Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Những điều cần biết về ung thư gan - Phần 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.67 KB, 13 trang )

Những điều cần biết về
ung thư gan
Phần 2

Cắt bỏ một phần gan (partial hepatectomy)
Bệnn nhân có thể chịu đựng cuộc giải phẫu cắt bỏ một phần gan nếu
phần còn lại hoạt động bình thường và ung thư chưa lan đến các hạch bạch
huyết lân cận hoặc các phần khác của cơ thể. Bác sĩ cắt bỏ khối u cùng với
một ít những tế bào bình thường chung quanh (margin) của khối u. Việc cắt
bỏ tùy theo kích thước, số lượng và vị trí của các khối u trong gan. Cuộc giải
phẫu cũng tùy thuộc vào mức hoạt động của gan.
Bác sĩ có thể cắt bỏ cả 80% khối lượng của gan, những phần gan bình
thường còn lại sẽ hoạt động làm công việc biến dưỡng của bộ phận này. Gan
có thể sinh ra những tế bào mới, nhiều tuần lễ sau cuộc giải phẫu.
Sau khi mổ, cơ thể cần thời gian để phục hồi, và thời gian hồi phục
thay đổi theo mỗi bệnh nhân. Đau và khó chịu là những điều thường thấy
sau khi mổ, thuốc giảm đau sẽ giúp bệnh nhân dễ chịu hơn. Trước khi mổ,
nên thảo luận với bác sĩ về thuốc giảm đau. Sau khi mổ, bác sĩ có thể gia
giảm thuốc để giúp bệnh nhân dễ chịu hơn.
Mệt mỏi và mất sức là những triệu chứng thường kéo dài nhiều ngày
sau khi mổ, bệnh nhân cũng có thể bị tiêu chảy, cảm giác “trướng bụng”.
Các chuyên viên sẽ theo dõi tình trạng sức khỏe, và tìm dấu vết của
xuất huyết, nhiễm trùng, suy gan hoặc những triệu chứng khác.
Ghép gan
Ghép gan là cách chữa trị khi khối u còn nhỏ, ut chưa lan ra các bộ
phận khác, và có người tặng gan để ghép. Mô gan đến từ người tặng đã qua
đời hoặc người tặng còn sống. Khi nhận gan từ người còn sống, cuộc ghép
ganthường là một phần của lá gan. Trong khi chờ đợi gg, bệnh nhân được
theo dõi kỹ lưỡng và được chữa trị để có thể kéo dài sự sống.
Khi mô gan bình thường từ người tặng đến, bác sĩ ghép gancắt bỏ toàn
thể lá gan bị ut và thay vào đó là những mô gan bình thường. Sau khi mổ,


bệnh nhân sẽ cần thuốc giảm đau. Bệnh nhân sẽ phải ở lại bệnh viện nhiều
tuần lễ. Trong thời gian này, bệnh nhân được theo dõi tìm kiếm các dấu vết
về việc “chấp nhận” mô mới. Bệnh nhân dùng thuốc men ngăn hệ đề kháng
chống lại các tế bào mời ghép. Các loại thuốc này có thể gây sưng phù mặt
mũi, cao huyết áp và mọc lông trên thân thể.
“Ablation”
Cách chữa trị này hủy diệt tế bào ung thư trong gan, được dùng để
ngăn diễn tiến của ung thư gan và kéo dài sự sống, cũng có thể được dùng
trong khi chờ gg. Khi bệnh nhân không thể chịu đựng một cuộc giải phẫu vì
xơ gan hoặc vì gan không hoạt động bình thường, bác sĩ cũng dùng
“ablation”.
“Ablation” bao gồm nhiều cách:
• Radiofrequency ablation: Bác sĩ dùng dòng điện để hủy diệt tế bào
ung thư qua một dụng cụ có điện cực, CT, MRI hoặc siêu âm được dùng để
giúp bác sĩ định vị trí khối u. Bác sĩ chuyển dụng cụ qua một vết cắt nhỏ trên
da, vá chỉ cần dùng thuốc tê.
Đôi khi, bệnh nhân được chụp thuốc mê và bác sĩ dùng dụng cụ nội
soi đưa vào khoang bụng qua vết cắt nhỏ trên da. Bệnh nhân có thể đau đơn
hoặc lên cơn sốt sau khi chữa trị nhưng không cần ở lại bệnh viện qua đêm.
Radiofrequency ablation là một loại “hyperthermia therapy” nghĩa là
dùng nhiệt để diệt tbut. Các cách chữa trị dùng nhiệt khác bao gồm laser
hoặc microwave therapy, it được sử dụng hơn so với radiofrequency
ablation.
• Percutaneous ethanol injection: Bác sĩ dùng kim (xuyên qua da)
chích ethanol (một loại rượu cồn) vào khối u để diệt tbut. Bác sĩ có thể dùng
cách này 1 hoặc 2 lần mỗi tuần. Thông thường bác sĩ chỉ dùng thuốc tê;
nhưng đôi khi nhiều khối u và cần nhiều lần chích, bệnh nhân có thể được
chụp thuốc mê. Bệnh nhân có thể lên cơn sốt và cảm thấy đau đớn sau khi
chữa trị; và sẽ cần dùng thuốc giảm đau.
• Embolization: Khi bệnh nhân không thể chịu đựng một cuộc giải

