Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Những điều cần biết về ung thư bàng quang - Phần 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.89 KB, 15 trang )

Những điều cần biết về ung thư bàng quang
Phần 2

Nhiều chương trình thử nghiệm lâm sàng cho mọi thời kỳ của ung thư
bàng quang đang tiến hành để tìm cách chữa hiệu quả hơn, quý vị nên hỏi
bác sĩ về những chương trình thử nghiệm này. Phần Thử Nghiệm Lâm Sàng
có nhiều chi tiết về cách chữa trị này.
Giải phẫu là cách chữa trị chính cho ung thư bàng quang; và phương
cách giải phẫu tùy thuộc vào thời kỳ và ""mức độ" của ung thư.
• Transurethral resection (TUR): Dùng để chữa loại ung thư
superficial; Bác sĩ dùng phương pháp nội soi, chuyển một ống nhỏ, mềm qua
ống tiểu, ở đầu ống có gắn một dụng cụ dùng để "cạo" tế bào ung thư, sau đó
dùng điện để đốt những tế bào còn lại gọi là fulguration. Bệnh nhân được
chữa tại bệnh viện và có thể cần thuốc mê. Sau cuộc giải phẫu này, bệnh
nhân có thể cần hóa chất trị liệu và sinh hóa trị liệu.
• Radical cystectomy: Loại ung thư lậm sâu hơn (invasive), bác sĩ sẽ
cần cắt bỏ bàng quang. Đôi khi, với loại ung thư cạn (superficial) nhưng với
một diện tích lớn, bác sĩ cũng cần cắt bỏ bàng quang. Khi cắt bỏ bàng quang,
bác sĩ sẽ cắt bỏ cả hạch bạch huyết lân cận, một phần ống tiểu (urethra), và
có thể một phần những bộ phận khác nơi ung thư đã lan đến. Ở phái nam,
những bộ phận này có thể bao gồm tuyến tiền liệt (nhiếp hộ tuyến, prostate),
túi chứa tinh dịch (seminal vesicles) và cả ống dẫn tinh (vas deferens). Ở
phái nữ, dạ con, buồng trứng, ống dẫn trứng (fallopian tubes) và một phần
âm hộ sẽ bị cắt bỏ.
• Segmental cystectomy: Bác sĩ cắt bỏ một phần bàng quang, phương
pháp này được sử dụng khi có một khối u nhỏ nhưng lậm sâu đến thành
bàng quang.
Đôi khi, ung thư đã lan đến những bộ phận lân cận và không thể cắt
bỏ hoàn toàn mọi bộ phận, bác sĩ sẽ cắt bỏ bàng quang, hoặc giữ lại bàng
quang nhưng tạo một ống thoát nước tiểu. Khi bàng quang bị cắt bỏ, bác sĩ
có thể tạo ra một túi bên trong cơ thể bằng ruột non để chứa nước tiểu hoặc


tạo ống dẫn ra ngoài cơ thể và đặt túi chứa.
Trước khi giải phẫu, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ:
-Bác sĩ sẽ thực hiện cách giải phẫu nào cho tôi?
- Tôi có thể tiểu tiện bình thường không?
-Nếu đau đớn, có thể dùng thuốc gì?
-Tôi sẽ ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu?
-Cuộc giải phẫu ảnh hưởng ra sao đến đời sống tình dục?
-Tôi có bị phản ứng phụ lâu dài hay không?
-Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường?
Xạ trị: Chữa trị ung thư tại chỗ bằng cách dùng chất phóng xạ để đốt
ung thư. Bác sĩ có thể dùng xạ trị trước hoặc sau khi giải phẫu. Đôi khi
không thể giải phẫu, bác sĩ dùng xạ trị để đốt khối u. Có hai loại xạ trị: Nội
và ngoại xạ trị.
• Ngoại xạ trị (external radiation): Một máy phóng xạ ở bện ngoài cơ
thể rọi tia phóng xạ đến khối u (xuyên qua da), cách chữa trị này thường kéo
dài 5 ngày một tuần và trong 5-7 tuần lễ. Đôi khi thời gian chữa trị có thể
ngắn hơn nếu có một khối phóng xạ (radiation implant) được đặt trong cơ
thể.
• Nội xạ trị: Bác sĩ đặt một dụng cụ chứa chất phóng xạ vào bàng
quang (qua ống tiểu hoặc cắt một lỗ nhỏ ở bụng). Bệnh nhân sẽ ở tại bệnh
viện và giới hạn việc thăm viếng bảo đảm sự an toàn cho người thăm viếng.
Sau khi dụng cụ chứa chất phóng xạ được lấy ra, cơ thể không còn chất
phóng xạ nữa.
Bác sĩ có thể dùng cả nội và ngoại xạ trị để chữa trị cho một số bệnh
nhân.
Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu cuộc xạ trị:
-Tại sao tôi cần loại chữa trị này?
-Bác sĩ chọn loại xạ trị nào cho tôi? Cả hai loại xạ trị có cần thiết
không?
-Khi nào thì việc chữa trị bắt đầu? Khi nào thì xong? Chữa trị bao

