Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Nghiên cứu thị trường bán lẻ ở Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.99 KB, 80 trang )

GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

LỜI MỞ ĐẦU
-----o0o----Trong những năm gần đây thị trường bán lẻ ở Việt Nam luôn được xếp vào top những
thị trường tiềm năng nhất thế giới, thị trường bán lẻ nội địa vốn đã sáng giá lại càng trở nên
hấp dẫn hơn. Các thương hiệu bán lẻ quốc tế xuất hiện ngày càng nhiều, đồng thời các kế
hoạch mở rộng địa bàn hoạt động của các nhà thương mại trong và ngoài nước liên tiếp được
công bố. Điều này càng tạo sự phân hóa giữa các hình thức phân phối hàng hóa: truyền thống
và hiện đại.
Sau hơn một thập kỷ phát triển, bất chấp tỷ trọng trong tổng doanh thu bán lẻ còn thấp,
siêu thị vẫn là nỗi ám ảnh đối với các chợ truyền thống, nhất là ở khu vực đô thị, vì tốc độ
phát triển của chúng. Trên thực tế, các siêu thị đang ngày càng chăm chút hơn về sản phẩm,
dịch vụ, ngay cả với khâu bán thực phẩm tươi sống. Điều này cho thấy siêu thị không chỉ
mong muốn thu hút người đi mua sắm hàng tuần mà cịn cả những người đi chợ hàng ngày.
Trong khi đó hoạt động kinh doanh ở chợ đang ngày càng chịu một sức ép nặng nề
hơn, tuy sức mua của người tiêu dùng tăng nhưng doanh số của kênh phân phối ở chợ lại
giảm mạnh. Một vấn đề lớn cần đặt ra là mạng lưới chợ từ nhiều năm qua đã phát triển khá
sâu rộng và văn hóa chợ đã trở nên hết sức gần gũi, ăn sâu vào đời sống văn hóa, tập quán
tiêu dùng của người dân, chưa kể nếu biết khai thác, chợ còn là “khẩu vị lạ, độc đáo” đối với
khách du lịch quốc tế.
Vậy trong cuộc chiến giữa chợ truyền thống và siêu thị hiện đại, ai sẽ dành phần
thắng? Phải chăng chợ truyền thống sẽ bị diệt vong hoàn toàn? Để trả lời những câu hỏi trên
nhóm đã đi vào nghiên cứu thị trường bán lẻ ở Việt Nam nói chung, ở TP HCM nói riêng
thông qua hai định chế bán lẻ cơ bản là siêu thị và chợ truyền thống
Vì thời gian có hạn và tầm hiểu biết còn hạn chế, bài nghiên cứu khơng tránh phải
những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của Th.S Phan Thanh Sơn để bài nghiên cứu
hoàn thiện hơn
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

