Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Những điều cần biết về ung thư gan - Phần 1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.15 KB, 12 trang )

Những điều cần biết về
ung thư gan
Phần 1


Gan là bộ phận lớn nhất trong cơ thể; nằm sau lồng ngực bên phải
khoang bụng. Gan có hai phần, thùy phải và thùy trái.
Gan giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng trong việc duy trì sức khỏe. Gan
“lọc” bỏ những chất độc trong máu. Gan tạo ra phân hóa tố và mật giúp tiêu
hóa thức ăn. Gan biến hóa thức ăn thành những dưỡng chất nuôi sống cơ thể.
Gan nhận máu từ hai mạch máu: Tĩnh mạch gan (hepatic portal vein)
và động mạch gan.


Hiểu biết căn bản về ung thư
Ung thư khởi đầu từ tế bào, đơn vị căn bản của mọi mô, mô tạo thành
bộ phận.
Bình thường, tế bào khỏe mạnh sinh sản và tăng trưởng tạo ra những
tế bào con khi cần thiết. Khi tế bào khỏe mạnh già lão hoặc bị hư hoại,
chúng chết, và các tế bào mới thay thế.
Đôi khi, quá trình sinh-tử trật tự kể trên bị đảo lộn. Tế bào mới xuất
hiện trong khi cơ thể không cần đến, hoặc tế bào già lão, hư hoại không chết
như đã định, sự tích tụ của các tế bào mới và cũ tạo thành khối gọi là "khối
u“, bướu hay "tumor“.
Khối u (bướu) có thể "lành" (benign) hoặc "độc“ (malignant). Bướu
lành thường không độc hại như bướu độc.
Bướu lành:
• Ít khi gây tử vong
• Thường không cần giải phẫu để cắt bỏ
• Không ăn lậm (invasive) đến các mô lân cận
• Không lan xa đến những bộ phận khác trong cơ thể


Bướu độc:
• Có thể gây tử vong
• Có thể tái phát sau khi đã được cắt bỏ, chữa trị
• Có thể ăn lậm đến các mô lân cận
• Lan ra các bộ khác
Tế bào ung thư lan rộng bằng cách tách rời từ khối u đầu tiên hay khối
ung thư nguyên phát (primary tumor). Các tế bào này theo mạch máu (blood
vessel) hoặc mạch bạch huyết (lymph vessel) đến mọi bộ phận trong cơ thể.
Tế bào ung thư có thể “bám“ vào các bộ phận và sinh sản, tạo nên một khối
u mới hay khối ung thư thứ phát (secondary tumor), có thể gây hư hoại các
bộ phận này. Sự lan tràn của tế bào ung thư gọi là “metastasis“.
Hầu hết các khối ung thư gan nguyên phát bắt đầu từ tế bào gan
(hepatocyte). Loại ung thư này được gọi là hepatocellular carcinoma hoặc
malignant hepatoma.
Khi ung thư gan lan tràn bên ngoài gan, tế bào ung thư thường lan đến
các hạch bạch huyết lân cận, đến xương và đến phổi. Khi đén các bổ phận kể
trên, khôi u mới cũng bao gồm các tế bào ung thư gan. Thí dụ như khi ung
thư gan lan đến phổi vẫn được gọi là ung thư gan và chữa trị như ung thư
gan (không phải ung thư phổi).
Tương tự, khi ung thư lan đến gan từ những khối u xuất phát từ các bộ
phận khác; chứng ung thư này khác với ung thư gan. Bác sĩ có thể dùng tên
gọi “ung thư gan thứ phát” để chỉ loại ung thư này. Tại Hoa Kỳ, ung thư gan
thứ phát thường thấy nhiều hơn là ung thư gan nguyên phát.
Những yếu tố gia tăng nguy cơ bị ung thư gan
Y học chưa biết rõ nguyên nhân của ung thư gan và cũng không thể
giải thích tại sao người này bị ung thư mà người khác không bị ung thư. Tuy
nhiên Y học đã có thể dùng thống kê để nhận định một số yếu tố gia tăng
nguy cơ bị ung thư gan. Các yếu tố này bao gồm:
• Nhiễm trùng (hepatitis) do siêu vi khuẩn hepatitis B (HBV)
hoặc hepatitis C (HVC): Ung thư gan xuất hiện sau nhiều năm bị nhiễm

