Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Khung pháp luật chung cho nhà đầu tư trong và ngoài nước 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.32 KB, 15 trang )


16
3) Các nhà đầu tư Việt Nam tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài.
4) Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp BOT,
BT, BTO.
5) Người lao động.
6) Các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế.
Cơ sở pháp lý để hình thành quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ
pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có những nét đặc thù riêng so với các
ngành luật khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, các chủ thể của quan hệ pháp luật đó có các quyền và nghĩa vụ nhất định
trên cơ sở các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật
của nước mà cá nhân, tổ chức kinh tế nước ngoài mang quốc tịch và các quy
định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, hoặc trên cơ sở
kết hợp các quy định đó.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam còn được xác định theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (1999), Hiệp định
song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Cơ quan đảm bảo đầu tư đa
biên MIGA 1985 (Multilateral Investment Guarantee Agency), Công ước New
York 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài
Các điều ước quốc tế đó là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam cũng được xác định theo quy định của pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, theo Giấy phép đầu tư và theo các văn bản cụ thể được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuẩn y. Trong một số trường hợp đặc biệt còn
được xác định theo quy chế riêng do Chính phủ Việt Nam ấn định sau khi có sự
thỏa thuận với đối tác bên ngoài, ví dụ một số hợp đồng BOT, BT, BTO


nc ngoi ti Vit Nam, Lun án phó tin s lut hc, H Ni

17
1.2.2.4. Pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu thành là một số
lượng lớn các điều ước quốc tế có liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài
mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu
thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung về khu vực
đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
34 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
kỳ Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên và nhiều bên được
tiến hành theo các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các
điều ước quốc tế. Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là
các điều ước quốc tế, nhưng không nhiều hoặc phong phú như Luật Đầu tư nước
ngoài. Ví dụ: Luật Tố tụng hình sự có các điều ước quốc tế song phương về
tương trợ tư pháp hoặc hẹp hơn là về dẫn độ tội phạm. Nhưng trong lĩnh vực
này, Việt Nam tham gia với số lượng rất ít, chủ yếu là ký kết với các nước
XHCN trước đây.
Trong pháp luật đầu tư nước ngoài, các quy phạm trong các điều ước quốc
tế tham gia điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của chủ thể các quan hệ pháp luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài coi các điều ước quốc tế
là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Đây
có thể nói là một nét đặc thù của pháp luật đầu tư nước ngoài, bởi lẽ tham gia
điều chỉnh các quan hệ xã hội của các ngành luật khác có thể có các quy phạm
được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập,
nhưng số lượng của chúng không nhiều và phổ biến như ở pháp luật đầu tư nước
ngoài.
1.2.3. Vai trò của pháp luật Đầu tư nước ngoài
Trong xã hội chủ nghĩa, pháp luật giữ vai trò quan trọng. Pháp luật là
phương tiện thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo

của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là
phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện các chức

18
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Pháp luật đầu tư nước ngoài với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong lĩnh vực đầu tư, luôn tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các
quan hệ đầu tư nói chung, cũng như tới tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng nói riêng. Pháp luật đầu tư nước ngoài có một số vai trò chủ yếu sau đây:
1.2.3.1. Pháp luật đầu tư nước ngoài là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện
bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư
Bộ máy quản lý nhà nước nói chung, bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư
nói riêng là một thiết chế phức tạp gồm nhiều cơ quan khác nhau. Để bộ máy đó
hoạt động có hiệu quả, phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm
của mỗi loại cơ quan, phải xác lập một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ
giữa chúng, phải có những phương pháp và hình thức tổ chức, hoạt động phù hợp
để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực đầu tư. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ
sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật đầu tư.
Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua cho thấy, khi chưa có hệ thống
các quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho
việc củng cố, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư, thì dễ dẫn đến tình
trạng trùng lập, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của
một số cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này, dễ sinh ra cồng kềnh, kém hiệu quả.
1.2.3.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu
quả chức năng tổ chức và quản lý đầu tư, góp phần xây dựng cơ sở vật chất
của chủ nghĩa xã hội
Chức năng tổ chức và quản lý đầu tư có phạm vi rộng và phức tạp bao gồm
nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà Nhà nước cần xác lập, điều tiết và giải quyết
như: hoạch định các chính sách đầu tư, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá

cả… Tất cả những điều đó đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của Nhà nước để
tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy hoạt động đầu tư đúng hướng, mang lại hiệu
quả thiết thực. Do tính chất phức tạp của hoạt động đầu tư (nhiều vấn đề cần giải