3




GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁN LẺ
1.1. Thế nào là bán lẻ?
Bán lẻ là tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán các sản phẩm vật chất và các
dịch vụ trực tiếp cho người sử dụng cuối cùng đáp ứng nhu cầu cá nhân, gia đình và các
tổ chức khơng kinh doanh.
Bán lẻ bao gồm việc bán hàng hóa từ một địa điểm cố định, như khu bách hóa tổng
hợp, hoặc Ki-ốt, qua đường bưu điện, hoặc trong những số lượng nhỏ để người mua có thể
tiêu thụ trực tiếp. Bán lẻ có thể cịn bao gồm cả dịch vụ hỗ trợ như phân phối/đưa hàng.
Người mua hàng có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Trong thương mại, người bán lẻ mua hàng hóa và sản phẩm với khối lượng lớn từ nhà
sản xuất hoặc nhà nhập khẩu, hoặc thông qua người bán bn, sau đó bán ra với khối lượng
nhỏ hơn cho người tiêu dùng cuối cùng. Người bán lẻ nằm ở đoạn cuối của chuỗi cung cấp.
Nó là hình thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân
của họ, từ đây hàng hố kết thúc q trình lưu thơng và đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân; giá
trị hàng hoá được thực hiện đầy đủ. Thông thường, bán lẻ được tiến hành trong mạng lưới
thương nghiệp bán lẻ (các cửa hàng, cửa hiệu, quầy hàng, kiôt, quán hàng, nhà ăn, xe hàng
lưu động, vv.). Trong lĩnh vực bán lẻ, mỗi lần chỉ bán một số lượng nhỏ, nhưng cũng có
trường hợp bán lẻ những lô hàng lớn, chẳng hạn bán hàng cho những đơn vị tiêu dùng tập thể
(trường học, trại điều dưỡng, tổ chức...). Doanh số bán lẻ là tổng mức lưu chuyển hàng hoá
bán lẻ xã hội.
1.2. Vai trị của bán lẻ.
1.2.1. Đem hàng hóa đến với người tiêu dùng.
Một nhà sản xuất sẽ gặp rất nhiều khó khăn để có thể tiếp cận được khác hhàng của
mình nếu khơng thơng qua hệ thống bán lẻ. Vì khơng một nhà sản xuất nào có đủ khả năng
để hàng hóa của mình có thể len lỏi mọi ngóc ngách từ thành thị cho đến nông thôn mà không

qua trung gian. Bản thân người tiêu dùng cũng vậy, với nhu cầu ít của mỗi người họ sẽ tìm
đến các cửa hàng bán lẻ cho thuận tiện hơn là tìm đến tận nơi nhà sản xuất.
1.2.2. Phản hồi( Feedback).
Chính số lượng bán hàng mỗi ngày, nhu cầu của người tiêu dùng ra sao thông qua
doanh số thu mua từng mặt hàng trong các hệ thống phân phối bán lẻ giúp nhà sản xuất nắm
bắt được sở thích, thị hiếu khách hàng của mình. Từ đó giúp họ đưa ra các chiến lược sản
phẩm sao cho phù hợp thị trường.
Thông qua hệ thống bán lẻ hàng hóa, mà người tiêu dùng được tiếp cận trực tiếp với sản
phẩm, được tận tay sờ, chạm vào sản phẩm nên dễ dàng bỏ tiền để có sản phẩm đó. Nếu nhà
4


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

sản xuất khơng có hệ thống bán lẻ, chỉ thơng qua quảng cáo thì người tiêu dùng khó chấp
nhận sản phẩm của họ. Có thể nói bán lẻ đã giúp cho nhu cầu thị trường được thỏa mãn.
1.2.3. Chia lẻ.
Là việc nhà bán buôn phải thông qua nhà bán lẻ để bán hàng hố và dịch vụ của minh.
Do đó từ một khối lượng hàng hoá ban đầu mà nhà bán buốn có thể chia lẻ ra cho nhiều nhà
bán lẻ để họ mang đến cho người tiêu dùng. Như vậy các nhà bán lẻ sẽ thông qua khu vực bán
hàng của mình mà cung cấp sản phẩm một lượng sản phẩm chứ không bán lớn như nhà bán
buôn hay nhà sản xuất.
1.2.4. Dự trữ.
Có những mặt hàng khi sản xuất ra thì kho dự trữ hàng hóa là điều làm cho các nhà sản
xuất lo lắng nhất. Như một công ty sản xuất xe hơi hàng đầu ở Nhật, bình quân một ngày cho
xuất xưởng 1000 chiếc xe hơi, họ sẽ làm gì với sản lượng hàng hóa khổng lồ của mình nếu
khơng có hệ thống bán lẻ cả nước “ giữ hộ”.
Ngoài ra, bán lẻ là hệ thống dự trữ tài chính của các nhà sản xuất. Bởi hiện nay không
phải lúc nào các nhà phân phối cũng giao tiền ngay sau khi nhận hàng từ nhà sản xuất, mà