phẫu, bác sĩ có thể dùng “embolization” hoặc “chemoembolization” để chữa
trị. Bác sĩ chuyển một ống nhựa dẻo qua động mạch đùi, chuyển đến động
mạch gan. Sau đó, truyền hóa chất làm nghẽn mạch máu gan. Tùy theo loại
hóa chất sử dụng, mạch máu gan có thể nghẽn tạm thời hoặc nghẽn vĩnh
viễn.
Khi không có máu nuôi dưỡng, khối u chết dần. Mặc dù động mạch
gan bị nghẽn, các mô gan khỏe mạnh nhận máu và chất dinh dưỡng từ tĩnh
mạch gan.
Với “chemoembolization”, bác sĩ truyền hóa chất trị liệu vào động
mạch trước khi truyền các hóa chất làm nghẽn mạch máu. Không máu luân
lưu, hóa chất trị liệu ngưng lại trong gan (khối u) lâu hơn.
Bệnh nhân ngủ trong khi chữa trị nhưng không được chụp thuốc mê,
bệnh nhân ở lại bệnh viện khoảng 2-3 ngày. Embolization thường gây đau
bụng, buồn nôn, ói mửa và sốt. Một số bệnh nhân mất sức sau khi chữa trị.
• Targeted therapy: Những bệnh nhân không thể chịu đựng giải phẫu
có thể được chữa trị với loại thuốc trong nhóm “Targeted therapy”. Nexavar
là loại thuốc đầu tiên được chứng nhận để chữa ung thư gan. “Targeted
therapy” làm chậm lại sự tăng trưởng của tế bào ung thư gan và cũng làm
giảm ượng máu đến gan. Đây là loại thuốc viên để uống. Phản ứng phụ bao
gồm buồn nôn, ói mửa, lở miệng, và giảm sự thèm ăn. Đôi khi bệnh nhân bị
đau ngực, xuất huyết hoặc lở da và cao huyết áp.
Xạ trị
Chất phóng xạ, tia phóng xạ được dùng để hủy diệt tế bào ung thư
ngay tại khối u. Đây là một cách chữa trị khi bệnh nhân không thể chịu đựng
một cuộc giải phẫu. Đôi khi được sử dụng cùng với các cách chữa trị khác.
Xạ trị cũng được dùng để giảm đau đớn khi ung thư đã lan đến xương.
Bác sĩ có thể dùng “ngoại xạ trị” (external radiation). Đây là loại xạ trị
thông dụng cho ung thư gan. Tia phóng xạ đến từ một bộ máy phát xạ bên
ngoài cơ thể đén ngực và bụng.
Loại xạ trị khác có tên là “nội xạ trị” (internal radiation). Nguồn