nhiêu lần?
-Tôi sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Tôi có cần vào bệnh viện không? Tôi cần
làm gì để tự chăm sóc trong khi và sau khi chữa trị?
-Tôi có thể tự đến nơi chữa trị hay không?
-Làm thế nào để biết là xạ trị có hiệu quả hay không?
-Có phản ứng phụ nào lâu dài hay không?
Hóa chất trị liệu: Bác sĩ có thể dùng một hoặc nhiều loại hóa chất
cùng lúc để chữa trị.
Với loại ung thư cạn (superficial), Bác sĩ có thể dùng intravesical
therapy, một loại chữa trị tại chỗ. Bác sĩ đặt một ống rỗng (catheter) vào
bàng quang (qua ống tiểu) rồi truyền hóa chất vào bàng quang. Hóa chất này
giữ trong bàng quang sau nhiều giờ, và chỉ ảnh hưởng đến tế bào tại bàng
quang. Bệnh nhân được chữa trị mỗi tuần trong nhiều tuần lễ có khi kéo dài
đến cả năm.
Khi ung thư ăn sâu hoặc đã lan khắp cơ thể, bác sĩ dùng cách chữa
toàn thân, hóa chất được đưa vào cơ thể qua mạch máu, máu luân lưu khắp
cơ thể. Hóa chất được dùng từng giai đoạn, giữa giai đoạn trị liệu là một thời
gian nghỉ ngơi.
Bác sĩ có thể dùng hóa chất trước hoặc sau khi giải phẫu và cả với xạ
trị. Hóa chất trị liệu thường được dùng tại trung tâm Y khoa, văn phòng bác
sĩ. Tuy nhiên tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và loại thuốc
sử dụng, bệnh nhân có thể cần vào bệnh viện một thời gian ngắn.
Sinh hóa trị liệu dùng sức đề kháng của cơ thể để chống lại ung thư.
Cách này thường được dùng để chữa loại ung thư cạn (superficial) sau khi
giải phẫu TUR để ngừa tái phát. Bác sĩ có thể dùng chất chứa bacille
Calmette-Guerrin, BCG, một loại vi trùng để kích thích sức đề kháng của cơ
thể và diệt tế bào ung thư. Dung dịch này được truyền vào bàng quang, giữ
tại bàng quang khoảng 2 tiếng sau đó được bài tiết ra ngoài. Cách chữa này
dùng mỗi tuần trong sáu tuần lễ.
Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị hóa chất

