vi khuNn và siêu vi khuNn gây nhiễm trùng và là yếu tố gia tăng tỷ lệ của một vài
loại ung thư, nói chung, ung thư không lây bệnh.
- Có một số yếu tố kể trên không có nghĩa là là sẽ bị ung thư
1) Tuổi tác: Yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư quan trọng nhất là tuổi già. Hầu hết các ung thư
bộc phát trong tuổi 65 trở lên, nhưng mọi tuổi đều có thể bị ung thư kể cả trẻ em.
2) Thuốc lào, thuốc lá, gọi chung là “tobacco”: N gưng dùng thuốc lào thuốc lá là việc dễ
thực hiện nhất để ngăn ngừa ung thư. Mỗi năm khoảng 180 ngàn người Hoa Kỳ chết vì
các loại ung thư liên quan đến việc dùng thuốc lào, thuốc lá. Dùng thuốc lào thuốc lá
hoặc sống trong môi trường thường xuyên có khói thuốc là yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư.
N gười hút mỗi ngày 1 bao thuốc lá có xác suất bị ung thư phổi 10 lần cao hơn so với
những người không hút thuốc lá. N goài ung thư phổi, người hút thuốc lá còn có thể bị
ung thư miệng, cuống họng, thực quản, bàng quang, dạ dày, tụy tạng hoặc cổ tử cung. Họ
có tỷ lệ ung thư bạch huyết cao hơn những người không hút thuốc lá.
N hững người dùng thuốc lá không khói, nhai thuốc lào, có tỷ lệ ung thư miệng cao hơn
những người khác.
3) Ánh nắng: Tia cực tím từ mặt trời và các loại máy tạo ánh nắng (giúp cho da nâu hồng)
khiến da lão hóa nhanh chóng và gây hư hại tế bào da đưa đến ung thư da.
Tránh nắng và những loại máy móc phát ra tia cực tìm để bảo vệ da. Tránh ánh nắng giữa
ngày, mặc quần áo dài che kín chân tay, đội mũ nón và kính mát để bảo vệ da và mắt.
Dùng kem chống nắng với sun protective factor, SPF it nhất là 15.
4) Tia phóng xạ (ionizing radiation): Tia phóng xạ gây hư hoại tế bào và có thể dẫn đến
ung thư. Loại phóng xạ này từ đến mặt đất từ các hành tinh khác, từ những máy móc
dùng tia phóng xạ để chNn bệnh (X ray) hoặc chữa bệnh (radiation therapy), radon, bom
nguyên tử hoặc từ các nhà máy nguyên tử lực.
N gười bị nhiễm phóng xạ có tỷ lệ ung thư bạch huyết, tuyến giáp trạng, vú, phổi và dạ
dày cao hơn những người khác.
Radon là một loại phóng xạ trong thể khí không màu, không mùi vị, đến từ đất đá. Thợ
hầm mỏ có thể bị nhiễm radon. Tại một vài nơi, radon từ lòng đất lan vào trong nhà.
Radon gia tăng tỷ lệ ung thư phổi.
Y học dùng quang tuyến để chụp một vài bộ phận trong cơ thể, để chNn đoán thương tích
tại xương và một vài bộ phận khác. Bác sĩ cũng dùng xạ trị để chữa ung thư. Phóng xạ từ
việc chụp quang tuyến là một lượng rất nhỏ, từ máy xạ trị lượng phóng xạ cao hơn. Tuy
nhiên, khi so sánh lợi và hại, việc sử dụng phóng xạ này có lợi nhiều hơn cho bệnh nhân.
5) Hóa chất và các chất khác: Thợ sơn, thợ nề và những người làm việc trong môi trường
có hóa chất có thể có tỷ lệ ung thư cao hơn vì tiếp xúc với asbestos, benzene, benzidine,
cadmium, nickel hoặc vinyl chloride. Cần theo lời chỉ dẫn của nhà sản xuất và dùng quần
áo bọc ngoài, giầy dép, mũ nón, mặt nạ để bảo cơ thể.