19
quyết) và phạm vi rộng (trên quy mô toàn quốc) của chức năng quản lý đầu tư,
Nhà nước không thể tham gia vào các hoạt động đầu tư cụ thể mà chỉ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Quá trình đó không thể
thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật đầu tư nước ngoài. Chỉ có pháp luật
đầu tư nước ngoài với những tính chất đặc thù của nó mới là cơ sở để Nhà nước
hoàn thành được chức năng của nó trong lĩnh vực đầu tư.
Quá trình tổ chức và quản lý đầu tư ở Việt Nam trong những năm qua đã là
một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật đầu tư nước ngoài. Tình
trạng thiếu các quy phạm pháp luật về đầu tư nước ngoài cũng như sự tồn tại quá
lâu những văn bản, những quy phạm pháp luật đầu tư của cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp, đã làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển
của hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng, của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
1.2.3.3. Pháp luật đầu tư nước ngoài bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư
nước ngoài, đồng thời bảo hộ sản xuất trong nước
Nhằm khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Luật Đầu
tư nước ngoài năm 1987 và 1996 đã khẳng định quyền được tôn trọng và bảo vệ
của các nhà đầu tư nước ngoài và quy định một số ưu đãi hơn đối với đầu tư
trong nước. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước ta đã xác lập những
chế định bảo hộ và khuyến khích đầu tư nước ngoài rất rõ ràng.
Tuy nhiên, chúng ta khuyến khích đầu tư nước ngoài một phần là vì nhu
cầu phát triển sản xuất trong nước. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định "Vốn
nước ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định". Do vậy, đi đôi với việc
khuyến khích, ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư trong nước chú
trọng bảo hộ sản xuất trong nước. Đây là nguyên tắc phát triển kinh tế của mọi
quốc gia, có chăng chỉ khác nhau về mức độ và nội dung bảo hộ mà thôi. Chính

bản thân sự xuất hiện của pháp luật đầu tư nước ngoài đã nói lên tư tưởng bảo hộ
sản xuất trong nước. Việc đề ra pháp luật đầu tư nước ngoài là nhằm quy định
một hành lang pháp lý riêng cho hoạt động đầu tư nước ngoài, để tách một số
hoạt động, cũng như một số ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài khỏi "sân

20
chơi" của các doanh nghiệp Việt Nam, dành một số lợi thế so sánh cho các
doanh nghiệp trong nước. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam
còn được hưởng một số đặc quyền hoặc ưu đãi thì mới tồn tại và phát triển được,
nhất là trong giai đoạn nền kinh tế của ta còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp
trong nước chưa đủ mạnh. Chúng ta chủ trương bảo hộ sản xuất trong nước
trong một số lĩnh vực, phạm vi và mức độ nhất định để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong nước dần mạnh lên. Vì vậy, có thể khẳng định một trong
những vai trò rất quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài là bảo vệ lợi ích
của nhà đầu tư nước ngoài, nhưng đồng thời cũng là hành lang pháp lý để bảo hộ
sản xuất trong nước. Điều đó góp phần từng bước xây dựng một nền kinh tế tự
cường, loại bỏ mọi nguy cơ biến nền kinh tế nước ta thành một nền kinh tế lệ
thuộc vào bên ngoài.
1.2.3.4. Pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư
tại Việt Nam
Pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời là để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các
quan hệ xã hội về đầu tư. Pháp luật đầu tư nước ngoài cũng tác động trở lại làm
cho các quan hệ đầu tư phát sinh, phát triển theo hướng có lợi.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo chỉ có thể mang lại
kết quả khi pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng phản ánh
đúng các quy luật kinh tế khách quan trong điều kiện mới của nền kinh tế nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Chính
sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài, tạo tiền đề cho sự
cởi trói, thúc đẩy các quan hệ đầu tư mới phát triển. Đối với sự phát triển hoạt
động đầu tư, pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò cụ thể như sau:

Thứ nhất, pháp luật đầu tư nước ngoài tạo cơ sở cho việc xác lập những
nguyên tắc pháp lý cơ bản đảm bảo cho sự vận hành của hoạt động đầu tư tại
Việt Nam có hiệu quả.
Có thể nói đây là vai trò quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài, phản
ánh những đòi hỏi khách quan của sự phát triển các quan hệ đầu tư được thể chế

21
hóa, hình thành những nguyên tắc pháp lý xuyên suốt, chi phối sự vận hành của
cơ chế quản lý đầu tư cũng như đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của các quan
hệ đầu tư. Để xây dựng một nền kinh tế thị trường, không thể bỏ qua các nguyên
tắc cơ bản như: tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do hình thành giá cả, khuyến
khích cạnh tranh. Một khi các nguyên tắc trên được thể chế hóa thành những
nguyên tắc pháp lý, thì nó trở thành những tiêu chí cho sự lựa chọn hệ thống các
giải pháp, công cụ để tác động lên hoạt động đầu tư, làm cho nó không thoát ly
trật tự hình mẫu mà nó đang vươn tới và đem lại những kết quả khả quan cho
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật đầu tư nước ngoài xác lập môi trường an toàn cho sự
xuất hiện của các quan hệ đầu tư nước ngoài, đảm bảo cho các quan hệ đó được
điều chỉnh trong trật tự.
Đây là vấn đề mang tính quy luật, bởi lẽ sự hợp tác và mối quan hệ giữa
các tổ chức, cá nhân nước ngoài với nước ta chỉ có thể phát triển trong môi
trường chính trị, kinh tế, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Đối với các
nhà đầu tư nước ngoài, thị trường đầu tư của họ rất rộng lớn trong phạm vi quốc
tế; quan hệ đầu tư ra nước ngoài của họ là quan hệ kinh doanh, mục đích của họ
là tìm kiếm lợi nhuận cao. Vì vậy, họ chỉ chấp nhận đầu tư vào đâu có lợi nhuận
thỏa đáng. Đảm bảo hoạt động đầu tư cho họ đồng nghĩa với đảm bảo cho họ có
đủ điều kiện để có lợi nhuận. Đó là môi trường đầu tư ổn định, độ rủi ro trong
kinh doanh không cao, thủ tục đầu tư đơn giản, thuận tiện.
ở Việt Nam đã có môi trường pháp lý đáng tin cậy, và nhờ đó, các quan hệ
kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng đã mở

rộng, phát triển và đem lại hiệu quả đáng kể góp phần quan trọng và sự phát
triển xã hội.
1.2.3.5. Pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy và phát triển
mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc
Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các
nước ngày càng lớn và tính chất các mối quan hệ đó ngày càng đa dạng. Cơ sở

22
cho việc thiết lập các mối quan hệ đó chính là pháp luật: pháp luật quốc tế và
pháp luật của mỗi nước. Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi
nước có bước phát triển mới; bên cạnh pháp luật đầu tư trong nước điều chỉnh
hoạt động đầu tư của cá nhân, tổ chức trong nước, còn có pháp luật đầu tư nước
ngoài điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến hoạt động đầu tư của tổ chức, cá
nhân nước ngoài.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từng bước hội nhập vào
kinh tế khu vực và quốc tế, pháp luật đầu tư trong nước và pháp luật đầu tư nước
ngoài là công cụ quan trọng không chỉ tạo ra môi trường pháp lý an toàn cho
việc mở cửa nền kinh tế, mà còn tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cho các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia vào thị trường quốc tế. Pháp luật đầu tư nước ngoài là điều kiện quan
trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng mối quan hệ hữu nghị với các quốc
gia, dân tộc. Nói cách khác, sự phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài gắn
liền với sự phát triển về chính sách đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài của
Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Chương 2
sự hình thành và phát triển của hệ thống
pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

2.1. Giới thiệu về hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài
Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể được hiểu theo

nghĩa rộng, hoặc nghĩa hẹp. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, hệ thống pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, gồm ba bộ phận cấu thành:
Bộ phận thứ nhất: Đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn
trực tiếp thi hành.
Văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài được ban hành ngày 18/4/1977 là
Điều lệ Đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm
1977). Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp luật đầu tiên của

