TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA VẬT LÝ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(Khóa 31, niên khóa 2005 - 2010)
ĐỀ TÀI:
LỰA CHỌN HỆ THỐNG BÀI TẬP, HƯỚNG DẪN GIẢI VÀ GIẢI BÀI TẬP VẬT LÝ
(CHƯƠNG “DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU” LỚP 12 - CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO)
GVHD: ThS. Thầy Lê Ngọc Vân
SVTH : Tạ Khánh Quỳnh
Lớp : Lý 5 Bình Thuận
TP. Hồ Chí Minh Tháng 5 / 2010
Trang 1
LỜI NÓI ĐẦU
Luận văn “Lựa chọn hệ thống bài tập, hướng dẫn giải và giải bài tập vật lý (Chương
“Dòng điện xoay chiều” – Lớp 12 Chương trình nâng cao)” được viết trên tinh thần nhằm giúp
học sinh có những hiểu biết đầy đủ về phương pháp giải các dạng bài tập vật lý “Dòng điện
xoay chiều” lớp 12, trên cơ sở đó rèn luyện được kĩ năng giải các dạng bài tập này.
Nội dung luận văn này được viết theo chủ đề, dạng toán cụ thể, bám sát nội dung của sách
giáo khoa vật lý lớp 12 nâng cao, gồm các mục chính sau:
• Mục “Tóm tắt lý thuyết” tóm tắt các kiến thức cần thiết để giải các bài tập dòng điện xoay
chiều.
• Mục “Các dạng bài tập và phương pháp giải” gồm hai phần:
- Bài tập định tính: giới thiệu một số bài tập định tính, đưa ra các câu hỏi gợi ý hướng
dẫn học sinh giải các bài đó.
- Bài tập định lượng: giới thiệu các dạng bài tập định lượng thường gặp, phương pháp
giải các dạng bài tập này, kèm theo một số bài tập từ căn bản đến nâng cao và hướng
dẫn học sinh giải đối với từng bài.
• Mục “Một số bài tập trắc nghiệm rèn luyện” giới thiệu một số bài tập trắc nghiệm bao quát
nội dung các kiến thức trong từng chủ đề, từng dạng để giúp học sinh rèn luyện thêm, đồng
thời có đáp án và hướng dẫn lời giải ngắn gọn để học sinh có thể tham khảo.
Các bài tập được trình bày trong luận văn đều có phương pháp giải và hướng dẫn giải cụ
thể từ đó có thể giúp học sinh giải được các bài tập tương tự, rèn luyện kĩ năng giải bài tập,
phát triển năng lực tự làm việc của học sinh.
Để được làm khóa luận này, em xin chân thành cám ơn toàn thể quý thầy cô Khoa Vật Lý
– Trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh đã tận tình dạy dỗ em trong suốt 5 năm học vừa
qua. Và để hoàn thành luận văn này, em kính gởi lời cám ơn chân thành, sâu sắc đến thầy Lê
Ngọc Vân, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, sửa chữa những sai sót mà em mắc phải trong
quá trình làm luận văn này. Đồng thời, em xin cám ơn các bạn trong lớp Lý Bình Thuận niên
khóa 2005 – 2010, đã đóng góp ý kiến, giúp đỡ em về tài liệu để em có thể hoàn thành đề tài
này đúng thời hạn.
Mặc dù đã đầu tư công sức, cố gắng và cẩn thận, nhưng do điều kiện về thời gian, hạn chế
về kiến thức và kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy thực tế chưa nhiều nên chắc chắn luận
văn này vẫn còn nhiều thiếu sót. Em kính mong nhận được những ý kiến đóng góp chân tình
của quý thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
Trang 2
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài 6
II. Mục đích nghiên cứu 6
III. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
IV. Phương pháp nghiên cứu 6
V. Điều kiện thực hiện đề tài 7
Phần lý luận chung
I. Những cơ sở lý luận của hoạt động giải bài tập vật lý phổ thông 8
1. Mục đích, ý nghĩa của việc giải bài tập vật lý trong dạy học vật lý 8
2. Tác dụng của bài tập trong dạy học vật lý 9
II.Phân loại bài tập vật lý 10
1. Phân loại theo phương thức giải 10
2. Phân loại theo nội dung 11
3. Phân loại theo yêu cầu rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy học sinh trong quá trình dạy
học, có thể phân biệt các bài tập luyện tập và bài tập sáng tạo 11
4. Phân loại theo cách thể hiện bài tập 12
5. Phân loại theo hình thức làm bài 12
III. Phương pháp giải bài tập vật lý 12
1. Tìm hiểu đầu bài, tóm tắt các dữ kiện 13
2. Phân tích hiện tượng 13
3. Xây dựng lập luận 13
4. Lựa chọn cách giải cho phù hợp 14
5. Kiểm tra, xác nhận kết quả, và biện luận 14
IV. Xây dựng lập luận trong giải bài tập 14
1. Xây dựng lập luận trong giải bài tập định tính 14
2. Xây dựng lập luận trong giải bài tập tính toán 15
V. Hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lý 16
1. Hướng dẫn theo mẫu (Angorit) 17
2. Hướng dẫn tìm tòi (Ơrixtic) 17
3. Định hướng khái quát chương trình hóa 17
VI. Lựa chọn và sử dụng bài tập trong dạy học vật lý 18
1. Lựa chọn bài tập 18
2. Sử dụng hệ thống bài tập 19
Phần vận dụng 21
Lựa chọn hệ thống bài tập và phương pháp giải bài tập chương “Dòng điện xoay chiều” lớp 12
– Chương trình nâng cao
A. Tóm tắt lý thuyết 21
B. Hệ thống bài tập và phương pháp giải 28
I. Bài tập định tính 28
1. Đề bài 28
2. Hướng dẫn giải và giải 28
II. Bài tập định lượng 33
Chủ đề 1: Dòng điện xoay chiều – Mạch điện xoay chiều không phân nhánh
(Mạch R, L, C mắc nối tiếp) 33
1. Dạng 1: Cách tạo ra dòng điện xoay chiều 33
Trang 3
1.1. Phương pháp giải chung 33
1.2. Bài tập về cách tạo ra dòng điện xoay chiều 33
1.3. Hướng dẫn giải và giải 34
2. Dạng 2: Viết biểu thức cường độ dòng điện và điện áp 41
2.1 . Phương pháp giải chung 41
2.2. Bài tập về viết biểu thức cường độ dòng điện và điện áp 42
2.3. Hướng dẫn giải và giải 43
3. Dạng 3: Cộng hưởng điện 53
3.1. Phương pháp giải chung 53
3.2. Bài tập về cộng hưởng điện 53
3.3. Hướng dẫn giải và giải 54
4. Dạng 4 : Hai đoạn mạch có điện áp cùng pha, vuông pha 62
4.1. Phương pháp giải chung 62
4.2. Bài tập về hai đoạn mạch có điện áp cùng pha, vuông pha 62
4.3. Hướng dẫn giải và giải 63
5. Dạng 5 : Công suất của đoạn mạch R, L, C mắc nối tiếp 69
5.1. Phương pháp giải chung 69
5.2. Bài tập về công suất của đoạn mạch R, L, C mắc nối tiếp 70
5.3. Hướng dẫn giải và giải 71
6. Dạng 6 : Xác định giá trị cực đại của điện áp hiệu dụng khi thay đổi L,
hoặc thay đổi C, hoặc thay đổi f 83
6.1. Phương pháp giải chung 83
6.2. Bài tập về cách xác định giá trị cực đại của điện áp hiệu dụng khi thay đổi L, hoặc thay
đổi C, hoặc thay đổi f 86
6.3. Hướng dẫn giải và giải 86
7. Dạng 7 : Xác định các phần tử điện chứa trong hộp đen 106
7.1. Phương pháp giải chung 106
7.2. Bài tập về xác định các phần tử điện chứa trong hộp đen 107
7.3. Hướng dẫn giải và giải 107
8. Dạng 8: Giải toán nhờ giản đồ vec-tơ 116
8.1. Phương pháp giải chung 116
8.2. Bài tập về giải toán nhờ giản đồ vec-tơ 116
8.3. Hướng dẫn giải và giải 117
Chủ đề 2: Sản xuất – Truyền tải điện năng 125
1. Dạng 1: Máy phát điện và động cơ điện 125
1.1 Phương pháp giải chung 125
1.2. Bài tập về máy phát điện và động cơ điện 125
1.3. Hướng dẫn giải và giải 126
2. Dạng 2: Máy biến áp và truyền tải điện năng 131
2.1. Phương pháp giải chung 131
2.2. Bài tập về máy biến áp và truyền tải điện năng 131
2.3 Hướng dẫn giải và giải 132
C. Một số bài tập trắc nghiệm rèn luyện 138
1. Đề bài 138
2. Đáp án 147
3. Hướng dẫn giải 147
Trang 4
Trang 5
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Dòng điện xoay chiều là một dao động điện từ cưỡng bức, đổi chiều liên tục hằng trăm
lần trong một giây, làm từ trường do nó sinh ra cũng thay đổi theo. Chính điều đó đã làm cho
dòng điện xoay chiều có một số tác dụng to lớn mà dòng điện một chiều không có. Do đó mà
dòng điện xoay chiều được ứng dụng rộng rãi trong thực tế cuộc sống.