6) Vi khuNn và siêu vi khuNn: N hiễm trùng do vi khuNn hoặc siêu vi khuNn sau có thể gia
tăng tỷ lệ ung thư:
- Human Papillomaviruses (HPVs): N hiễm trùng HPV là nguyên nhân chính gây ung thư
cổ tử cung, và cũng là yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư của các loại ung thư khác
- Siêu vi khuNn Hepatitis B và Hepatitis C: Ung thư gan có thể bộc phát sau nhiều năm bị
viêm gan do nhiễm trùng bởi 2 loại siêu vi khuNn kể trên
- Siêu vi khuNn Human T-cell leukemia/lymphoma (THLV-1); N hiễm trùng bởi THLV-1
gia tăng tỷ lệ ung thư bạch huyết và lymphoma
- Siêu vi khuNn Human immunodeficiency (HIV): HIV gây ra chứng bệnh AIDS, những
người bị AIDS có tỷ lệ ung thư lymphoma và Karposi sarcoma cao hơn những người
khác
- Siêu vi khuNn Epstein-Barr (EBV): gia tăng tỷ lệ ung thư lymphoma
- Siêu vi khuNn Human herpesvirus 8 (HHV8): gia tăng tỷ lệ ung thư Kaposi sarcoma
- Vi khuNn Helicobacter pylori: Vi khuNn này gây lở dạ dày và có thể gây ung thư dạ dày
và lymphoma tại dạ dày
HPV, viêm gan B và C, HIV gây nhiễm trùng qua việc giao hợp với người bị nhiễm
trùng, cần dùng những phương pháp phòng ngừa. Không dùng chung kim chích với
người khác, thân hoặc sơ. N ên chích ngừa chứng viêm gan B.
7) N ội tiết tố: Bác sĩ có thể dùng nội tiết tố (như estrogen và progesterone) chữa những
triệu chứng do sự tắt kinh như nóng lạnh, khô âm đạo, và loãng xương. Các nội tiết tố
này có thể gia tăng tỷ lệ ung thư vú, bệnh tim mạch, và đông máu.
Khi quý bà muốn dùng nội tiết tố, cần thảo luận sự lợi / hại với bác sĩ.
Thuốc Diethylstillbestrol (DES), một loại estrogen, trước đây được dùng để giảm ói mửa
khi thai nghén: DES gia tăng tỷ lệ ung thư vú, gia tăng tỷ lệ ung thư cổ tử cung của con
gái của những phụ nữ dùng thuốc này.
8) Thân nhân bị ung thư: Hầu như mọi loại ung thư đến từ sự thay đổi (biến thái,
mutation) của di thể. Một tế bào lành mạnh có thể trở thành tế bào ung thư sau khi một số
thay đổi diễn tiến tại di thể. Thuốc lá, thuốc lào, một số vi khuNn hoặc những yếu tố trong
nếp sống hằng ngày có thể tạo ra sự thay đổi tại di thể.
Một số thay đổi trong di thể có thể truyền từ cha mẹ sang con cái. Sự thay đổi này hiện
diện trong mọi tế bào của đứa con ngay khi chào đời. Di truyền tính ung thư không xuất
hiện thường xuyên, chỉ bộc phát trong một số gia tộc, và liên quan đến các di thể truyền
từ cha mẹ sang con cái. N goài ra những yếu tố khác trong môi trường sinh sống cũng có
thể ảnh hưởng đến sự thay đổi tại di thể này.
9) Rượu: Uống trên 2 ly rượu mỗi ngày gia tăng tỷ lệ ung thư miệng, cuống họng, gan,
thực quản, và vú. Uống cáng nhiều rượu, tỷ lệ ung thư càng cao, nhát là với những người
hút thuốc lá.
10) N ếp sống: thói quen ăn uống thiếu dinh dưỡng, ít vận động hoặc chứng mập phì có
thể gia tăng tỷ lệ của một vài loại ung thư. Chẳng hạn như việc ăn uống thường xuyên
thức ăn, đồ uống có nhiều chất béo sẽ gia tăng tỷ lệ ung thư ruột già, tử cung và tuyến
tiền liệt. Kém vận động và mập phì gia tăng tỷ lệ ung thư vú, ruột già, thực quản, thận và
tử cung.
N ên ăn uống nhiều rau trái. Thức ăn đầy đủ dinh dưỡng gồm có chất xơ, sinh tố và
khoáng chất. Vận động thường xuyên giúp duy trì cân lượng, không bị mập phì.