hoạt sinh hóa tố:
-Mục đích của việc chữa trị là gì? Có nhiều cách chữa để tôi chọn lựa
không? Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả?
-Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào?
-Có cách nào phòng ngừa không?
-Việc chữa trị sẽ tốn bao nhiêu? Bảo hiểm của tôi có trả chi phí
không?
-Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không?
-Tôi có cần ở lại bệnh viện không? Nếu có, bao nhiêu lâu?
-Thử nghiệm lâm sàng có phải là cách chữa trị cho tôi không?
-Sau khi trị liệu, tôi có phải khám bệnh đình kỳ thường xuyên không?
Phản ứng phụ của trị liệu
Việc chữa trị ung thư thường gây hư hoại cho những tế bào lành
mạnh, nên thường có phản ứng phụ. Phản ứng phụ tùy thuộc vào vị trí của
khối u, cách chữa trị và mức đọ chữa trị nhiều hay ít. phản ứng phụ không
xuất hiện giống nhau cho tất cả mọi người, có thể thay đổi từ lần chữa trị
này so với lần chữa trị khác. Trước khi chữa trị, bác sĩ sẽ giải thích việc
phản ứng phụ có thể xảy ra và cách ngăn ngừa.
Trong bất cứ thời kỳ nào của ung thư, supportive care (tạm dịch là
“chữa trị phụ” nhằm giúp bệnh nhân duy trì sức khỏe, chịu đựng những phản
ứng phụ, biến chứng từ việc chữa trị chính) cũng được sử dụng để giúp bệnh
nhân dễ chịu hơn. Tin tức về việc chữa trị được đăng tải trên trang nhà của
Viện Ung Thư Quốc Gia www.cancer.gov/cancertopics/coping, và
Information Specialists at 1-800-4-CANCER hoặc LiveHelp1
(
Giải phẫu
Vài ngày hậu giải phẫu TUR, bệnh nhân sẽ thấy máu trong nước tiểu
(hematuria), khó tiểu tiện hoặc đau rát khi tiểu tiện. Hậu giải phẫu cắt bỏ
một phần bàng quang, bệnh nhân đi tiểu nhiều lần vì dung tích bàng quang
nhỏ hơn khi trước và cảm thấy đau đớn, bác sĩ có thể dùng thuốc giảm đau.

Thời gian hồi phục không đồng nhất với mọi bệnh nhân.
Khi bàng quang bị cắt bỏ hoàn toàn, bác sĩ thường dùng một mảnh
ruột để tạo ra một ống rỗng, một đầu nối với ống dẫn nước tiểu từ thận, đầu
kia mở ra ngoài bụng; lỗ hổng này gọi là stoma, một túi plastic được dán vào
bụng để chứa nước tiểu thoát ra từ stoma. Cuộc giải phẩu tạo stoma gọi là
urostomy hoặc ostomy. Đôi khi bác sĩ dùng một mảnh ruột non để chế tạo
một túi chứa nước tiểu đặt trong bụng, miệng túi nối với ống tiểu (urethra)
hoặc với một stoma để dẫn nước tiểu ra ngoài cơ thể.
Với một số bệnh nhân, bác sĩ có thể tạo một túi chứa nước tiểu bên
trong cơ thể gọi là "continent reservoir", nước tiểu tích tụ tại đây và được
nối với ống tiểu hoặc lỗ hổng stoma.
Ung thư bàng quang có thể ảnh hưởng đến tình dục hoặc cả việc sinh
sản. Khi dạ con và buồng trứng bị cắt bỏ, phái nữ không thể sinh sản được
nữa và bị tắt kinh (menopause). Những triệu chứng liên quan đến việc tắt
kinh như nóng lạnh, khó chịu, khô da xuất hiện ngay và thường là trầm
trọng hon khi tắt kinh tự nhiên. Khi bác sĩ cắt bỏ cả một phần âm hộ thì việc
giao hợp trở nên khó khăn.
Trước đây hầu hết phái nam sau khi giải phẫu để chữa trị ung thư
bàng quang đều bị liệt dương (impotent). Ngày nay kỹ thuật giải phẫu tiến
bộ, liệt dương không còn là một biến chứng chính của hậu giải phẫu. Khi
tuyến tiền liệt và túi chứa tinh (seminal vesicles) bị cắt bỏ, sẽ không còn tinh
dịch(semen) khi thoát tinh (dry orgasm) hoặc không thoát tinh khi đến tuyệt
đỉnh của sự khoái cảm (sexual climax). Nếu muốn có con, quý ông nên dự
trữ tinh trùng (sperm banking) trước khi giải phẫu. Lo âu về phần tình dục là
điều dễ hiểu, quý vị nên thảo luận với bác sĩ về phản ứng phụ, và nên thảo
luận với quý vị tình cũng như tìm các phương cách khác để bày tỏ sự yêu
thương gần gũi trong khi và sau khi chữa trị.
Xạ trị
Hầu hết mọi bệnh nhân đều chịu phản ứng phụ sau cuộc xạ trị. Phản
ứng phụ tùy thuộc vào lượng và loại xạ trị. Phản ứng phụ thường biến mất