Chương “Dòng điện xoay chiều” là một trong những chương quan trong của chương trình
vật lý 12. Việc nắm vững kiến thức, vận dụng kiến thức để giải các bài tập định tính, bài tập
định lượng của chương này đối với học sinh thật không dễ dàng. Chính vì vậy, đề tài “Lựa
chọn hệ thống bài tập, hướng dẫn giải và giải bài tập vật lý (chương “Dòng điện xoay chiều”
lớp 12 chương trình nâng cao) sẽ giúp học sinh có một hệ thống bài tập, có phương pháp giải
cụ thể của từng dạng với hướng dẫn giải chi tiết từng bài, từ đó giúp học sinh có thể hiểu rõ
hơn về chương dòng điện xoay chiều. Đồng thời thông qua việc giải bài tập, học sinh có thể
được rèn luyện về kĩ năng giải bài tập, phát triển tư duy sáng tạo và năng lực tự làm việc của
bản thân.
II. Mục đích nghiên cứu:
Xây dựng hệ thống bài tập, hướng dẫn phương pháp giải các dạng bài tập của chương
“Dòng điện xoay chiều”. Từ đó vạch ra tiến trình hướng dẫn hoạt động dạy học (gồm hoạt
động của giáo viên và hoạt động của học sinh) nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức về
chương này, trên cơ sở đó học sinh có thể tự lực vận dụng kiến thức để giải các bài tập cùng
dạng theo phương pháp đã đưa ra.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Nghiên cứu lý luận dạy học về bài tập vật lý để vận dụng vào hoạt động dạy học.
2. Nghiên cứu nội dung chương “Dòng điện xoay chiều” chương trình sách giáo khoa vật
lý 12 nâng cao nhằm xác định nội dung kiến thức cơ bản học sinh cần nắm vững và các
kĩ năng giải bài tập cơ bản học sinh cần rèn luyện.
3. Soạn thảo hệ thống bài tập của chương này, đưa ra phương pháp giải theo từng dạng, đề
xuất tiến trình hướng dẫn học sinh giải bài tập trong hệ thống bài tập này.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu lý luận về dạy học bài tập vật lý.
2. Nghiên cứu chương trình vật lý trung học phổ thông: bao gồm sách giáo khoa vật lý 12,
sách bài tập, một số sách tham khảo vật lý 12 về phần dòng điện xoay chiều.
3. Lựa chọn các dạng bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập, sách tham khảo phù hợp
với nội dung, kiến thức của chương.
V. Giới hạn nghiên cứu:
1. Do hạn chế về thời gian, kiến thức và phương pháp giảng dạy thực tế nên hệ thống bài
tập được lựa chọn còn mang tính chủ quan và chưa thật sự phong phú, nhất là phần bài
tập định tính.
Trang 6
2. Do chưa có kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy nên tiến trình hướng dẫn học sinh
giải có thể vẫn chưa hay.
3. Vật lý học là khoa học thực nghiệm, tuy nhiên trong đề tài vẫn chưa thể đưa ra các bài
tập thực nghiệm, cũng như chưa thực hiện được phần thực nghiệm sư phạm.
Trang 7
PHẦN LÝ LUẬN CHUNG
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY BÀI TẬP VẬT LÝ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chúng ta đang sống trong sống trong thời đại của sự bùng nổ tri thức khoa học và công
nghệ. Xã hội mới phồn vinh ở thế kỉ 21 phải là một xã hội dựa vào tri thức, vào tư duy sáng tạo,
vào tài năng sáng chế của con người. Trong xã hội biến đổi nhanh chóng như hiện nay, người lao
động cũng phải biết luôn tìm tòi kiến thức mới và trau dồi năng lực của mình cho phù hợp với sự
phát triển của khoa học và kĩ thuật. Lúc đó người lao động phải có khả năng tự định hướng và tự
học để thích ứng với đòi hỏi mới của xã hội. Chính vì vậy, mục đích giáo dục hiện nay ở nước ta
và trên thế giới không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ cho học sinh những kiến thức, kĩ năng loài
người đã tích lũy được trước đây, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng cho họ năng lực
sáng tạo ra những tri thức mới, phương pháp mới, cách giải quyết vấn đề mới sao cho phù hợp.
Rèn luyện năng lực tự suy nghĩ và truyền thụ kiến thức cho học sinh là vấn đề quan trọng
trong dạy học nói chung và dạy học môn Vật lý nói riêng. Để việc dạy và học đạt kết quả cao thì
người giáo viên phải biết phát huy tính tích cực của học sinh, chọn lựa phương thức tổ chức hoạt
động, cách tác động phù hợp giúp học sinh vừa học tập, vừa phát triển nhận thức. Việc giải bài
tập Vật lý không những nhằm mục đích giải toán, mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc rèn
luyện cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng tính toán, suy luận logic để giải quyết
những vấn đề trong thực tế cuộc sống. Trong quá trình dạy học bài tập vật lý, vai trò tự học của
học sinh là rất cần thiết. Để giúp học sinh khả năng tự học, người giáo viên phải biết lựa chọn bài
tập sao cho phù hợp, sắp xếp chúng một cách có hệ thống từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức
tạp và hướng dẫn cho học sinh cách giải để tìm ra được bản chất vật lý của bài toán vật lý.
I. Những cơ sở lý luận của hoạt động giải bài tập vật lý phổ thông
1. Mục đích, ý nghĩa của việc giải bài tập:
- Quá trình giải một bài tập vật lý là quá trình tìm hiểu điều kiện của bài toán, xem xét hiện
tượng vật lý đề cập, dựa vào kiến thức vật lý để tìm ra những cái chưa biết trên cơ sở những cái
đã biết. Thông qua hoạt động giải bài tập, học sinh không những củng cố lý thuyết và tìm ra lời
giải một cách chính xác, mà còn hướng cho học sinh cách suy nghĩ, lập luận để hiểu rõ bản chất
của vấn đề, và có cái nhìn đúng đắn khoa học. Vì thế, mục đích cơ bản đặt ra khi giải bài tập vật
lý là làm cho học sinh hiểu sâu sắc hơn những quy luật vật lý, biết phân tích và ứng dụng chúng
vào những vấn đề thực tiễn, vào tính toán kĩ thuật và cuối cùng là phát triển được năng lực tư
duy, năng lực tư giải quyết vấn đề.
- Muốn giải được bài tập vật lý, học sinh phải biết vận dụng các thao tác tư duy, so sánh,
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa…để xác định được bản chất vật lý. Vận dụng kiến thức vật lý
để giải quyết các nhiệm vụ học tập và những vấn đề thực tế của đời sống chính là thước đo mức
độ hiểu biết của học sinh. Vì vậy, việc giải bài tập vật lý là phương tiện kiểm tra kiến thức, kĩ
năng của học sinh.
2. Tác dụng của bài tập vật lý trong dạy học vật lý:
2.1. Bài tập giúp cho việc ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến thức
Trong giai đoạn xây dựng kiến thức, học sinh đã nắm được cái chung, cái khái quát của các
khái niệm, định luật và cũng là cái trừu tượng. Trong bài tập, học sinh phải vận dụng những kiến
thức khái quát, trừu tượng đó vào những trường hợp cụ thể rất đa dạng, nhờ thế mà học sinh nắm
được những biểu hiện cụ thể của chúng trong thực tế. Ngoài những ứng dụng quan trọng trong kĩ
thuật, bài tập vật lý sẽ giúp học sinh thấy được những ứng dụng muôn hình, muôn vẻ trong thực
tiễn của các kiến thức đã học
Trang 8
Các khái niệm, định luật vật lý thì rất đơn giản, còn biểu hiện của chúng trong tự nhiên thì
rất phức tạp, bởi vì các sự vật, hiện tượng có thể bị chi phối bởi nhiều định luật, nhiều nguyên
nhân đồng thời hay liên tiếp chồng chéo lên nhau. Bài tập sẽ giúp luyện tập cho học sinh phân
tích để nhận biết được những trường hợp phức tạp đó
Bài tập vật lý là một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức sinh động. Khi giải bài tập, học
sinh phải nhớ lại các kiến thức đã học, có khi phải sử dụng tổng hợp các kiến thức thuộc nhiều
chương, nhiều phần của chương trình
2.2. Bài tập có thể là điểm khởi đầu để dẫn dắt đến kiến thức mới
Các bài tập nếu được sử dụng khéo léo có thể dẫn học sinh đến những suy nghĩ về một hiện
tượng mới hoặc xây dựng một khái niệm mới để giải thích hiện tượng mới do bài tập phát hiện ra
2.3. Giải bài tập vật lý rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn
luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát
Bài tập vật lý là một trong những phương tiện rất quý báu để rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận
dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát đã thu nhận được
để giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Có thể xây dựng nhiều bài tập có nội dung thực tiễn, trong
đó học sinh phải biết vận dụng lý thuyết để giải thích hoặc dự đoán các hiện tượng xảy ra trong
thực tiễn ở những điều kiện cho trước.