C. Truy tìm ung thư:
Đôi khi ta có thể tìm ra chứng ung thư trước khi phát bệnh nghĩa là có triệu chứng. Việc
thử nghiệm để tìm ung thư khi chưa có triệu chứng nào được gọi là “screening”.
Thử nghiệm ung thư giúp bác sĩ tìm thấy và chữa trị một vài loại ung thư sớm. N ói chung
việc chữa trị hiệu quả hơn khi tìm thấy ung thư trong thời kỳ bắt đầu. Các loại thử
nghiệm được dùng rộng rãi để truy tìm ung thư vú, cổ tử cung, ruột già và trực tràng:
- Ung thư vú: Mammogram là phương cách thông dụng nhất để truy tìm ung thư vú.
Mammogram là một loại hình quang tuyến của vú. Theo Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa
Kỳ, (N ational Cancer Institute, N CI) phụ nữ từ 40 tuổi trở lên nên chụp mammogram mỗi
năm. Phụ nữ có những yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư nên thảo luận với bác sĩ, dù trong tuổi
30.
- Ung thư cổ tử cung: Bác sĩ dùng Pap test (còn gọi là Pap smear) để truy tìm chứng ung
thư cổ tử cung.Tế bào được lấy ra từ cổ tử cung và dùng kính hiển vi để quan sát xem
những tế bào có thay đổi hoặc trở nên bất thường, kể cả những thay đổi do HPV. Phụ nữ
nên bắt đầu thử Pap test 3 năm sau khi bắt đầu giao hợp, hoặc 21 tuổi. Mọi phụ nữ nên
thử Pap test ít nhất mỗi 3 năm một lần.
- Ung thư ruột già và trực tràng: Một số loại thử nghiệm được dung để truy tìm “polyps”
(những “túi” tế bào mới xuất hiện trong ruột già), ung thư hoặc những chứng bệnh khác
tại ruột già và trực tràng. N hững người vào tuổi 50 trở lên, cần đi thử nghiệm. N ếu có
thân nhân bị ung thư ruột già, hoặc có những yếu tố làm gia tăng tỷ lệ của ung thư, cần
thảo luận với bác sĩ, bất kể ở tuổi nào, để được thử nghiệm sớm. Một hoặc nhiều phương
cách thử nghiệm sau được áp dụng:
1) Máu lẫn trong phân: Đôi khi bướu hoặc polyp xuất huyết, máu lẫn với phân. Cách thử
nghiệm này có thể khám phá một lượng máu dù rất nhỏ lẫn trong phân.
2) Sigmoidoscopy (nội soi phần ruột già có tên sigmoid): Bác sĩ dùng một cái ống nhỏ,
mềm, đầu ống là một ngọn đèn để quan sát trực tràng và phần dưới ruột già
(sigmoidscope). Bác sĩ có thể cắt bỏ polyp nếu tìm thấy qua dụng cụ này.
3) Colonoscopy (nội soi toàn thể ruột già): Bác sĩ dùng dụng cụ tương tự như
sigmoidoscope nhưng dài hơn kể trên để quan sát các phần ruột già. Khi tìm thấy những
polyp, bác sĩ cắt bỏ và đem thử nghiệm dưới kính hiển vi.
4) Double-contrast barium enema: Bệnh nhân "rửa ruột" bằng chất lỏng chứa barium, và
một lượng không khí được bơm vào ruột già. Bác sĩ chụp nhiều hình quang tuyến, barium
và không khí giúp bác sĩ quan sát hình thể ruột già trên những tấm phim.
5) Rectal Exam: Khám nghiệm trực tràng là một phần của chương trình khám bệnh định
kỳ. Bác sĩ đeo găng dùng ngón tay đưa qua hậu môn truy tìm những khối u nằm ở vùng
hậu môn, trực tràng.
Có một số thử nghiệm khác đang được sử dụng trong vòng thí nghiệm, ta chưa có kết quả
chắc chắn về những loại thử nghiệm này, hiệu quả ra sao, có giúp tìm ra ung thư sớm hay
không và nhất là có kéo dài mạng sống con người hay không.
Bác sĩ khi khám bệnh sẽ tìm kiếm những yếu tố liên quan đến ung thư như tuổi thọ, tình
trạng sức khoẻ của thân nhân (có ung thư hay không), cách sinh sống, ăn uống, hút hoặc
nhai thuốc lào thuốc lá... trước khi áp dụng nhưng phương pháp thử nghiệm thích hợp.