một thời gian ngắn sau khi xạ trị.
Ngoại xạ trị có thể làm sậm màu da tại nơi chiếu phóng xạ, da bị khô
và đỏ rát cũng như rụng lông. Tránh mặc quần áo cọ xát vào vùng da, và
không nên dùng kem thoa da nếu không có sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Bệnh nhân mệt mỏi mất sức sau xạ trị nhiều tuần lễ nên cần nghỉ ngơi;
tuy nhiên sự vận động giúp bệnh nhân lấy lại sức lực nhanh chóng hơn. Xạ
trị có thể gây giảm bạch cầu, loại tế bào máu giúp cơ thể đề kháng chống lại
nhiễm trùng. Khi lượng bạch cầu xuống thấp, bác sĩ có thể cách ly bệnh
nhân để ngừa nhiễm trùng hoặc ngưng xạ trị một thời gian cho đến khi số
bạch cầu trở lại bình thường.
Ngoài những biến chứng thông thường như khô da, phỏng da, mệt
mỏi, buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, xạ trị trị liệu có thể ảnh hưởng đến tình
dục. Phái nữ thường bị khô âm hộ và phái nam thường bị liệt dương trong
nhiều tuần lễ hậu trị liệu.
Hóa chất trị liệu
Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại và lượng hóa chất sử dụng. Ngoài ra
phản ứng phụ thay đổi tùy theo bệnh nhân. Loại hóa chất dùng trong bàng
quang gây đau rát và xuất huyết trong vài ngày, vài loại thuốc gây mề đay
ngứa ngáy khi chạm vào da hoặc bộ phận sinh dục.
Nói chung, hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư nên sẽ ảnh hưởng đến
những tế bào tăng trưởng nhanh chóng:
- Tế bào máu: Khi hóa chất chữa ung thư hạ thấp số tế bào máu khỏe
mạnh, bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng, bầm tím hoặc chảy máu dễ dàng, và mệt
mỏi, mất sức. Bác sĩ cần thử máu để đo lường số tế bào máu. Khi lượng tế
bào xuống thấp, bác sĩ có thể dùng thuốc kích thích tủy xương chế tạo tế bào
mới nhanh chóng hơn hoặc sẽ được truyền máu.
- Tế bào bọc quanh chân tóc: Hóa chất gây rụng tóc. Tóc sẽ mọc trở
lại sau khi chữa trị, tóc mới có thể khác màu hoặc thay đổi thể dạng.
- Tế bào lót các bộ phận tiêu hóa: Hoá chất có thể gây kém ăn, buồn
nôn và ói mửa, tiêu chảy, lở miệng.