2.4. Giải bài tập là một trong những hình thức làm việc tự lực cao của học sinh
Trong khi làm bài tập, do phải tự mình phân tích các điều kiện của đầu bài, tự xây dựng
những lập luận, kiểm tra và phê phán những kết luận mà học sinh rút ra được nên tư duy học sinh
được phát triển, năng lực làm việc tự lực của họ được nâng cao, tính kiên trì được phát triển.
2.5. Giải bài tập vật lý góp phần làm phát triển tư duy sáng tạo của học sinh
Việc giải bài tập vật lý đòi hỏi phải phân tích bài toán để tìm bản chất vật lý với mức độ
khó được nâng dần lên giúp học sinh phát triển tư duy.
Có nhiều bài tập vật lý không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng những kiến thức đã học
mà còn giúp bồi dưỡng cho học sinh tư duy sáng tạo. Đặc biệt là những bài tập giải thích hiện
tượng, bài tập thí nghiệm, bài tập thiết kế dụng cụ rất có ích về mặt này.
2.6. Giải bài tập vật lý để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh
Bài tập vật lý cũng là một phương tiện có hiệu quả để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức
của học sinh. Tùy theo cách đặt câu hỏi kiểm tra, ta có thể phân loại được các mức độ nắm vững
kiến thức của học sinh, khiến cho việc đánh giá chất lượng kiến thức của học sinh được chính
xác.
II. Phân loại bài tập vật lý:
1. Phân loại theo phương thức giải
1.1. Bài tập định tính
- Bài tập định tính là những bài tập mà khi giải học sinh không cần thực hiện các phép tính
phức tạp hay chỉ làm những phép tính đơn giản, có thể tính nhẩm được. Muốn giải những bài tập
định tính, học sinh phải thực hiện những phép suy luận logic, do đó phải hiểu rõ bản chất của các
khái niệm, định luật vật lý, nhận biết được những biểu hiện của chúng trong những trường hợp
cụ thể. Đa số các bài tập định tính yêu cầu học sinh giải thích hoặc dự đoán một hiện tượng xảy
ra trong những điều kiện cụ thể.
- Bài tập định tính làm tăng sự hứng thú của học sinh đối với môn học, tạo điều kiện phát
triển óc quan sát ở học sinh, là phương tiện rất tốt để phát triển tư duy của học sinh, và dạy cho
học sinh biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn.
1.2. Bài tập định lượng
Bài tập định lượng là loại bài tập mà khi giải học sinh phải thực hiện một loạt các phép tính
để xác định mối liên hệ phụ thuộc về lượng giữa các đại lượng và kết quả thu được là một đáp
Trang 9
định lượng. Có thể chia bài tập định lượng làm hai loại: bài tập tính toán tập dợt và bài tập tính
toán tổng hợp.
- Bài tập tính toán tập dợt: là loại bài tập tính toán đơn giản, trong đó chỉ đề cập đến một
hiện tượng, một định luật và sử dụng một vài phép tính đơn giản nhằm củng cố kiến thức cơ bản
vừa học, làm học sinh hiểu rõ ý nghĩa của các định luật và các công thức biểu diễn chúng.
- Bài tập tính toán tổng hợp: là loại bài tập mà khi giải thì phải vận dụng nhiều khái niệm,
định luật, nhiều công thức. Loại bài tập này có tác dụng đặc biệt giúp học sinh đào sâu, mở rộng
kiến thức, thấy rõ những mối liên hệ khác nhau giữa các phần của chương trình vật lý. Ngoài ra
bài tập tính toán tổng hợp cũng nhằm mục đích làm sáng tỏ nội dung vật lý của các định luật,
quy tắc biểu hiện dưới các công thức. Vì vậy, giáo viên cần lưu ý học sinh chú ý đến ý nghĩa vật
lý của chúng trước khi đi vào lựa chọn các công thức và thực hiện phép tính toán.
1.3. Bài tập thí nghiệm
- Bài tập thí nghiệm là bài tập đòi hỏi phải làm thí nghiệm để kiểm chứng lời giải lý thuyết
hoặc để tìm những số liệu cần thiết cho việc giải bài tập. Những thí nghiệm này thường là những
thí nghiệm đơn giản. Bài tập thí nghiệm cũng có thể có dạng định tính hoặc định lượng.
- Bài tâp thí nghiệm có nhiều tác dụng về cả ba mặt giáo dưỡng, giáo dục, và giáo dục kĩ
thuật tổng hợp, đặc biệt giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn
- Lưu ý: trong các bài tập thí nghiệm thì thí nghiệm chỉ cho các số liệu để giải bài tập, chứ
không cho biết tại sao hiện tượng lại xảy ra như thế. Cho nên phần vận dụng các định luật vật lý
để lý giải các hiện tượng mới là nội dung chính của bài tập thí nghiệm.
1.4. Bài tập đồ thị
- Bài tập đồ thị là bài tập trong đó các số liệu được dùng làm dữ kiện để giải phải tìm trong
các đồ thị cho trước hoặc ngược lại, đòi hỏi học sinh phải biểu diễn quá trình diễn biến của hiện
tượng nêu trong bài tập bằng đồ thị.
- Bài tập đồ thị có tác dụng rèn luyện kĩ năng đọc, vẽ đồ thị, và mối quan hệ hàm số giữa
các đại lượng mô tả trong đồ thị.
2. Phân loại theo nội dung
Người ta dựa vào nội dung chia các bài tập theo các đề tài của tài liệu vật lý. Sự phân chia
như vậy có tính chất quy ước vì bài tập có thể đề cập tới những kiến thức của những phần khác
nhau trong chương trình vật lý. Theo nội dung, người ta phân biệt các bài tập có nội dung trừu
tượng, bài tập có nội dung cụ thể, bài tập có nội dung thực tế, bài tập vui.
- Bài tập có nội dung trừu tượng là trong điều kiện của bài toán, bản chất vật lý được nêu
bật lên, những chi tiết không bản chất đã được bỏ bớt.
- Bài tập có nội dung cụ thể có tác dụng tập dợt cho học sinh phân tích các hiện tượng vật
lý cụ thể để làm rõ bản chất vật lý.
- Bài tập có nội dung thực tế là loại bài tập có liên quan trực tiếp tới đời sống, kỹ thuật, sản
xuất và đặc biệt là thực tế lao động của học sinh, có tác dụng rất lớn về mặt giáo dục kĩ thuật
tổng hợp.
- Bài tập vui là bài tập có tác dụng làm giảm bớt sự khô khan, mệt mỏi, ức chế ở học sinh,
nó tạo sự hứng thú đồng thời mang lại trí tuệ cao.
3. Phân loại theo yêu cầu rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy học sinh trong quá trình
dạy học: có thể phân biệt thành bài tập luyện tập, bài tập sáng tạo, bài tập nghiên cứu, bài
tập thiết kế
- Bài tập luyện tập: là loại bài tập mà việc giải chúng không đòi hỏi tư duy sáng tạo của học
sinh, chủ yếu chỉ yêu cầu học sinh nắm vững cách giải đối với một loại bài tập nhất định đã được
chỉ dẫn
Trang 10
- Bài tập sáng tạo: trong loại bài tập này, ngoài việc phải vận dụng một số kiến thức đã học,
học sinh bắt buộc phải có những ý kiến độc lập, mới mẻ, không thể suy ra một cách logic từ
những kiến thức đã học
- Bài tập nghiên cứu: là dạng bài tập trả lời những câu hỏi “tại sao”
- Bài tập thiết kế: là dạng bài tập trả lời cho những câu hỏi “phải làm như thế nào”.
4. Phân loại theo cách thể hiện bài tập: người ta phân biệt bài tập thành
- Bài tập bài khóa
- Bài tập lựa chọn câu trả lời đúng nhất trong các câu trả lời cho sẵn (test). Loại này có hạn
chế là không kiểm tra được con đường suy nghĩ của người giải nhưng vẫn có hiệu quả nhất định
trong việc kiểm tra trình độ kiến thức, kĩ năng,kĩ xảo của học sinh
5. Phân loại theo hình thức làm bài
5.1. Bài tập tự luận : đó là những bài yêu cầu học sinh giải thích, tính toán và hoàn thành
theo một logic cụ thể. Nó bao gồm những loại bài đã trình bày ở trên.
5.2. Bài tập trắc nghiệm khách quan : là loại bài tập cho câu hỏi và đáp án. Các đáp án
có thể là đúng, gần đúng hoặc sai. Nhiệm vụ của học sinh là tìm ra câu trả lời đúng nhất, cũng có
khi đó là những câu bỏ lửng yêu cầu điền vào những chỗ trống để có câu trả lời đúng. Bài tập
loại này gồm:
- Câu đúng – sai: câu hỏi là một phát biểu, câu trả lời là một trong hai lựa chọn
- Câu nhiều lựa chọn: một câu hỏi, nhiều phương án lựa chọn, yêu cầu học sinh tìm câu trả
lời đúng nhất
- Câu điền khuyết: nội dung trong câu bị bỏ lửng, yêu cầu học sinh điền từ ngữ hoặc công
thức đúng vào chỗ bị bỏ trống
- Câu ghép hình thức: nội dung của các câu được chia thành hai phần, học sinh phải tìm các
phần phù hợp để ghép thành câu đúng
III.Phương pháp giải bài tập
Đối với học sinh phổ thông, vấn đề giải và sửa bài tập gặp không ít khó khăn vì học sinh
thường không nắm vững lý thuyết và kĩ năng vận dụng kiến thức vật lý. Vì vậy các em giải một
cách mò mẫm, không có định hướng rõ ràng, áp dụng công thức máy móc và nhiều khi không
giải được. Có nhiều nguyên nhân:
- Học sinh chưa có phương pháp khoa học để giải bài tập vật lý.