phóng xạ được đặt trong cơ thể dưới dạng “viên”. Bác sĩ dùng ống rỗng để
chuyển các viên phóng xạ này đến động mạch gan. Chất phóng xạ hủy diệt
nguồn máu nuôi dưỡng khối u.
Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại xạ trị, mức lượng, và phần thân thể
cần chữa trị, thường thấy là buồn nôn, ói mửa hoặc tiêu chảy.
Hóa chất trị liệu
Hoá chất là những dược phẩm diệt tế bào ung thư. Thuốc vào máu,
luân lưu khắp cơ thể và ảnh hưởng đến tế bào ung thư ở mọi nơi trong cơ
thể, thuốc được truyền qua tĩnh mạch. Bệnh nhân có thể được chữa trị tại
trung tâm Y tế, tại văn phòng bác sĩ, hoặc tại nhà. Đôi khi, bệnh nhân cần
được chữa trị tại bệnh viện.
Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại thuốc và lượng thuốc sử dụng,
thường thấy là buồn nôn, ói mửa, giảm sự them ăn, nhức đầu, sốt, nóng lạnh,
và mệt mỏi. Một vài loại thuốc làm giảm hồng cầu (gây mệt mỏi), tiểu cầu
(dễ xuất huyết), và bạch cầu (dễ nhiễm trùng). Bác sĩ cần theo dõi bệnh nhân
để tìm kiếm các dấu hiệu kể trên hầu chữa trị kịp thời.
Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị hóa
chất:
• Ung thư ở thời kỳ nào? Đã lan xa chưa? Tôi có bị xơ gan không? Tôi
sẽ được chữa trị bằng những thứ thuốc nào?
• Tôi có cần thử nghiệm để biết có thể giải phẫu không?
• Tôi sẽ được chữa trị tại đâu?
• Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi chữa trị?
• Mục đích của việc chữa trị là gì? Có nhiều cách chữa để tôi chọn lựa
không? Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả?
• Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách
nào phòng ngừa không?
• Việc chữa trị sẽ tốn bao nhiêu? Bảo hiểm của tôi có trả chi phí
không? Có cuộc thử nghiệm lâm sàng nào hợp với bệnh trạng của tôi không?
Ý kiến thứ nhì

Trước khi bắt đầu việc chữa trị, quý vị có thể tham khảo một bác sĩ
khác để lấy ý kiến về chẩn đoán và chữa trị. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi
phí này nếu quý vị hoặc bác sĩ yêu cầu.
Quý vị nên tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia về các cách chữa
trị khác nhau, bác sĩ giải phẫu gan-mật, bác sĩ chuyên về xạ trị, và bác sĩ
chuyên về ut.
Quý vị cần một thời gian để thu góp tài liệu, y sử, các kết quả thử
nghiệm và sắp xếp buổi tham khảo với một bác sĩ khác. Việc chờ đợi thường
không ảnh hưởng đến kết quả của việc chữa trị. Để an tâm hơn, quý vị có thể
thảo luận về việc chờ đợi này với bác sĩ của mình.
Nhiều cách để tìm một bác sĩ cho ý kiến thứ nhì: Hỏi bác sĩ của mình,
hỏi chi tiết tại bệnh viện, những tổ chức y tế địa phương, trường Y khoa…
để lấy tên một vị bác sĩ chuyên khoa.
Supportive Care (tạm dịch là “chữa trị phụ” nhằm giúp bệnh nhân duy
trì sức khỏe, chịu đựng những phản ứng phụ, biến chứng từ việc chữa trị
chính).
Ung thư gan và việc chữa trị có thể dẫn đến nhiều biến chứng ảnh
hưởng đến sức khỏe và sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân. Bác sĩ có thể
dùng “suportive care” hay “chữa trị phụ” trước khi, trong khi hoặc cả sau khi
chữa trị ung thư (việc chính).
Chữa trị phụ bao gồm việc ngăn ngừa hoac chữa trị nhiễm trùng, giảm
đau đớn và những phản ứng phụ khác. Cách chữa trị này giúp bệnh nhân dễ
chịu hơn.
Giảm đau
Ung thư gan và việc chữa trị có thể gây đau đớn. Bác sĩ và các chuyên
viên có thể dùng nhiều cách giảm đau:
Thuốc men: giúp giảm đau nhưng thường gây táo bón, ngầy ngật, khó
chịu, bệnh nhân có thể dùng thêm thuốc nhuận trường.
Xạ trị: đốt khối u và giảm đau đớn
Ức chế thần kinh (Nerve Block): Bác sĩ có thể chích rượu cồn vào