Đây là lúc ta nên đặt câu hỏi về những phương pháp thử nghiệm nếu chưa hiểu rõ tại sao
những phương cách này được áp dụng.
N hững câu hỏi cho bác sĩ:
1. Bác sĩ dùng loại tn nào cho tôi? Tại sao?
2. Loại tn này tốn bao nhiêu tiền? Bảo hiểm của tôi có trả phí tổn không?
3. Tn có đau không? Có nguy hiểm gì không?
4. Bao nhiêu lâu sau khi tn thì có kết quả?
5. N ếu thử nghiệm có kết quả bất thường, làm thế nào để tôi biết tôi vị ung thư?
D. Triệu chứng
Ung thư có thể gây ra một hoặc nhiều triệu chứng sau đây:
- Bướu, u trong vú hoặc bất cứ bộ phận nào trong cơ thể
- Sự xuất hiện của mụt đen trên da hay sự thay đổi của những mụt đen ấy
- Vết lở không lành
- Ho không dứt, khản tiếng lâu không khỏi
- Sự thay đổi của bộ tiêu hóa (táo bón hoặc tiêu chảy) và bộ tiết niệu (đi tiểu khó khăn,
nước tiểu có máu...)
- Ăn khó tiêu, nuốt không trôi, nghẹn thức ăn
- Xuống hoặc lên cân không có lý do
- Xuất huyết
- Mệt mỏi, yếu đuối
Hầu hết những triệu chứng này không do ung thư, mà có thể do bướu lành hoặc những
chứng bệnh khác. Hãy đi khám bệnh sớm khi có một trong những triệu chứng trên. Đừng
chờ đợi, bệnh tật khi khám phá sớm, việc chữa trị sẽ hiệu quả hơn.
Thông thường, ung thư trong thời kỳ bắt đầu không gâyđau đớn. Khi có triệu chứng, cần
đi khám bệnh sớm, đừng chờ cho đến khi thân thể thấy đau đớn.
E. Chẩn đoán
Khi có triệu chứng hoặc các thử nghiệm tình nghi ung thư, bác sĩ cần tìm kiếm xem
những triệu chứng xuất phát từ ung thư hay những chứng bệnh khác. Bác sĩ có thể dùng
một hoặc nhiều phương pháp chNn bệnh sau khi khám bệnh.
Các loại thử nghiệm: Thử nước tiểu, máu hoặc những chất lỏng khác trong cơ thể giúp
bác sĩ định bệnh. Các loại thử nghiệm này cũng cho thấy sự hoạt động của các bộ phận
như thận. Hàm lượng cao của một vài chất có thể là dấu hiệu của ung thư. N hững đặc
chất này được gọi là “tumor markers”. Tuy nhiên kết quả thử nghiệm bất thường không
nhất thiết là ung thư. Bác sĩ không thể căn cứ vào các thử nghiệm kể trên để quyết đoán
là ung thư, việc chNn bệnh sẽ bao gồm kết quả của nhiều phương pháp khác nhau.
Hình ảnh (imaging)
Cách thử nghiệm dùng máy móc chụp những bộ phận trong cơ thể, truy tìm cá khối u. Có
nhiều loại hình ảnh:
1. X-rays: Chụp quang tuyến là cách thông thường nhất để quan sát bộ phận và xương
trong cơ thể.
2. Computerized Tomography Scan (CT Scan): Máy chụp quang tuyến chụp nhiều lần
một bộ phận; các hình ảnh này được liên kết với nhau qua máy điện toán. Bác sĩ có thể
dung phNm (contrast) để tạo hình ảnh rõ ràng hơn.
3. Radionuclide scanning: Bệnh nhân uống hoặc chích một dung dịch chứa chất phóng
xạ, những chất phóng xạ này theo máu luân lưu và cô đọng tại những nơi có tế bào ung
thư. Bác sĩ dùng dụng cụ dò tìm (scanner) và đo lường lượng chất phóng xạ. Máy dò tạo
ra hình ảnh của các bộ phận có chất phóng xạ.
4. Ultrasound (Siêu Âm): Siêu âm phát ra từ dụng cụ này dội lại trên màn ảnh, máy điện