- Chưa xác định được mục đích của việc giải bài tập là xem xét, phân tích các hiện tượng
vật lý để đi đến bản chất vật lý.
Việc rèn luyện cho học sinh biết cách giải bài tập một cách khoa học, đảm bảo đi đến kết
quả một cách chính xác là một việc rất cần thiết. Nó không những giúp học sinh nắm vững kiến
thức mà còn rèn luyện kĩ năng suy luận logic, làm việc một cách khoa học, có kế hoạch.
Quá trình giải một bài tập vật lý thực chất là quá trình tìm hiểu điều kiện của bài tập, xem
xét hiện tượng vật lý, xác lập được những mối liên hệ cụ thể dựa trên sự vận dụng kiến thức vật
lý vào điều kiện cụ thể của bài tập đã cho. Từ đó tính toán những mối liên hệ đã xác lập được để
dẫn đến lời giải và kết luận chính xác. Sự nắm vững những mối liên hệ này sẽ giúp cho giáo viên
định hướng phương pháp dạy bài tập một cách hiệu quả.
Bài tập vật lý rất đa dạng, cho nên phương pháp giải cũng rất phong phú. Vì vậy không thể
chỉ ra được một phương pháp nào cụ thể mà có thể áp dụng để giải được tất cả bài tập. Từ sự
phân tích như đã nêu ở trên, có thể vạch ra một dàn bài chung gồm các bước chính như sau:
1. Tìm hiểu đầu bài, tóm tắt các dữ kiện
- Đọc kĩ đề bài, tìm hiểu ý nghĩa của những thuật ngữ quan trọng, xác định đâu là ẩn số,
đâu là dữ kiện.
- Dùng kí hiệu tóm tắt đề bài cho gì? Hỏi gì? Dùng hình vẽ mô tả lại tình huống, minh họa
nếu cần.
Trang 11
2. Phân tích hiện tượng
- Nhận biết các dữ liệu đã cho trong đề bài có liên quan đến những kiến thức nào, khái
niệm nào, hiện tượng nào, quy tắc nào, định luật nào trong vật lý.
- Xác định các giai đoạn diễn biến của hiện tượng nêu trong đề bài, mỗi giai đoạn bị chi
phối bởi những đặc tính nào, định luật nào. Có như vậy học sinh mới hiểu rõ được bản chất của
hiện tượng, tránh sự áp dụng máy móc công thức.
3. Xây dựng lập luận
Thực chất của bước này là tìm quan hệ giữa ẩn số phải tìm với các dữ kiện đã cho. Đối
chiếu các dữ kiện đã cho và cái phải tìm liên hệ với nhau như thế nào, qua công thức, định luật
nào để xác lập mối liên hệ. Thành lập các phương trình nếu cần với chú ý có bao nhiêu ẩn số thì
có bấy nhiêu phương trình.
♦ Đối với những bài tập tổng hợp phức tạp, có hai phương pháp xây dựng lập luận để giải:
- Phương pháp phân tích: xuất phát từ ẩn số cần tìm, tìm ra mối liên hệ giữa ẩn số đó với
một đại lượng nào đó theo một định luật đã xác định ở bước 2, diễn đạt bằng một công thức có
chứa ẩn số. Sau đó tiếp tục phát triển lập luận hoặc biến đổi công thức này theo các dữ kiện đã
cho. Cuối cùng đi đến công thức sau cùng chứa ẩn số và các dữ kiện đã cho.
- Phương pháp tổng hợp: xuất phát từ dữ kiện đã cho của đầu bài, xây dựng lập luận hoặc
biến đổi công thức diễn đạt mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho với các đại lượng khác để tiến
dần đến công thức cuối cùng có chứa ẩn số và các dữ kiện đã cho.
♦ Đối với bài tập định tính: ta không cần tính toán nhiều mà chủ yếu sử dụng lập luận, suy
luận logic dựa vào kiến thức vật lý để giải thích hoặc dự đoán hiện tượng xảy ra.
♦ Đối với bài tập trắc nghiệm trách quan: cần nắm thật vững kiến thức trong sách giáo
khoa, nếu không sẽ không nhận biết được trong các phương án để lựa chọn đâu là phương án
đúng. Để làm tốt bài thi trắc nghiệm, ta nên chia quỹ thời gian phù hợp với thời gian làm bài, đọc
lướt qua toàn bộ câu trắc nghiệm câu nào chắc chắn thì trả lời luôn, và theo nguyên tắc dễ làm
trước, khó làm sau. Quay lại những câu chưa làm, đọc kĩ lại phần đề và gạch dưới những chữ
quan trọng, và không nên dừng lại tìm lời giải cho một câu quá lâu. Cần lưu ý là không nên bỏ
trống câu nào vì ta sẽ được xác suất ¼ số câu trả lời đúng trong số đó.
4. Lựa chọn cách giải cho phù hợp
5. Kiểm tra, xác nhận kết quả và biện luận
- Từ mối liên hệ cơ bản, lập luận giải để tìm ra kết quả.
- Phân tích kết quả cuối cùng để loại bỏ những kết quả không phù hợp với điều kiện đầu
bài tập hoặc không phù hợp với thực tế. Việc biện luận này cũng là một cách để kiểm tra sự đúng
đắn của quá trình lập luận. Đôi khi, nhờ sự biện luận này mà học sinh có thể tự phát hiện ra
những sai lầm của quá trính lập luận, do sự vô lý của kết quả thu được.
IV. Xây dựng lập luận trong giải bài tập
Xây dựng lập luận trong giải bài tập là một bước quan trọng của quá trình giải bài tập vật
lý. Trong bước này, ta phải vận dụng những định luật vật lý, những quy tắc, những công thức để
thiết lập mối quan hệ giữa đại lượng cần tìm, hiện tượng cần giải thích hay dự đoán với những
dữ kiện cụ thể đã cho trong đầu bài. Muốn làm được điều đó, cần phải thực hiện những suy luận
logic hoặc những biến đổi toán học thích hợp. Có rất nhiều cách lập luận tùy theo loại bài tập hay
đặc điểm của từng bài tập. Tuy nhiên, tất cả các bài tập mà ta đã nêu ra trong mục phân loại bài
tập ở trên đều chứa đựng một số yếu tố của bài tập định tính và bài tập tính toán tổng hợp. Dưới
đây, ta xét đến phương pháp xây dựng lập luận giải hai loại bài tập đó.
1. Xây dựng lập luận trong giải bài tập định tính
Bài tập định tính thường có hai dạng: giải thích hiện tượng và dự đoán hiện tượng sẽ xảy
ra.
1.1 Bài tập giải thích hiện tượng:
Trang 12
Giải thích hiện tượng thực chất là cho biết một hiện tượng và lý giải xem vì sao hiện tượng
lại xảy ra như thế. Nói cách khác là biết hiện tượng và phải giải thích nguyên nhân của nó. Đối
với học sinh, nguyên nhân đó là những đặc tính, những định luật vật lý. Như vậy, trong các bài
tập này, bắt buộc phải thiết lập được mối quan hệ giữa một hiện tượng cụ thể với một số đặc tính
của sự vật hiện tượng hay với một số định luật vật lý. Ta phải thực hiện phép suy luận logic (luận
ba đoạn), trong đó tiên đề thứ nhất là một đặc tính chung của sự vật hoặc định luật vật lý có tính
tổng quát, tiên đề thứ hai là những điều kiện cụ thể, kết luận là hiện tượng nêu ra.
Thông thường những hiện tượng thực tế rất phức tạp mà các định luật vật lý lại rất đơn
giản, cho nên mới nhìn thì khó có thể phát hiện ra mối liên hệ giữa hiện tượng đã cho với những
định luật vật lý đã biết. Ngoài ra, ngôn ngữ dùng trong lời phát biểu các định nghĩa, định luật vật
lý nhiều khi lại không hoàn toàn phù hợp với ngôn ngữ thông thường dùng để mô tả hiện tượng.
Vì vậy cần phải mô tả hiện tượng theo ngôn ngữ vật lý và phân tích hiện tượng phức tạp ra các
hiện tượng đơn giản chỉ tuân theo một định luật, một quy tắc nhất định.
Có thể đưa ra một quy trình sau đây để định hướng cho việc tìm lời giải bài tập định tính
giải thích hiện tượng:
• Tìm hiểu đầu bài, đặc biệt chú trọng diễn đạt hiện tượng mô tả trong đầu bài bằng ngôn
ngữ vật lý (dùng các khái niệm vật lý thay cho khái niệm dùng trong đời sống hằng ngày).