Một vài loại hóa chất dùng để trị ung thư bàng quang có thể gây hoại
thận. Để phòng ngừa, bác sĩ tiếp rất nhiều nước biển qua mạch máu trước và
sau khi trị liệu. Bệnh nhân tiếp tục cần uống nhiều nước sau khi chữa trị.
Vài loại thuốc khác gây tê dại hoặc cảm giác kim châm tại đầu ngón
tay, ù tai hoặc điếc tai. các phản ứng phụ này sẽ giảm sau khi chữa trị xong.
Sinh hóa tố trị liệu
BCG gây khó khăn đau đớn khi tiểu tiện, tiêu chảy, xuất huyết và
nóng sốt là các biến chứng thường thấy.
Dinh dưỡng
Dinh dưỡng rất quan trọng trong mọi giai đoạn, trước khi, trong khi và
sau khi chữa trị ung thư. Bệnh nhân cần một lượng đầy đủ calorie, protein,
sinh tố, và khoáng chất. Khi cơ thể được bồi bổ đúng mức, bệnh nhân
thường cảm thấy dễ chịu hơn.
Tuy nhiên, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì nhiều
nguyên nhân, mệt mỏi, biếng ăn hoặc khó nuốt thức ăn. Khi dùng hóa chất
trị liệu, bệnh nhân có thể không còn nếm được thức ăn, hoặc cho rằng thức
ăn không còn hương vị, thơm ngon như trước. Bệnh nhân cũng có thể chịu
các phản ứng phụ như biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy.
Có nhiều cách để bồi bổ cơ thể khi không thể ăn uống đầy đủ. Hãy
thảo luận với chuyên viên về dinh dưỡng (registered dietitian) để chọn cách
dinh dưỡng thích hợp với đầy đủ calorie, protein, sinh tố (vitamins), và
khoáng chất (minerals).
Khi có thể, nên duy trì sự hoạt động, đi bộ, yoga, bơi lội hoặc những
hoạt động khác có thể gia tăng năng lực. Nên thảo luận với bác sĩ về việc
vận động cơ thể và báo cho bác sĩ biết khi việc vận động gây đau đớn.
Phục hồi
Phục hồi là một phần quan trọng của việc chữa trị ung thư, bác sĩ và
các chuyên viên y tế sẽ cố gắng giúp bệnh nhân phục hồi càng sớm càng tốt.
Mục đích của phục hồi tùy thuộc vào mức độ hư họai và loại trị liệu.
Chương trình phục hồi có thể từ cách chăm sóc lỗ hổng stoma, đến việc thay

đổi trong sinh hoạt hàng ngày, tiêu tiểu và hoạt động tình dục.
Thăm bệnh định kỳ
Sau khi chữa trị, bệnh nhân sẽ cần được khám bệnh định kỳ. Ngay cả
khi không có dấu hiệu nào về ung thư tái phát, vẫn cần thăm bệnh vì mầm
ung thư có thể còn sót lại trong cơ thể. Khám bệnh định kỳ giúp bác sĩ kiểm
soát theo dõi diễn tiến của bệnh trạng, các loại thử nghiệm như thử máu, thử
nước tiểu, nội soi hoặc những loại thử nghiệm khác.
Báo cho bác sĩ biết nếu bị bệnh giữa những buổi khám bệnh định kỳ.
Những nguồn hỗ trợ
Chứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người
bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên
điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua
những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu. Người bệnh có thể lo
âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt hàng ngày kể cả việc chịu
đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những chuyến ra vào bệnh viện, phản
ứng phụ và những phí tổn trị liệu.
Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ
hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm
hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn hỗ trợ chia sẻ qua quý vị hữu, thân
nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác.
Nguồn hỗ trợ có thể bao gồm: Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong
nhóm trị liệu có thể trả lời hầu hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng.
Chuyên viên xã hội, chuyên viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn giáo có
thể giúp đỡ phần tinh thần. Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc chỉ dẫn
những nguồn tài trợ, việc chuyên chở, trị liệu tại nhà…
Những nhóm hỗ trợ: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân
khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và
việc chữa trị. Những nhóm hỗ trợ này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện
thoại, hoặc qua internet.
Các chuyên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại miễn phí trên lãnh

thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương trình hỗ trợ, dịch vụ
và các tin tức tài liệu liên quan đến ung thư.
Sự hứa hẹn của ngành khảo cứu ung thư
Bác sĩ tại Hoa Kỳ đang thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng.
Thử nghiệm lâm sàng được hoạch định với mục đích trả lời các câu hỏi quan
trọng về cách trị liệu hữu hiệu nhất.
Những tìm hiểu khoa học đã tạo được nhiều lợi ích, giúp con người
sống lâu hơn, và khoa học tiếp tục tìm kiếm. Các chuyên gia đang tìm kiếm
phương pháp ngăn ngừa ung thư, cách tìm ra bệnh sớm hơn, cũng như cách
trị liệu hiệu quả hơn.
Các chuyên gia đang thử nghiệm các hóa chất trị liệu. Họ tìm hiểu
kiếm các loại thuốc mới, các cách dùng chung nhiều loại thuốc, và lượng
thuốc mới. Ngoài ra các chuyên gia cũng tìm cách tiết giảm phản ứng phụ
của việc trị liệu.

×