23
Nhà nước ta quy định các nguyên tắc cơ bản về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
và những vấn đề về lĩnh vực đầu tư, đối tác đầu tư, góp vốn đầu tư, hình thức
đầu tư, thời hạn đầu tư, thuế áp dụng cho đầu tư nước ngoài, quản lý ngoại hối
và chế độ kế toán thống kê, thủ tục đầu tư, giải thể, xử lý tranh chấp.
Đạo luật đầu tư nước ngoài thứ hai được Quốc hội ban hành ngày
31/12/1987, tạo cơ sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Việc soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu
tư nước ngoài năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh
nghiệm lập pháp đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới. Tiếp đó, Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 139/HĐBT ngày
5/9/1988 (sau đây gọi là Nghị định 139) gồm 11 chương, 113 điều quy định chi
tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa
VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990). Sau
khi sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1990, 7 văn
bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành mới
hoặc được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Tiếp theo đó, ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là

Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992). Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài
(sửa đổi) năm 1992 được thông qua, Nghị định số 18/CP ngày 26/12/1992 của
Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế cho Nghị định số 28/HĐBT ngày
6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17 văn bản pháp luật liên quan đến
đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành.
Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu tư nước ngoài tại

24
Việt Nam năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990, Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể
hiện chính sách nhất quán thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của Đảng và
Nhà nước ta. Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định số
12/CP ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp
luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng được ban hành.
Ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước
ngoài (sửa đổi) năm 2000). Trên cơ sở Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm
2000 và Nghị định 24, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành hơn 20 văn bản
pháp lý để hướng dẫn thi hành.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 cùng hệ
thống các văn bản pháp luật nói trên đã tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều
chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng
về phát triển và mở cửa nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Bộ phận thứ hai: pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không chỉ
thuần túy là các đạo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm
1987, 1996 và các văn bản hướng dẫn trực tiếp mà còn là các quy định trong các
đạo luật khác như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Phá sản doanh nghiệp,

Luật Đất đai, các đạo luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu,
Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT…
Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài là đối
tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài phần lớn mang tính chất hàng
hóa, tiền tệ, cho nên pháp luật đầu tư nước ngoài có quan hệ rất chặt chẽ với Bộ
luật Dân sự. Pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ quy định nguyên tắc, còn một số
chế định của Bộ luật Dân sự có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài, đồng
thời cũng là bộ phận cấu thành pháp luật đầu tư nước ngoài quy định cụ thể.
Phần thứ VII Bộ luật Dân sự quy định về các quan hệ dân sự có yếu tố nước

25
ngoài, trong đó quy định cụ thể các vấn đề về nguyên tắc áp dụng pháp luật nước
ngoài và điều ước quốc tế (Điều 828), căn cứ chọn pháp luật áp dụng đối với
người không có quốc tịch hoặc người nước ngoài có nhiều quốc tịch (Điều 829),
năng lực dân sự của pháp nhân nước ngoài (Điều 832), quyền sở hữu tài sản
(Điều 838). Trong Bộ luật Dân sự còn có những điều luật quy định trực tiếp một
số vấn đề của đầu tư nước ngoài, ví dụ: việc sát nhập, mua lại, chuyển đổi và tái
cơ cấu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện trên cơ sở
Điều 19a Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 và Điều 321 Bộ luật Dân sự.
Trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao giờ cũng phát sinh quan hệ lao
động giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với người lao động làm việc
trong các doanh nghiệp đó và các quan hệ khác gắn bó chặt chẽ với quan hệ lao
động như quan hệ giữa công đoàn với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
quan hệ trong việc giải quyết tranh chấp lao động Luật Đầu tư nước ngoài hiện
hành không có các điều khoản riêng quy định về việc sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phải tuân thủ các quy định trong Bộ luật Lao động, các văn bản
hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội. Thời kỳ ta chưa có Bộ luật Lao động, Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 và Nghị định số 139/HĐBT ngày 5/9/1988 của Hội đồng Bộ trưởng

quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Nghị định 139)
đã dành hẳn một chương quy định những vấn đề về quan hệ lao động trong hoạt
động đầu tư nước ngoài. Nhưng khi có Bộ luật Lao động năm 1994, đạo luật
Đầu tư nước ngoài chỉ quy định mang tính chất dẫn chiếu như Điều 25 Luật Đầu
tư nước ngoài năm 1996 quy định: "Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động
làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được bảo đảm bằng hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và các quy định của pháp luật về lao
động".
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có liên quan đến một loạt vấn
đề rất nhạy cảm, như: sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, thế chấp