• Phân tích hiện tượng.
• Xây dựng lập luận:
- Tìm trong đầu bài những dấu hiệu có liên quan đến một tính chất vật lý, một định luật vật
lý đã biết.
- Phát biểu đầy đủ tính chất đó, định luật đó.
- Xây dựng một luận ba đoạn để thiết lập mối quan hệ giữa định luật đó với hiện tượng đã
cho, nghĩa là giải thích được nguyên nhân của hiện tượng. Trong trường hợp hiện tượng phức tạp
thì phải xây dựng nhiều luận ba đoạn liên tiếp.
1.2 Bài tập dự đoán hiện tượng:
Dự đoán hiện tượng thực chất là căn cứ vào những điều kiện cụ thể của đầu bài, xác định
những định luật chi phối hiện tượng và dự đoán được hiện tượng gì xảy ra và xảy ra như thế nào.
Từ đó tìm quy luật chung chi phối hiện tượng cùng loại và rút ra kết luận. Về mặt logic, ta phải
thiết lập một luận ba đoạn, trong đó ta mới biết tiên đề thứ hai (phán đoán khẳng định riêng), cần
phải tìm tiên đề thứ nhất (phán đoán khẳng định chung) và kết kuận (phán đoán khẳng định
riêng).
2. Xây dựng lập luận trong giải bài tập định lượng
Muốn giải được bài tập định lượng, trước hết phải hiểu rõ hiện tượng xảy ra, diễn biến của
nó từ đầu đến cuối. Cho nên, có thể nói phần đầu của bài tập định lượng là một bài tập định tính.
Do đó, khi giải bài tập định lượng cần phải thực hiện bước 1 và 2 giống như khi giải bài tập định
tính. Riêng bước 3 về xây dựng lập luận, có thể áp dụng các công thức và những cách biến đổi
toán học chặt chẽ, rõ ràng hơn
Có hai phương pháp xây dựng lập luận: phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
♦ Phương pháp phân tích: phương pháp phân tích bắt đầu bằng việc tìm một định luật, một
quy tắc diễn đạt bằng một công thức có chứa đại lượng cần tìm và một vài đại lượng khác chưa
biết. Sau đó tìm những định luật, công thức khác cho biết mối quan hệ giữa những đại lượng
chưa biết này với các đại lượng đã biết trong đầu bài. Cuối cùng ta tìm được một công thức trong
đó chỉ chứa đại lượng cần tìm với các đại lượng đã biết. Thực chất của phương pháp phân tích là
phân tích một bài toán phức tạp thành nhiều bài toán đơn giản hơn.
♦ Phương pháp tổng hợp: việc giải bài tập bắt đầu từ những đại lượng đã cho trong điều
kiện của bài tập. Dựa vào các định luật, quy tắc vật lý, ta phải tìm những công thức chứa đại
Trang 13
lượng đã cho và các đại lượng trung gian mà ta dự kiến có liên quan đến đại lượng phải tìm.
Cuối cùng ta tìm được một công thức chỉ chứa đại lượng phải tìm và những đại lượng đã biết.
♦ Phối hợp phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: trong thực tế giải bài tập, hai
phương pháp trên không tách rời nhau, mà thường xen kẽ, hỗ trợ lẫn nhau.
Phương pháp tổng hợp đòi hỏi người giải bài tập có kiến thức rộng rãi, kinh nghiệm phong
phú để có thể dự đoán được con đường đi từ những dữ kiện trung gian, thoạt mới nhìn hình như
không có quan hệ gì chặt chẽ tới một kết quả có liên quan đến tất cả những điều đã cho. Bởi vậy,
ở giai đoạn đầu của việc giải bài tập thuộc một dạng nào đó, do học sinh chưa có nhiều kinh
nghiệm, ta nên bắt đầu từ câu hỏi đặt ra trong bài tập rồi gỡ dần, làm sáng tỏ dần những yếu tố có
liên quan đến đại lượng cần tìm, nghĩa là dùng phương pháp phân tích.
Trong những bài tập tính toán tổng hợp, hiện tượng xảy ra do nhiều nguyên nhân, trải qua
nhiều giai đoạn, khi xây dựng lập luận có thể phối hợp hai phương pháp.
V. Hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lý
Để việc hướng dẫn giải bài tâp cho học sinh có hiệu quả, thì trước hết giáo viên phải giải
được bài tập đó, và phải xuất phát từ mục đích sư phạm để xác định kiểu hướng dẫn cho phù
hợp.
Ta có thể minh họa bằng sơ đồ sau:
Các kiểu hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lý
1. Hướng dẫn theo mẫu (Angorit)
♦ Định nghĩa: hướng dẫn angorit là sự hướng dẫn chỉ rõ cho học sinh những hành động cụ
thể cần thực hiện và trình tự thực hiện các hành động đó để đạt được kết quả mong muốn
♦ Yêu cầu đối với giáo viên: giáo viên phải phân tích một cách khoa học việc giải toán để
xác định được một trình tự giải một cách chính xác, chặt chẽ, logic, khoa học.
♦ Yêu cầu đối với học sinh: chấp hành các hành động đã được giáo viên chỉ ra, vận dụng
đúng công thức và tính toán cẩn thận sẽ giải được bài toán đã cho.
♦ Ưu điểm:
- Bảo đảm cho học sinh giải được bài tập đã cho một cách chắc chắn.
- Giúp cho việc rèn luyện kỹ năng giải bài tập của học sinh một cách hiệu quả.
♦ Nhược điểm: ít có tác dụng rèn luyện cho học sinh khả năng tìm tòi, sáng tạo.Sự phát
triển tư duy sáng tạo của học sinh bị hạn chế. Để khắc phục nhược điểm này, trong quá trình giải
bài tập, giáo viên phải lôi cuốn học sinh tham gia vào quá trình xây dựng angorit cho bài tập.
♦ Điều kiện áp dụng: khi cần dạy cho học sinh phương pháp giải một bài toán điển
hình,luyện cho học sinh kỹ năng giải một dạng bài tập xác định
2. Hướng dẫn tìm tòi
♦ Định nghĩa: định hướng tìm tòi là kiểu định hướng mang tính chất gợi ý cho học sinh
suy nghĩ tìm tòi phát hiện cách giải bài toán.
♦ Yêu cầu đối với giáo viên: giáo viên phải gợi mở để học sinh tự tìm cách giải quyết, tự
xác định các hành động thực hiện để đạt được kết quả, phải chuẩn bị thật tốt các câu hỏi gợi mở.
Trang 14
Tư duy giải bài tập
vật lý
Phân tích phương pháp
giải bài tập vật lý cụ thể
Mục đích sư phạm
Xác dịnh kiểu hướng
dẫn
Phương pháp hướng dẫn
giải bài tập vật lý cụ thể
♦ Yêu cầu đối với học sinh: học sinh phải tự lực tìm tòi cách giải quyết chứ không phải là
học sinh chỉ việc chấp hành các hành động theo mẫu của giáo viên.
♦ Ưu điểm:
- Tránh được tình trạng giáo viên làm thay học sinh trong việc giải bài tập.
- Phát triển tư duy, khả năng làm việc tự lưc của học sinh.
♦ Nhược điểm:
- Do học sinh phải tự tìm cách giải quyết bài toán nên đôi khi cũng không đảm bảo học
sinh giải được bài toán một cách chắt chắn.
- Phương pháp này không thể áp dụng cho toàn bộ đối tượng học sinh.
- Hướng dẫn của giáo viên không phải lúc nào cũng định hướng được tư duy của học sinh.
♦ Điều kiện áp dụng: khi cần giúp đỡ học sinh vượt qua khó khăn để giải quyết được bài
tập đồng thời vẫn đảm bảo được yêu cầu phát triển tư duy học sinh muốn tạo điều kiện để học
sinh tự lực tìm tòi cách giải quyết
3. Định hướng khái quát chương trình hóa:
♦ Định nghĩa: định hướng khái quát chương trình hóa là sự hương dẫn cho học sinh tự tìm
tòi cách giải quyết tương tự như hướng dẫn tìm tòi. Sự định hướng được chương trình hóa theo
các bước dự định hợp lý để giải quyết vấn đề đặt ra.
Cụ thể:
- Giáo viên định hướng ban đầu để học sinh tự tìm tòi giải quyết vấn đề đặt ra.
- Nếu học sinh không tự giải quyết được, giáo viên sẽ gợi ý thêm, cụ thể hóa hoặc chi tiết
hóa thêm một bước để thu hẹp phạm vi tìm tòi giải quyết cho vừa sức học sinh.
- Nếu học sinh vẫn không tự giải quyết được thì giáo viên nên chuyển dần sang kiểu định
hương theo mẫu để theo đó học sinh tự giải quyết được một bước hay một khía cạnh nào đó của
vấn đề. Sau đó tiếp tục giải quyết vấn đề tiếp theo.
- Cứ như thế giáo viên hướng dẫn và định hướng để học sinh giải quyết hoàn chỉnh vấn đề.
♦ Yêu cầu đối với giáo viên: định hướng hoạt động tư duy của học sinh, không được làm
thay, phải theo sát tiến trình hoạt động giải bài toán của học sinh.