trùng bởi siêu vi khuẩn kể trên. Khắp thế giới, nhiễm trùng HVB hoặc HVC
là nguyên nhân chính gây ung thư gan. HVB và HVC có thể lan từ người
này sang người khác qua máu (như khi dùng chung kim chích) hoặc sự giao
hợp. Hài nhi có thể bị nhiễm trùng truyền sang từ người mẹ. Mặc nhiễm
trùng các siêu vi khuẩn kể trên là bệnh truyền nhiễm, ung thư gan không lan
từ người này sang người khác.
Sự nhiễm trùng có thể không gây triệu chứng, nhưng khi thử máu có
thể tìm thấy dấu vết của siêu vi khuẩn. Bác sĩ có thể tìm cách chữa trị và
thảo luận cách ngăn ngừa việc truyền nhiễm, gây bệnh cho người khác.
Thuốc chủng ngừa nhiễm trùng viêm gan B được dùng để chủng ngừa
cho những người chưa hề bị nhiễm trùng, phòng ngừa nhiễm trùng và ung
thư gan về sau. Thuốc chủng ngừa viêm gan C còn nằm trong vòng thử
nghiêm, chưa được sử dụng.
• Uống rượu nhiều: Uống nhiều hớn hai ly rượu mỗi ngày trong
nhiều năm gia tăng nguy cơ bị ung thư gan và một số ung thư khác. Tỷ lệ bị
ung thư gia tăng với lượng rượu uống.
• Bệnh gan do tích tụ sắt: Những người tích tụ sắt trong gan
hoặc các bộ phận khác có nguy cơ bị ung thư gan.
• Xơ gan là một chứng bệnh xuất hiện khi tế bào gan bị hư hoại
và được thay thế bằng những mô liên kết (mô sợi) tạo thành “thẹo”. Xơ gan
có thể do nghiện rượu lâu năm, thuốc và hóa chất, HVB / HVC hoặc ký sinh
trùng. Khoảng 5% những người bị xơ gan bị ung thư gan.
• Aflatoxin: Ung thư gan có thể do aflatoxin, một độc tố do nấm
mốc (mold) tạo ra. Aflatoxin đến từ mốc trên đậu phụng, bắp ngô hoặc
những hạt ngũ cốc khác. Tại Á Chaau và Phi Châu, thực phẩm bị tạp nhiễm
aflatoxin là việc thường xảy ra. Tại Hoa Kỳ, cơ quan FDA cấm bán những
thực phẩm chứa một lượng cao aflatoxin.
• Mập phì và tiểu đường: gia tăng nguy cơ bị ung thư gan.
Chịu càng nhiều yếu tố kể trên, nguy cơ bị ung thư gan càng cao. Tuy
nhiên, ung thư gan xuất hiện trong nhiều người không có yếu tố nguy hại và