thần kinh để ức chế việc dẫn truyền cảm giác đau đớn đến não bộ.
Một số việcchữa trị khác như châm cứu, thoa bóp có thể giúp bệnh
nhân dễ chịu hơn, cũng như các kỹ thuật dưỡng tâm thần để giảm đau.
Dinh dưỡng
Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng để duy trì sức khỏe là điều quan
trọng. Bệnh nhân cần duy trì trọng lượng, cần có đủ lượng chất đạm để nuôi
dưỡng các hoạt động của cơ thể. Đôi khi sau những lần chữa trị, bệnh nhân
bị mất sức, mệt mỏi và biếng ăn. Thực phẩm không còn sức hấp dẫn, và
những vết lở trong miệng gây khó khăn cho việc nhai nuốt… Những yếu tố
này khiến bệnh nhân bỏ ăn uống.
Các chuyên viên về dinh dưỡng có thể chỉ dẫn những món thức ăn có
nhiều calorie, nhiều chất đạm… để giúp bệnh nhân chóng hồi phục.
Những nguồn hỗ trợ
Chứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người
bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên
điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua
những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu. Người bệnh có thể lo
âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt hàng ngày kể cả việc chịu
đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những chuyến ra vào bệnh viện, phản
ứng phụ và những phí tổn trị liệu.
Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ
hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm
hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn hỗ trợ chia sẻ qua bạn hữu, thân
nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác.
Nguồn hỗ trợ có thể bao gồm:
• Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong nhóm trị liệu có thể trả lời hầu
hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng.
• Chuyên viên xã hội, chuyên viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn
giáo có thể giúp đỡ phần tinh thần. Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc
chỉ dẫn những nguồn tài trợ, việc chuyên chở, trị liệu tại nhà…

• Những nhóm hỗ trợ: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân
khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và
việc chữa trị. Những nhóm hỗ trợ này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện
thoại, hoặc qua internet.
• Các chuyên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại miễn phí trên lãnh
thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương trình hỗ trợ, dịch vụ
và các tin tức, tài liệu liên quan đến ung thư.
Sự hứa hẹn của ngành khảo cứu ung thư
Bác sĩ tại Hoa Kỳ đang thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng.
Thử nghiệm lâm sàng được hoạch định với mục đích trả lời các câu hỏi quan
trọng về cách trị liệu hữu hiệu nhất. Những tìm hiểu khoa học đã tạo được
nhiều lợi ích, giúp con người sống lâu hơn, và khoa học tiếp tục tìm kiếm.
Các chuyên gia đang tìm kiếm phương pháp ngăn ngừa ung thư, cách tìm ra
bệnh sớm hơn, cũng như cách trị liệu hiệu quả hơn.
• Ngăn ngừa: Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ bảo trợ những cuộc
khảo cứu tìm hiểu tính hiệu quả của các hóa chất có thể ngăn ngừa chứng
ung thư.
• Truy tìm: Bác sĩ đang tìm hiểu xem các loại thử nghiệm mới có thể
tìm ra ung thư sớm và giảm thiểu nguy cơ tử vong từ chứng bệnh này.
• Trị liệu: Chuyên gia đang tìm hiểu những cách chữa trị mới, và tìm
hiểu việc dùng nhiều cách chữa trị chung với nhau.
• Giải phẫu: Các bác sĩ giải phẫu đang tìm hiểu việc cắt bỏ tối thiểu
các mô và dùng nội xạ trị để hủy diệt các tế bào ung thư còn sót lại; chưa
biết cách trị liệu này có hiệu quả hơn không so với việc cắt bỏ một khối u
lớn.
• Hóa chất: Các chuyên gia đang thử những loại dược phẩm mới, và
thử dùng nhiều loại dược phẩm chung với nhau. Họ cũng đang thử dùng hóa
chất chung với xạ trị xem việc trị liệu có hiệu quả hơn không.
• Targeted therapy: Bác sĩ đang thử việc chung “targeted therapy” với
hóa chất và xạ trị.

Nếu quý vị muốn tham gia cuộc thử nghiệm lâm sàng, hãy nói chuyện
với bác sĩ của mình. Những người tình nguyện tham dự các cuộc khảo cứu
này đã đóng góp rất nhiều cho nhân loại trong việc tìm hiểu chứng ung thư
và cách chữa trị hiệu quả hơn. Thử nghiệm lâm sàng có thể mang lại ít nhiều
rủi ro, chuyên gia khảo cứu tận lực để bảo vệ bệnh nhân trong các cuộc khảo
cứu này.


×