♦ Yêu cầu đối với học sinh: phải tự mìn giải quyết vấn đề, vận dụng hết kiến thức và kỹ
năng đã được học để tham gia vào quá trình giải.
♦ Ưu điểm:
- Rèn luyện được tư duy và tính độc lập suy nghĩ của học sinh trong quá trình giải bài tập.
- Đảm bảo cho học sinh giải được bài tập đã cho.
- Giáo viên có thể theo sát học sinh trong quá trình giải bài tập nên dễ phát hiện được
những thiếu sót hoặc sai lầm của học sinh để điều chỉnh và củng cố lại.
♦ Nhược điểm:
- Để làm tốt được sự hướng dẫn này phụ thuộc vào trình độ và khả năng sư phạm của
người giáo viên. Đôi khi người giáo viên dễ sa vào làm thay cho học sinh trong từng bước định
hướng. Do vậy, câu hỏi định hướng của giáo viên phải được cân nhắc kỹ và phù hợp với trình độ
học sinh.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh giải bài tập không thể theo một khuôn mẫu nhất định,
mà tùy thuộc vào nội dung, kiến thức, yêu cầu của bài toán, và còn tùy thuộc vào đối tượng học
sinh mà chúng ta có cách lựa chọn kiểu hướng dẫn cho phù hợp. Như người giáo viên phải biết
phối hợp cả ba kiểu hướng dẫn trên nhưng áp dụng kiểu hướng dẫn tìm tòi là chủ yếu.
VI. Lựa chọn và sử dụng bài tập trong dạy học vật lý
1. Lựa chọn bài tập
Hệ thống bài tập mà giáo viên lựa chọn phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Trang 15
- Bài tập phải đi từ dễ tới khó, từ đơn giản đến phức tạp (phạm vi và số lượng các kiến
thức, kĩ năng cần vận dụng từ một đề tài đến nhiều đề tài, số lượng các đại lượng cho biết và các
đại lượng cần tìm…) giúp học sinh nắm được phương pháp giải các loại bài tập điển hình.
- Mỗi bài tập phải là một mắt xích trong hệ thống bài tập, đóng góp một phần nào đó vào
việc củng cố, hoàn thiện và mở rộng kiến thức.
- Hệ thống bài tập cần bao gồm nhiều thể loại bài tập: bài tập giả tạo và bài tập có nội dung
thực tế, bài tập luyện tập và bài tập sáng tạo, bài tập cho thừa hoặc thiếu dữ kiện, bài tập mang
tính chất ngụy biện và nghịch lý, bài tập có nhiều cách giải khác nhau và bài tập có nhiều lời giải
tùy theo điều kiện cụ thể của bài tập mà giáo viên không nêu lên hoặc chỉ nêu lên một điều kiện
nào đó mà thôi.
Bài tập giả tạo: là bài tập mà nội dung của nó không sát với thực tế, các quá trình tự
nhiên được đơn giản hóa đi nhiều hoặc ngược lại, cố ý ghép nhiều yếu tố thành một đối tượng
phức tạp để luyện tập, nghiên cứu. Bài tập giả tạo thường là bài tập định lượng, có tác dụng giúp
học sinh sử dụng thành thạo các công thức để tính đại lượng nào đó khi biết các đại lượng khác
có liên quan, mặc dù trong thực tế ta có thể đo nó trực tiếp được.
Bài tập có nội dung thực tế: là bài tập có đề cập đến những vấn đề có liên quan trực
tiếp tới đối tượng có trong đời sống, kĩ thuật. Dĩ nhiên những vấn đề đó đã được thu hẹp và đơn
giản hóa đi nhiều so với thực tế. Trong các bài tập có nội dung thực tế, những bài tập mang nội
dung kĩ thuật có tác dụng lớn về mặt giáo dục kĩ thuật tổng hợp. Nội dung của các bài tập này
phải thỏa mãn các yêu cầu:
- Nguyên tắc hoạt động của các đối tượng kĩ thuật nói đến trong bài tập phải gắn bó mật
thiết với những khái niệm và định luật vật lý đã học.
- Đối tượng kĩ thuật này phải có ứng dụng khá rộng rãi trong thực tiễn sản xuất của nước ta
hoặc địa phương nơi trường đóng.
- Số liệu trong bài tập phải phù hợp với thực tế sản xuất.
- Kết quả của bài tập phải có tác dụng thực tế, tức là phải đáp ứng một vấn đề thực tiễn nào
đó.
Khi ra cho học sinh những bài tập vật lý có nội dung kĩ thuật, cần có bài tập không cho đầy
đủ dữ kiện để giải, học sinh có nhiệm vụ phải tìm những dữ kiện đó bằng cách tiến hành các
phép đo hoặc tra cứu ở các tài liệu.
Bài tập luyện tập: được dùng để rèn luyện cho học sinh áp dụng các kiến thức đã
học để giải từng loại bài tập theo mẫu xác định. Việc giải những bài tập loại này không đòi hỏi tư
duy sáng tạo của học sinh mà chủ yếu cho học sinh luyện tập để nằm vững cách giải đối với từng
loại bài tập nhất định.
Bài tập sáng tạo: là bài tập mà các dữ kiện đã cho trong đầu bài không chỉ dẫn trực
tiếp hay gián tiếp cách giải. Các bài tập sáng tạo có tác dụng rất lớn trong việc phát triển tính tự
lực và sáng tạo của học sinh, giúp học sinh nắm vững kiến thức chính xác, sâu sắc và mềm dẻo.
Bài tập sáng tạo có thể là bài tập giải thích một hiện tượng chưa biết trên cơ sở các kiến thức đã
biết. Hoặc là bài tập thiết kế, đòi hỏi thực hiện một hiện tượng thực, đáp ứng những yêu cầu đã
cho.
2. Sử dụng hệ thống bài tập:
- Các bài tập đã lựa chọn có thể sử dụng ở các khâu khác nhau của quá trình dạy học: nêu
vấn đề, hình thành kiến thức mới củng cố hệ thống hóa, kiểm tra và đánh giá kiến thức kĩ năng
của học sinh.
- Trong tiến trình dạy học một đề tài cụ thể, việc giải hệ thống bài tập mà giáo viên đã lựa
chọn cho học sinh thường bắt đầu bằng những bài tập định tính hay những bài tập tập dợt. Sau đó
học sinh sẽ giải những bài tập tính toán, bài tập đồ thị, bài tập thí nghiệm có nội dung phức tạp
hơn. Việc giải những bài tập tính toán tổng hợp, những bài tập có nội dung kĩ thuật với dữ kiện
Trang 16
không đầy đủ, những bài tập sáng tạo có thể coi là sự kết thúc việc giải hệ thống bài tập đã được
lựa chọn cho đề tài.
- Cần chú ý cá biệt hóa học sinh trong việc giải bài tập vật lý, thộng qua các biện pháp sau
+ Biến đổi mức độ yêu cầu của bài tập ra cho các loại đối tượng học sinh khaac1 nhau, thể
hiện ở mức độ trừu tượng của đầu bài, loại vấn đề cần giải quyết, phạm vi và tính phức hợp của
các số liệu cần xử lý, loại và số lượng thao tác tư duy logic và các phép biến đổi toán học cần sử
dụng, phạm vi và mức độ các kiến thức, kĩ năng cần huy động.
+ Biến đổi mức độ yêu cầu về số lượng bài tập cần giải, về mức độ tự lực của học sinh
trong quá trình giải bài tập.
Trang 17
PHẦN VẬN DỤNG
Lựa chọn hệ thống bài tập và phương pháp giải bài tập chương “Dòng điện xoay chiều” lớp
12 – Chương trình nâng cao.
A. TÓM TẮT LÝ THUYẾT.
Chủ đề 1: Dòng điện xoay chiều – Mạch điện xoay chiều không phân
nhánh (Mạch R, L, C mắc nối tiếp).
I. Suất điện động xoay chiều:
Cho một khung dây dẫn phẳng có diện tích S quay đều với tốc độ góc ω quanh một trục
vuông góc với các đường sức từ của một từ trường đều có cảm ứng từ
B
uur
. Theo định luật cảm
ứng điện từ, trong khung dây xuất hiện một suất điện động biến đổi theo thời gian theo định luật
dạng sin gọi tắt là suất điện động xoay chiều.
1. Từ thông: gởi qua khung dây dẫn gồm N vòng dây có diện tích S quay trong từ trường
đều
B
ur
, giả sử tại t = 0,
( )
,n B
ϕ
=
r ur
thì:
( )
cosNBS t
ω ϕ
Φ = +
( )
cos
o
t
ω ϕ
Φ = Φ +
Đơn vị: Φ : Vêbe (Wb)
N : vòng
B : Tesla (T)
S : m
2
2. Suất điện động xoay chiều tức thời:
( ) ( )
'
sin sin
o o
e t E t
ω ω ϕ ω ϕ
= −Φ = Φ + = +
Hay
( )
cos
2
cos
o
o o
te E E t
π
ω ϕ ω ϕ
+ + =
÷
= +
Với E
o
= NBSω : suất điện động cực đại.