ngược lại.
Triệu chứng
Ung thư gan đôi khi là chứng bệnh “thầm lặng” vì những giai đoạn
đầu thường không có triệu chứng nào. Khi ung thư phát tác, có thể tạo các
triệu chứng sau:
• Đau tại bụng trên, bên phải; sự đau đớn có thể lan ra sau lưng
và bả vai
• Trướng bụng
• Xuống cân
• Giảm sự them ăn, luôn cảm thấy “no”
• Mất sức, mệt mỏi
• Buồn nôn và ói mửa
• Vàng da và mắt, nước tiểu xậm màu
• Sốt
Những triệu chứng này không chắc chắn là do ung thư gan; những
chứng bệnh khác cũng có thể tạo triệu chứng tương tự. Khi có các triệu
chứng này, cần đi khám bệnh để tìm nguyên nhân, càng sớm càng tốt.
Chẩn đoán
Bác sĩ chẩn đoán bệnh ung thư gan qua những thử nghiệm sau:
• Khám tổng quát để tìm kiếm dấu vết của sự sưng trướng gan,
lá lách, tìm kiếm những khối u trong khoang bụng, tìm kiếm dấu vết của
nước tích tụ trong khoang bụng, khám da.
• Thử máu nhiều loại kể cả đo lượng alpha-fetoprotein (AFP).
Một lượng AFP cao có thể là dấu hiệu của ung thư gan. Những loại thử
nghiệm khác cho biết tình trạng hoạt động của gan.
• CT scan chụp hình và đo kích thước của gan và các bộ phận
lân cận trong khoang bụng. Bác sĩ có thể dùng thuốc nhuộm (dye) để tạo
hình ảnh rõ hơn khi chụp hình.
• Siêu âm: âm thanh của những làn sóng khi dội lạin tạo ra hình
ảnh của các bộ phận trong khoang bụng. Khối u có thể tạo những hình ảnh

khác biệt với bộ phận bình thường.
• MRI chụp hình các bộ phận trong khoang bụng.
• Angiogram: Bác sĩ chích thuốc nhuộm vào động mạch để nhìn
rõ các mạch máu tại gan, tìm kiếm dấu vết ung thư. Bệnh nhân được thử
nghiệm tại bệnh viện.
Sinh thiết:
Bác sĩ lấy ra một mảnh gan và gửi đến phòng thí nghiệm. Bác sĩ Bệnh
Lý sẽ khảo sát các tế bào gan dưới kính hiển vi xem những tế bào có bình
thường hay không.
Bác sĩ chích mô bằng nhiều cách:
• Dùng kim nhỏ xuyên qua da bụng để rút ra một ít mô gan, cách
này gọi là “fine-needle aspiration”. Bác sĩ có thể dùng CT hoặc siêu âm để
thăm dò vị trí của khối u trước khi đâm kim.
• Dùng cách nội soi (đặt ống có kính hiển vi và dao mổ) vào
khoang bụng để trích mô thì gọi là “laparoscopy”, hoặc
• Mổ và lấy mô.
Quý vị có thể đặt những câu hỏi sau trước khi bác sĩ trích mô (làm
sinh thiết):
• Trích mô ảnh hưởng đến việc chữa trị ra sao?
• Bác sĩ chọn phương thức nào để trích mô?
• Việc trích mô kéo dài bao nhiêu lâu? Tôi sẽ thức trong khi làm sinh
thiết? Có đau đớn lắm không?
• Làm sinh thiết có rủi ro không? Có gây ra việc lan tràn ung thư
không? Tôi có bị xuất huyết? Nhiễm trùng?
• Chừng nào thì tôi biết kết quả? Ai sẽ là người giải thích kết quả cho
tôi hiểu?
• Nếu tôi bị ung thư, ai sẽ là người nói chuyện với tôi về những bước
sắp tới? Và bao giờ?
Định kỳ
Để hoạch định chương trình chữa trị thích hợp, bác sĩ cần định thời kỳ

