Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá ở Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.4 KB, 7 trang )

Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá ở Việt Nam
Người đầu tiên nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam là nhà
ký sinh trùng học người pháp Albert Billet (1856-1915).
Ông đã mô tả loài mới đó là sán lá song chủ Distomun
hypselobagri (1898) ký sinh trong bóng hơi cá nheo Việt
Nam.
Đến năm 1961-1976, P.G.Mamaev, U.L.Paruchin, nghiên
cứu ký sinh trùng trên 60 loài cá của vịnh Bắc Bộ đã xác
định được 190 loài giun sán ký sinh, trong đó đã mô tả
được 9 giống và 37 loài mới đối với khoa học.
Người Việt Nam đầu tiên có những công trình nghiên cứu
qui mô và đầy đủ nhất về ký sinh trùng cá là PTS Hà Ký.
Năm 1968 - 1971, khi điều tra ký sinh trùng ở 16 loài cá
kinh tế ở Bắc Bộ, Việt Nam, ông đã xác định được 120 loài
ký sinh trùng thuộc 48 giống, 37 họ, 26 bộ và 10 lớp.
Tiếp theo là công trình nghiên cứu: “Thành phần ký sinh
trùng trên một số loài cá biển có giá trị kinh tế tại Phú
Khánh (Khánh Hoà)” của nguyễn Thị Muội và Đỗ Thị Hòa
(1978-1980). Công trình này đã phát hiện được 80 loài ký
sinh trùng ký sinh trên cá biển.
Từ 1981-1985 có công trình nghiên cứu: “Khu hệ ký sinh
trùng ở 20 loài cá nước ngọt ở miền Trung và Tây Nguyên”
của Nguyễn Thị Muội và Đỗ Thị Hoà. Kết quả nghiên cứu
đã phát hiện và phân loại đựơc 117 loài ký sinh trùng, trong
đó lớp sán lá đơn chủ (Monogenea) chiếm số lượng loài
đáng kể. Cũng trong thời gian này năm 1984, Bùi Quang
Tề đã điều tra khu hệ ký sinh trùng trên 6 loài cá chép ở
đồng bằng Bắc Bộ.
Lê Văn Châu và các cộng sự của mình đã nghiên cứu vật
chủ trung gian sán lá gan nhỏ vào năm 1997 đã xác định
được 10 loài cá nhiễm metacercaria của Clonorchis và


Opisthorchis ở một số tỉnh miền Bắc và miền Trung Việt
Nam.
Theo tổng kết mới nhất của Bùi Quang Tề, 2001 đã nghiên
cứu ký sinh trùng của một số loài nước ngọt ở đồng bằng
sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu trên 41 loài cá kinh tế
nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu Long đã xác định được
157 loài ký sinh trùng, 70 giống, 46 họ, 27 bộ thuộc 12 lớp,
8 ngành. Trong 157 loài có 121 loài lần đầu tiên phát hiện
được ở Việt Nam.
Theo thống kê đến thời điểm hiện tại, ký sinh trùng phân bố
chủ yếu trên cá nước ngọt, một số ít ký sinh ở cá biển. Vì
vậy hầu hết các công trình nghiên cứu ký sinh trùng chỉ tập
trung vào đối tượng là cá nước ngọt. Đến nay đã nghiên
cứu ký sinh trùng ở 103 loài cá nước ngọt và nước lợ, xác
định được 336 loài ký sinh trùng thuộc 129 giống, 81 họ,
18 lớp. Trong đó phân loại được 78 loài, 3 giống, 1 họ mới
đối với khoa học. Ngoài ra còn một số loài chưa có đủ tài
liệu để định danh đến loài
Thành phần giống loài ký sinh trùng ở cá nước ngọt Việt
Nam rất phong phú. Nhiều nhất là lớp sán lá đơn chủ
Monogenea, gặp 103 loài, chiếm 28,14% tổng số loài ký
sinh trùng phát hiện được. Tiếp theo là lớp Myxobolus gặp
46 loài (12,57%); lớp Nematoda gặp 45 loài (12,3%); lớp
Trematoda gặp 45 loài (12,3%); lớp Oligohymenophorea
gặp 35 loài (9,65%); lớp Maxillopoda gặp 26 loài (7,1%);
lớp Acanthocephala gặp 18 loài (4,92%); lớp Cestoides gặp
16 loài (4,37%); còn 10 lớp khác số lượng loài ký sinh
trùng gặp ít hơn (tổng cộng 32 loài). Trong tổng số 366 loài
ký sinh trùng thì phần lớn có chu kì phát triển trực tiếp
không qua vật chủ trung gian (237 loài, chiếm 64,75%).