Đơn vị: e, E
o
: vôn (V)
N : vòng
B : Tesla (T)
S : m
2
ω
: rad/s
Chu kì và tần số biến đổi của suất điện động liên hệ với tần số góc ω bởi các công thức:
2
T
π
ω
=
(đơn vị : s) ,
2
f
ω
π
=
(đơn vị : Hz)
II. Điện áp xoay chiều – Dòng điện xoay chiều
1. Biểu thức điện áp tức thời: nếu nối hai đầu khung dây với mạch ngoài thành mạch kín thì
biểu thức điện áp tức thời ở mạch ngoài là:
u = e – ir
Xem khung dây có r
2
≈
0 thì
( )
cos
o o
u e E t
ω ϕ
= = +
Tổng quát:
( )
cos
o u
u U t
ω ϕ
= +
Với U
o
: điện áp cực áp (V)
u
ϕ
: pha ban đầu của u (rad)
Trang 18
ω
: tần số góc bằng vận tốc quay của khung (rad/s)
2. Biểu thức cường độ dòng điện tức thời:
( )
cos
o
i
i I t
ω ϕ
= +
Với I
o
: cường độ dòng điện cực đại (A)
i
ϕ
: pha ban đầu của i (rad)
Đại lượng:
u
i
ϕ ϕ ϕ
= −
gọi là độ lệch pha của u so với i
Nếu ϕ > 0 thì u sớm pha so với i
ϕ < 0 thì u trễ pha so với i
ϕ = 0 thì u và i đồng pha
III. Các giá trị hiệu dụng:
- Cho dòng điện xoay chiều có cường độ
cos
o
i I t
ω
=
chạy qua đoạn mạch chỉ có điện trở
thuần R. Công suất tỏa nhiệt tức thời (công suất tại thời điểm t bất kì) có công thức:
2 2 2
cos
o
p Ri RI t
ω
= =
(đơn vị : W)
Công suất tỏa nhiệt trung bình của dòng điện xoay chiều trong một chu kì, gọi tắt là công
suất tỏa nhiệt trung bình, có giá trị là:
P =
2
2 2 2
cos
2
o
o
RI
p RI t RI
ω
= = =
(đơn vị : W)
Đó cũng là công suất tỏa nhiệt trung bình trong thời gian t rất lớn so với chu kì, vì phần
thời gian lẻ so với chu kì rất nhỏ, gây sai lệch không đáng kể. Vậy nhiệt lượng tỏa ra trong thời
gian t là:
2
2
2
o
RI
Q t RI t= =
( đơn vị : J )
- Giá trị hiệu dụng của dòng điện xoay chiều nhỏ hơn giá trị cực đại
2
lần
2
o
I
I =
,
2
o
U
U =
,
2
o
E
E =
IV. Đoạn mạch chỉ có R, chỉ có C, chỉ có L:
- Cảm kháng của cuộn cảm: Z
L
= Lω
- Dung kháng của tụ điện : Z
C
=
1
C
ω
1. Đoạn mạch chỉ có điện trở thuần R:
- Pha : u đồng pha i
0
R
ϕ
⇒ =
- Biểu thức định luật Ôm:
o
o
U
I
R
=
hay
U
I
R
=
- Biểu diễn bằng vectơ quay:
2. Đoạn mạch chỉ có tụ điện C:
- Pha : u chậm pha hơn i một góc
2
C
ϕ
π
= −
rad
- Biểu thức định luật Ôm:
o
o
C
U
I
Z
=
hay
C
U
I
Z
=
- Biểu diễn bằng vectơ quay:
Trang 19
x
O
x
O
I
r
U
ur
I
r
S
S
3. Đoạn mạch chỉ có cuộn cảm L:
- Pha : u nhanh pha hơn i một góc
2
L
ϕ
π
=
rad
- Biểu thức định luật Ôm:
o
o
L
U
I
Z
=
hay
L
U
I
Z
=
- Giản đồ vectơ quay:
V. Mạch có R, L, C mắc nối tiếp - Cộng hưởng điện
1. Độ lệch pha của điện áp so với cường độ dòng điện
1
tan
L
C
L
Z Z
C
R R
ω
ω
ϕ
−
−
= =
Với
ϕ
là độ lệch pha của u so với i
2 2
π π
ϕ
÷
− ≤ ≤
- Nếu đoạn mạch có tính cảm kháng, tức là
1
L
C
ω
ω
>
thì
ϕ
> 0, cường độ dòng điện trễ
pha so với điện áp giữa hai đầu đoạn mạch .
- Nếu đoạn mạch có tính dung kháng, tức là
1
L
C
ω
ω
>
thì
ϕ
< 0, cường độ dòng điện
sớm pha so với điện áp giữa hai đầu đoạn mạch.
2. Biểu thức định luật Ôm cho đoạn mạch RLC nối tiếp. Tổng trở:
- Điện áp hiệu dụng hai đầu đoạn mạch:
( )
2
2
R L
C
U U U U= + −
- Tổng trở của đoạn mạch:
( )
2
2
2 2
1
L
C
Z R Z Z R L
C
ω
ω
÷
= + − = + −
- Công thức định luật Ôm:
U
I
Z
=
3. Giản đồ Fre-nen:
Việc tổng hợp các vectơ quay có thể tiến hành theo quy tắc hình bình hành hoặc theo
quy tắc đa giác. Các giản đồ ở các hình sau vẽ cho trường hợp U
L
> U
C
.
- Tổng hợp các vectơ theo quy tắc hình bình hành:
- Tổng hợp các vectơ theo quy tắc đa giác:
Trang 20
O
x
I
r
R
U
uuur
P
x
U
ur
ϕ
O
C
U
uuur
L
U
uur
L C
U U
+
uur uuur
ϕ
I
r
O
U
ur
C
U
uuur
P
R
U
uuur
x
Q
L
U
uur
C
U
uur
L
U
uur
I
r
4. Công suất của dòng điện xoay chiều. Hệ số công suất:
- Công suất tức thời: Cho dòng điện xoay chiều
cos
o
i I t
ω
=
chạy qua mạch RLC nối
tiếp, có
( )
cos
o
u U t
ω ϕ
= +
, thì công suất tức thời là:
( )
cos .cos
o o
p ui U I t t
ω ω ϕ
= = +
hay
( )
cos cos 2p UI UI t
ϕ ω ϕ
= + +
- Công suất trung bình: P
cos
P
UI
ϕ
=
=
(Với cos
ϕ
là hệ số công suất)
Cũng là công suất tỏa nhiệt trên R : P
R
= RI
2
- Hệ số công suất:
cos
oR
R
o
U
U
U U
R
Z
ϕ
= ==
5. Cộng hưởng điện:
a. Điều kiện để xảy ra cộng hưởng điện:
1
L
C
ω
ω
=
hay
1
LC
ω
=
b. Các biểu hiện của cộng hưởng điện:
- Z = Z
min
= R : tổng trở cực tiểu
-
max
U
I I
R
= =
: cường độ dòng điện cực đại
- U
L
= U
C
, U = U
R
-
ϕ
= 0 : u và i đồng pha
-
cos 1
ϕ
=
: hệ số công suất cực đại
- P = P
max
2
2
U
I R UI
R
= = =
: công suất tiêu thụ cực đại
Chủ đề 2: Sản xuất – Truyền tải điện năng
I. Máy phát điện:
1. Máy phát điện xoay chiều một pha:
Nguyên tắc hoạt động của máy phát điện xoay chiều là dựa trên hiện tượng cảm ứng điện
từ và đều có hai bộ phận chính là phần cảm và phần ứng.
- Giả sử tại t = 0, ta có
( )
, 0n B =
r ur
thì từ thông gửi qua mỗi vòng dây là:
1
cos cos
o
BS t t
ω ω
Φ = = Φ
,
Với
o
Φ
là từ thông cực đại qua mỗi vòng dây của mát phát điện.
Suất điện động xoay chiều trong mỗi cuộn dây của máy phát điện là:
1
sin sin
o o
d
e N N t E t
dt
ω ω ω
Φ
= − = Φ =
Với
o o
E N NBS
ω ω
= Φ =
là suất điện động cực đại (V).
- Nếu tại t = 0, ta có
( )
,n B
ϕ
=
r ur
thì
( ) ( )
1
cos cos
o
BS t t
ω ϕ ω ϕ
Φ = + = Φ +
( )
sin
o
e E t
ω ϕ
⇒ = +
Tần số dòng điện:
f np=
,
Với: n là tốc độ quay của rôto, đo bằng vòng/giây.
p là số cặp cực = số nam châm.
2. Máy phát điện xoay chiều ba pha:
Trang 21
Đối với máy phát ba pha, ba cuộn dây phần ứng giống nhau và đặt lệch nhau 120
0
trên một
vòng tròn.
Suất điện động trong ba cuộn dây của Stato:
1
2
3
cos
2
cos
3
2
cos
3
o
o
o
e E t
e E t
e E t
ω
π
ω
π
ω
÷
÷
÷
÷
=
= −
= +
Dòng điện xoay chiều ba pha là hệ thống ba dòng điện xoay chiều, gây bởi ba suất điện
động xoay chiều có cùng tần số, cùng biên độ nhưng lệch pha nhau từng đôi một góc
2
3
π
rad.