của ung thư, xem ung thư đã lan chưa, nếu có, đã lan tới bộ phận nào trong
cơ thể trước khi chữa trị. Khi tế bào ung thư lan tràn, các tế bào này có thể
xuất hiện trong phổi, tại xương, và cả những hạch bạch huyết gần gan. Khi
ung thư lan đến các bộ phận khác, khối u mới có cùng loại tế bào như các tế
bào ung thư tại khối u gốc. Thí dụ khi ung thư gan lan đến xương, khối u tại
xương bao gồm những tế bào ung thư gan. Khối u mới có tên là “metastatic
liver disease” hay ung thư gan đã lan tràn, và được chữa trị như ung thư gan.
Bác sĩ có thể dùng một hoặc nhiều các loại thử nghiệm sau:
CT scan ngực tìm dấu vết ung thư tại phổi
Bone scan: Bác sĩ chích một lượng nhỏ phóng xạ và mạch máu, chất
phóng xạ luân lưu trong máu và tích tụ tại xương nới các tế bào đang tăng
trưởng. Máy thăm dò đo lượng phóng xạ và hiện trên màn ảnh những phần
xương có chất phóng xạ.
PET scan: Tương tự loại dụng cụ này dò tìm nơi các tế bào đang tăng
trưởng, cần nhiều năng lượng. Tế bào ung thư tăng trưởng nhanh chóng nên
cần năng lượng nhiều hơn so với tế bào bình thường.
Chữa trị
Việc chữa trị ung thư gan bao gồm giải phẫu (kể cả thay gan),
“ablation” hay cắt bỏ, hủy diệt khối u, “embolization” hay làm nghẽn mạch
máu nuôi khối u (thiếu dinh dưỡng, khối u sẽ tự hủy diệt), targeted therapy,
xạ trị, vào hóa chất. Bệnh nhân có thể được chữa trị với nhiều cách kể trên.
Việc chữa trị tùy thuộc vào những yếu tố sau:
• Số lượng, kích thước, và vị trị của những khối u trong gan
• Mức hoạt động của gan và gan có bị xơ hay không
• Ung thư đã lan đến những bộ phận khác hay không.
Những yếu tố khác bao gồm tuổi tác, sức khỏe toàn diện, và biến
chứng hoặc phản ứng phụ từ việc trị liệu.
Hiện nay, việc chữa trị ung thư gan chỉ hiệu quả khi ở giai đoạn đầu
(trước khi lan tràn) và chỉ có những bệnh nhân tương đối khỏe mạnh có thể
chịu đựng cuộc giải phẫu. Những bệnh nhân không chịu đựng được cuộc

giải phẫu, các cách chữa trị khác có thể giúp bệnh nhân sống lâu hơn và bớt
đau đớn trong thời gian còn lại. Bác sĩ thường khuyến khích bệnh nhân bị
ung thư gan tham gia cuộc thử nghiệm lâm sàng, thử nghiệm các cách chữa
trị mới.
Bác sĩ cũng có thể giới thiệu bệnh nhân đến các chuyên viên khác
hoặc tự bệnh nhân muốn được chuyển bệnh. Chuyên gia chữa trị ung thư
gan bao gồm bác sĩ giải phẫu [đặc biệt là bác sĩ giải phẫu gan-mật
(hepatobiliary surgeon), bác sĩ giải phẫu ung thư, bác sĩ ghép bộ phận
(transplant surgeon)], bác sĩ chuyên môn về tiêu hóa (gastroenterologist),
bác sĩ chuyên trị ung thư, và bác sĩ chuyên về xạ trị. Ngoài ra, còn có sự
tham dự của các Y tá chăm sóc ung thư và các chuyên viên về dinh dưỡng
(registered dietician).
Các chuyên viên giải thich về các cách chữa trị, mức hiệu quả và phản
ứng phụ có thể xảy ra. Chữa trị ung thư thường ảnh hưởng đến cả những mô,
những tế bào bình thường nên phản ứng phụ cũng thường xuất hiện. Trước
khi bắt đầu việc chữa trị, hãy thảo luận với bác sĩ về phản ứng phụ có thể
xảy ra và việc chữa trị sẽ ảnh hưởng đến đời sống hằng ngày như thế nào.
Bác sĩ và bệnh nhân cùng quyết định về việc chọn một cách chữa trị thích
hợp.
Giải phẫu
Giải phẫu có thể được áp dụng trong những trường hợp ung thư gan
mới phát. Bác sĩ có thể cắt bỏ toàn bộ lá gan hoặc chỉ một phần bị ung hoại.
Khi gan bị cắt bỏ hoàn toàn bác sĩ sẽ ghép các mô gan mới từ người tặng.
Bác sĩ và bệnh nhân nên thảo luận về loại giải phẫu thích hợp.

×