2.4. Những tác hại do ký sinh trùng gây ra
Nhiều loài ký sinh trùng là nguyên nhân gây bệnh nguy
hiểm cho cá, đặc biệt ở các giai đoạn cá hương và cá
giống. Nhiều loài ký sinh trùng đã gây thiệt hại lớn cho
nghề nuôi cá như nhóm đơn bào ngoại ký sinh, sán lá đơn
chủ, giun sán, giáp xác.
O.N.Bauer (1969, 1972) cho biết một con cá mè 2 tuổi có
10.647 cá thể Dactylogyrus, ở cá chép cỡ 3,0 - 4,5 cm
cường độ nhiễm 20 - 30 cá thể/con làm cho cá chết.
Bệnh Argulosis là bệnh phổ biến trên cá ở nhiều nước trên
thế giới. Theo O.N.Bauer, 1977, Argulus ký sinh làm cho
cá hồi 0,1-1 kg chết khi cường độ nhiễm 100 - 200 cá
thể/con. Năm 1960 bệnh Argulosis đã làm chết gần hai
triệu cá chép ở giai đoạn cá bột ở Ucraina.
Theo Hà Ký, 1961, bệnh Lernaeosiss và Dactylogyrosis ở
cá mè hoa giai đoạn cá hương trong một số ao nhiễm bệnh
100%, khi cường độ nhiễm 210-325 cá thể/con, cá chết
75%. Theo Bùi Quang Tề, năm 1982 ở miền Trung,
Dactylogyrus ký sinh làm chết hàng loạt cá vàng, gây tổn
thất nặng cho nghề nuôi cá cảnh.
Từ năm 1969 đến nay, Bùi Quang Tề có rất nhiều công
trình nghiên cứu về ký sinh trùng đặc biệt là những thống
kê về tác hại do ký sinh trùng gây ra trên cá. Đó là:
Vào năm 1969, hàng loạt cá mè kích thước 12-15 cm ở hợp
tác xã Tứ Hiệp – Hà Nội bị chết. Khi kiểm tra người ta đã
xác định nguyên nhân gây chết do Lernaea ký sinh.
Đến năm 1982, trong 100 ao nuôi cá ở tỉnh Đắc Lắc, Bình
Định, cá mè, cá trắm cỏ bị nhiễm Lernaea với tỷ lệ nhiễm
từ 70 - 80% và cường độ nhiễm 5 - 20 cá thể/con, có trường
hợp 80 cá thể/con.

Tại Yên Hưng, Quảng Ninh, năm 1996 - 1997, theo thông
báo tại một đầm nước lợ rộng 324 ha đã bị đĩa (Piscicola)
ký sinh làm chết khoảng 20 - 25 tấn cá rô phi gây thiệt hại
lớn cho người nuôi.
Trong năm 1998, hàng loạt cá trắm cỏ giai đoạn cá hương
đưa ra nuôi lồng ở Hồ Núi Cốc sau 3 ngày thì chết hầu hết,
nguyên nhân chính là do cá bị nhiễm ấu trùng Centrocestus
formosanus ở mang với tỷ lệ nhiễm 100%, bào nang ký
sinh dày đặc trên tơ mang cá.
Tính đến thời điểm hiện tai, Việt Nam đã nghiên cứu và
tổng kết được một số bệnh ký sinh trùng thường gặp ở cá
giống như: bệnh trùng bào tử sợi, bệnh tà quản trùng, bệnh
trùng bánh xe, bệnh trùng quả dưa, bệnh sán lá đơn chủ,
bệnh giun tròn, bệnh ấu trùng sán ở mang cá, bệnh trùng
mỏ neo và bệnh rận cá. Các tác giả Hà Ký (1966-1992),
Nguyễn Thị Muội (1985), Nguyễn Văn Thành (1992) và
Bùi Quang Tề (1990-1999) đều cho rằng bệnh trùng bánh
xe là nguy hiểm nhất ở giai đoạn cá con. Ở giai đoạn cá
giống thường gặp ngoại ký sinh trùng là những ký sinh
trùng đơn bào và đa bào có chu kì phát triển trực tiếp không
qua kí chủ trung gian.
Cho đến nay, chúng ta đã nghiên cứu phòng trị những bệnh
ký sinh trùng gây nguy hiểm ở cá nuôi: bệnh trùng bào tử
sợi (Myxobolosis, Thelohanellosis); bệnh trùng bánh xe
(Trichodonosis, Chichodinellosis, Tripartiellosis); bệnh
trùng quả dưa (Ichthyophthyriosis); bệnh sán lá đơn chủ;
bệnh giun tròn (Spectatosis); bệnh trùng mỏ neo
(Lernaeosis); bệnh rận cá (Argulosis). Thuốc và hóa dược
thường được dùng phòng trị bệnh ký sinh trùng là: CuSO
4

,
Formaline… dùng phòng trị bệnh ký sinh trùng đơn bào
ngoại sinh; Lá xoan dùng để trị bệnh rùng mỏ neo, rận cá;
hạt keo dậu, hạt cau để tẩy giun….[1],[3], [9]

×