Nếu tải giống nhau đều là R thì dòng điện chạy qua các tải là:
1
cos
o
i I t
ω
=
2
2
cos
3
o
i I t
π
ω
= −
÷
3
2
cos
3
o
i I t
π
ω
= +
÷
Có hai cách mắc mạch điện ba pha là mắc hình sao và mắc hình tam giác.
Công thức liên hệ giữa điện áp pha U
p
và điện áp dây U
d
, dòng điện pha I
p
và dòng điện
dây I
d
như sau:
- Đối với mạng hình sao: U
d
=
3
U
p
và I
d
= I
p
.
- Đối với mạng hình tam giác: U
d
= U
p
và I
d
=
3
I
p
.
II. Động cơ không đồng bộ:
Nguyên tắc hoạt động của động cơ không đồng bộ ba pha dựa trên hiện tượng cảm ứng
điện từ và tác dụng của từ trường quay.
Công suất tiêu thụ của động cơ điện ba pha bằng công suất tiêu thụ của ba cuộn dây stato
cộng lại: P = 3UIcosϕ.
Hiệu suất của động cơ được xác định bằng tỉ số giữa cộng suất cơ học P
i
mà động cơ sinh
ra và công suất tiêu thụ P của động cơ:
i
P
H
P
=
Công suất hao phí do tỏa nhiệt: P = 3I
2
R
Với R là điện trở thuần của mỗi cuộn dây trong stato.
III. Máy biến áp:
Máy biến áp (biến thế) là thiết bị hoạt động dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ, dùng để
biến đổi điện áp xoay chiều mà không làm thay đổi tần số của nó. Ta xét máy biến áp một pha:
Hệ số biến áp:
1
1
2 2
N
U
k
U N
= =
Với U
1
, N
1
: điện áp, số vòng dây của cuộn sơ cấp
U
2
, N
2
: điện áp, số vòng dây của cuộn thứ cấp
Nếu k < 1 : máy biến áp là máy tăng áp
k > 1 : máy biến áp là máy hạ áp.
Trang 22
Công suất vào (sơ cấp):
1 1
1 1 1 1
cos U IP U I
ϕ
==
(xem
1
cos 1
ϕ
≈
)
Công suất ra (thứ cấp) :
2 2
2 2 2 2
cos U IP U I
ϕ
==
(xem
2
cos 1
ϕ
≈
)
Nếu hiệu suất của biến áp là 100% thì:
1
2
2 1
1 2 1 1 2 2
1 2
N
N
I U
P P U I U I k
I U
== ⇒ = ⇒ = =
Gọi R điện trở đường dây, P là công suất truyền đi, U là điện áp ở nơi phát, cosϕ là hệ số
công suất của mạch điện thì công suất hao phí trên đường dây là:
( )
2
2
2
cos
P
P RI R
U
ϕ
∆ = =
Hiệu suất truyền tải là:
.100% .100%
'P P P
P P
η
−∆
= =
< 1
Sự liên hệ giữa điện áp nơi đi và hiệu suất truyền tải điện năng:
'
'
1
1
U
U
η
η
−
=
−
Trang 23
B. HỆ THỐNG BÀI TẬP VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢI
I. BÀI TẬP ĐỊNH TÍNH.
1. Đề bài:
Bài 1:
Giải thích tại sao khi có dòng điện đi từ A đến M thì cũng có dòng điện cùng cường độ đi từ
N tới B?
Bài 2:
Trong thí nghiệm như ở hình bên. Hãy dự đoán độ sáng
của đèn thay đổi như thế nào khi rút lõi sắt ra khỏi cuộn
cảm. Giải thích.
Bài 3
Giải thích vì sao đoạn mạch xoay chiều gồm cuộn thuần
cảm L nối tiếp với tụ điện C trong thực tế vẫn tiêu thụ
điện năng?
Bài 4
Mạch xoay chiều R, L, C nối tiếp có phải là mạch dao động không? Vì sao?
Bài 5
Đối với máy biến áp hàn điện, cuộn dây thứ cấp có tiết diện lớn hơn cuộn sơ cấp, vì sao?
2. Hướng dẫn giải và giải:
Bài 1:
Tiến trình hướng dẫn học sinh giải:
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Hãy so sánh giá trị điện tích trên hai bản tụ
điện.
- Nếu điện tích trên bản tụ M tăng thì điện
tích trên bản tụ điện N có thay đổi không?
- Như vậy, lượng điện tích chạy trên dây nối
A với M và trên dây nối N với B bằng nhau.
Do đó, cường độ dòng điện chạy trên hai
dây nối này có mối quan hệ như thế nào?
- Điện tích trên hai bản tụ điện luôn bằng
nhau về độ lớn và trái dấu nhau.
- Điện tích trên hai bản tụ điện bằng nhau
và trái dấu nên nếu điện tích trên bản tụ
điện M tăng bao nhiêu lần thì điện tích
trên bản tụ điện N giảm bấy nhiêu lần.
- Cường độ dòng điện chạy trên hai dây
nối AM và NB bằng nhau.
Bài giải:
Điện tích trên hai bản tụ luôn bằng nhau về độ lớn và trái dấu nên trong mỗi khoảng thời
gian bất kì, điện tích bản tụ M tăng lên bao nhiêu thì điện tích bản tụ N lại giảm đi bấy
nhiêu. Do đó, lượng điện tích chạy trên dây nối A với M và trên dây nối N với B bằng
nhau, suy ra cường độ dòng điện chạy trên hai dây nối này bằng nhau.
Bài 2:
Tiến trình hướng dẫn học sinh giải:
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Ban đầu khi chưa rút lõi sắt, mắc A, B với - Mắc A, B với nguồn điện xoay chiều thì
Trang 24
:
u
A
B
M
N
C
nguồn điện xoay chiều thì có hiện tượng gì
xảy ra?
- Khi rút lõi sắt ra khỏi cuộn dây, thì độ tự
cảm của cuộn dây có thay đổi không?
- Độ tự cảm L thay đổi thì cường độ dòng
điện trong mạch thay đổi như thế nào?
bóng đèn Đ sẽ sáng.
- Vì lõi sắt sẽ tạo ra độ từ thẩm lớn nên
khi rút lõi sắt ra khỏi cuộn dây thì độ tự
cảm của cuộn dây sẽ giảm.
- L giảm
⇒
Z
L
giảm ⇒
L
U
I
Z
=
tăng.
Vì vậy độ sáng của bóng đèn tăng lên.
Bài giải:
Ban đầu khi chưa rút lõi sắt, do có dòng điện chạy qua bóng đèn nên bóng đèn sẽ sáng.
Khi rút lõi sắt ra khỏi cuộn dây thì độ sáng của bóng đèn tăng lên, bóng đèn sẽ sáng hơn so
với lúc ban đầu.
Giải thích:
Khi rút lõi sắt ra khỏi cuộn dây, độ tự cảm L của cuộn dây giảm
⇒
Z
L
giảm. Do U không
thay đổi nên
L
U
I
Z
=
tăng. Vì vậy, độ sáng của bóng đèn sẽ tăng lên.
Bài 3:
Tiến trình hướng dẫn học sinh giải:
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Trong thực tế mạch LC có tiêu thụ điện
năng hay không?
Có 2 nguyên nhân:
- Nguyên nhân 1: Trong thực tế cuộn dây
vẫn có r nhỏ, dây nối có r
d
nên có sự tỏa
nhiệt. Do đó mạch vẫn tiêu thụ điện năng.
- Nguyên nhân 2:
+ Dòng điện chạy qua mạch L nối tiếp C có
chiều ổn định hay thay đổi?
- Khi dòng điện qua cuộn cảm L biến thiên
liên tục sẽ dẫn đến kết quả gì?
- Vậy dòng điện xoay chiều chạy qua tụ
điện có bức xạ ra sóng điện không? Giải
thích?
- Rút ra kết luận gì?
- Thực tế trong cuộn dây có điện trở nên
có sự tỏa nhiệt. Do đó mạch vẫn tiêu thụ
điện năng.
+ Vì dòng điện chạy qua mạch L nối tiếp
C là dòng điện xoay chiều nên có chiều
thay đổi theo thời gian.
- Dòng điện xoay chiều qua L biến thiên
liên tục làm từ trường biến thiên → xuất
hiện điện trường biến thiên ⇒ bức xạ ra
sóng điện từ.
- Vì điện tích của C biến thiên làm điện
trường biến thiên tạo ra từ trường biến
thiên ⇒ bức xạ ra sóng điện từ.
- Vì mạch điện xoay chiều L nối tiếp C
tiêu thụ điện trong mạch để phát ra bức xạ
sóng điện từ nên trong thực tế có tiêu thụ
điện năng.
Bài giải:
Có 2 nguyên nhân:
- Trong thực tế cuộn dây vẫn có r nhỏ, dây nối có r
d
nên có sự tỏa nhiệt.
- Dòng điện xoay chiều qua L tạo ra từ trường biến thiên làm xuất hiện điện trường
biên thiên ⇒ bức xạ ra sóng điện từ.
Trang 25