26
quyền sử dụng đất. Đối với các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sử dụng đất của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạo luật Đầu tư nước ngoài chỉ quy
định những vấn đề mang tính đặc thù của đầu tư nước ngoài, còn các chế định
của Luật Đất đai liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài và là một bộ phận
của pháp luật đầu tư nước ngoài, quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: Nghị
định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi là Nghị định 24) chỉ quy
định những vấn đề đặc thù của đầu tư nước ngoài có liên quan đến đất đai, như:
thuê đất, trả tiền thuê đất, mức tiền thuê đất và miễn, giảm tiền thuê đất, thẩm
quyền quyết định cho thuê đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, thời hạn tính tiền
thuê đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Những thủ tục cụ thể được quy
định trong Thông tư số 679/TT-ĐC ngày 12/5/1997 của Tổng cục Địa chính
hướng dẫn việc cho thuê đất để thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 4/4/1998 quy định về việc bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đai để sử dụng cho mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và công cộng
Cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải có nghĩa vụ đóng góp các khoản thuế nhất định cho Nhà nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
thuế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư nước
ngoài chỉ quy định những vấn đề có tính đặc thù của đầu tư nước ngoài, còn các
đạo luật thuế quy định những vấn đề cụ thể. Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày
11/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện thuế giá trị gia tăng,
Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 28/1998/NĐ-CP; Nghị quyết số 90/1999/NQ-UBTVQH ngày
3/9/1999 của ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa
và dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng, Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày
9/5/2000 của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện Nghị quyết số
90/1999/NQ-UBTVQH và Thông tư số 49/2000/TT-BTC ngày 31/5/2000 của

27
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 9/5/2000
của Chính phủ Trước đây, pháp luật đầu tư nước ngoài quy định các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp thuế lợi tức. Khi Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp ra đời năm 1997, thì đối tượng áp dụng được quy định bao gồm cả
các dự án đầu tư nước ngoài (Điều 1, 3). Về mức thuế suất, do đặc thù của đầu
tư nước ngoài, nên khoản 2 Điều 10 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy
định vẫn áp dụng mức thuế suất của Luật Đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cách
tính thuế và quy trình, thủ tục nộp thuế thì được thực hiện theo quy định của
Thuế Thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, Điều 49 Luật Đầu tư nước ngoài hiện
hành còn quy định: "Ngoài các loại thuế quy định tại luật này, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh
phải nộp các loại thuế khác theo quy định của pháp luật". Như vậy, ngoài các
quy định mang tính đặc thù của pháp luật đầu tư nước ngoài về thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế nhập khẩu các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp các loại thuế khác bình đẳng như
doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với những vấn đề liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Thương mại quy định cụ thể các điều
kiện và thủ tục xuất nhập khẩu, gia công, đại lý, mua bán hàng hóa của các các
doanh nghiệp nói chung, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, còn đạo luật Đầu tư nước ngoài chỉ có những quy định mang tính đặc thù
của hoạt động đầu tư nước ngoài hoặc có những quy định có tính nguyên tắc. Ví
dụ: Điều 31 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành quy định quyền tự chủ kinh
doanh trong việc nhập khẩu, ủy quyền nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác
kinh doanh, còn trình tự, thủ tục của việc nhập khẩu, ủy quyền nhập khẩu tiêu
thụ hàng hóa thì được quy định cụ thể trong Luật Thương mại
Một vấn đề quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là
chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong số

28
các dự án đầu tư nước ngoài, một số dự án có thể phải chấm dứt hoạt động do
doanh nghiệp gặp khó khăn trong tài chính, thậm chí ở trong tình trạng phá sản.
Đối với những trường hợp như vậy, Nhà nước phải có những quy định để đảm
bảo các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thanh lý, chấm dứt hoạt
động hoặc phá sản một cách công bằng. Để xử lý việc chấm dứt hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạo luật đầu tư nước ngoài chỉ quy
định nguyên tắc, còn các chế định của Luật Phá sản doanh nghiệp liên quan đến
việc phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và là một bộ phận của pháp
luật đầu tư nước ngoài quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: vấn đề phá sản
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quy định cụ thể trong Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1993, Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp, Nghị định số 92/CP ngày
19/12/1995 của Chính phủ về quyền lợi của người lao động trong các doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản Như vậy, trong mối quan hệ với pháp luật đầu tư
nước ngoài, nhiều chế định của Luật Phá sản doanh nghiệp được coi là một bộ
phận cấu thành pháp luật đầu tư nước ngoài, đóng một vai trò hết sức quan trọng

trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi chấm dứt hoạt động của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài ra, một số quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn chịu sự điều
chỉnh của một số ngành luật chuyên biệt. Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
khoáng sản chịu sự quy định của Luật Khoáng sản về thời hạn của các giấy phép
thăm dò, khai thác, diện tích được phép thăm dò, khai thác; đầu tư trong lĩnh vực
dầu khí chịu sự điều chỉnh của Luật Dầu khí; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
ngân hàng chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng
Bộ phận thứ ba: là các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu tư nước
ngoài được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia.
Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu
thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung về khu vực

29
đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
34 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
kỳ Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên và nhiều bên được
tiến hành theo các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các
điều ước quốc tế. Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là
các điều ước quốc tế, nhưng không nhiều hoặc phong phú như Luật Đầu tư nước
ngoài. Ví dụ: Luật Tố tụng hình sự có các điều ước quốc tế song phương về
tương trợ tư pháp hoặc hẹp hơn là về dẫn độ tội phạm. Nhưng trong lĩnh vực
này, Việt Nam tham gia với số lượng rất ít, chủ yếu là ký kết với các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ bao gồm đạo
luật Đầu tư nước ngoài và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành

2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài qua các
giai đoạn lịch sử

Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế-xã hội trong nước, có thể chia sự
hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất, từ năm 1975 đến năm 1987
- Giai đoạn thứ hai, từ năm 1987 đến năm 1996
- Giai đoạn thứ ba, từ năm 1996 đến nay
2.2.1. Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987)
Giai đoạn này có đặc điểm là miền Nam mới được giải phóng, nước ta
đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; cả
nước hòa bình, độc lập và thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều
thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn
dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Thể chế hóa đường lối, chính sách kinh tế và đối ngoại của Đảng, ngày
18/4/1977, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Điều lệ Đầu tư

30
nước ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977). Việc nghiên
cứu Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 cho thấy, đây là văn bản pháp lý đầu
tiên hướng vào nền kinh tế thị trường, thể hiện bước đầu quan điểm "mở cửa"
của Đảng và Nhà nước ta, bởi lẽ Điều lệ khuyến khích đầu tư nước ngoài vào
mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trừ những ngành nghề bị cấm. Tuy nhiên, do Điều
lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 được ban hành trong bối cảnh của cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp đang thịnh hành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; các vấn đề lý luận về kinh tế thị trường đang là điều cấm kỵ, cho nên Điều
lệ cũng không tránh khỏi những hạn chế, còn bộc lộ nhiều điểm chưa hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài như xí nghiệp tư doanh chỉ được phép thành lập với
điều kiện chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, mà đây là điều kiện rất khó thực hiện;
thời hạn cho phép đầu tư nước ngoài quá ngắn: từ 10 đến 15 năm kể từ ngày
được cấp giấy phép đầu tư…
Trước tình hình bị Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, chúng ta đã ký kết một số

hiệp định hợp tác đầu tư với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Các họat động đầu tư nước ngoài vào thời điểm này không chịu sự điều chỉnh
của Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 mà chịu sự điều chỉnh của các Hiệp
định này.
2.2.2. Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996)
Vào những năm đầu của giai đoạn này, tình hình kinh tế – xã hội nước ta
có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh
tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; đời sống nhân dân còn nhiều khó
khăn, các hiện tượng tiêu cực diễn ra ở nhiều nơi, có nơi có lúc nghiêm trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, ngày
31/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo cơ
sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc
soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu tư nước ngoài
năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh nghiệm lập

×