phải sau một thời gian bán hàng, luân chuyển tiền, thì đồng vốn mới quay trở lại vào tay nhà
sản xuất.
1.3. Các định chế bán lẻ ở Việt Nam.
1.3.1. Specialty store – Cửa hàng chuyên doanh.
Cửa hàng chuyên kinh doanh là một loại cửa hàng chuyên kinh doanh mộtnhóm mặt
hàng nhấtđịnh, theo hai hướng chuyên doanh hẹp (là loại cửa hàng chỉ bán một nhóm sản
phẩm của một nhà cung cấp, như cửa hàng chuyên bán sữa củaVinamilk) hay chuyên doanh
rộng (là loại cửa hàng bán cùng một loại sản phẩm của nhiều nhà cung cấp, như ở Việt Nam
thì có cửa hàng thegioididong.com chuyên bán các loại điện thoại của nhiều hãng).
Đến các cửa hàng chuyên doanh này người mua sẽ được lựa chọn nhiều sản phẩm cùng
chủng loại được bày bán tại đây với số lượng phong phú, nhiều mẫu mã. Ngoài ra khách hàng
sẽ được cửa hàng tư vấn, được hướng dẫn tận tình… tuy nhiên giá sẽ cao hơn những cửa
hàng bán lẻ khác. Những cửa hàng chuyên doanh này dễ đi vào lòng người tiêu dùng nhờ hình
ảnh, nhãn hiệu của mình cộng với một đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp.
Điểm khác biệt của cửa hàng chuyên doanh so với cửa hàng bách hoá tổng hợp
(Department store) và siêu thị (Supermarket) là cửa hàng chỉ bán chun sâu một nhóm hàng,
và nếu chỉ tính riêng trong nhóm mặt hàng này thì các hình thức khác cũng không đa dạng
bằng.

5


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

1.3.2. Department store – Cửa hàng bách hóa tổng hợp.
Là loại cửa hàng kinh doanh rất nhiều chủng loại mặt hàng. Có thể nói đến đây người
tiêu dùng dễ dàng kiếm được món hàng mà mình đang cần. Đây là loại cửa hàng có cấu trúc
cao hơn các cửa hàng bình thường với trang thiết bị hiện đại, hòan hảo, dịch vụ miễn phí.
Hiện nay tại Việt Nam số lượng các cửa hàng bách hóa tổng hợp khá nhiều, bởi người

tiêu dùng rất thích đến các cửa hàng có nhiều mặt hàng do sự thuận tiện của nó. Tuy nhiên các
cửa hàng bách hóa tổng hợp thường gặp nhiều rủi ro hơn các cửa hàng khác bởi số lượng
hàng hóa tồn kho thường lớn. Ở Việt Nam các cửa hàng chuyên doanh thường được bố trí tại
các tầng của một tịa nhà nào đó. Mặt hàng thường được trưng bày là nữ trang,mỹ phẩm, quần
áo thời trang, thiết bị dụng cụ trong nhà...
Department store đầu tiên xuất hiện trên thế giới là ở Pháp. Department store Bon
Marche hoạt động vào năm 1838 dưới sự điều hành của 1 doanh nhân người Pháp tên Aristide
Boucicaut. Đến 1852 các sản phẩm hàng hoá được bày bán đa dạng trong 1 tòa nhà. Ở đây
các hàng hóa hóa được bán với giá cố định kèm theo các dịch vụ ưu đãi như là khách hàng có
thể đổi hoặc trả lại hàng hố trong khoảng thới gian xác định.
Đến nay Department store có thể được xem là 1 loại hình bán lẻ thịnh hành nhất ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Sự phát triển không chỉ dừng lại
ở 1 cửa hàng, ở 1 khu vực mà nó đã phát triển lên thành các chuỗi ở nhiều khu vực, nhiều
quốc gia trên thế giới như David Jones (Úc), Marcy (Mỹ), Sears(Mỹ), Pillars (Mỹ),...
1.3.3. Chain store – Chuỗi cửa hàng.
Là một hệ thống các cửa hàng giống nhau về mặt hàng hóa kinh doanh (90% hàng hóa
bn bán là giống nhau, còn khoảng 10% là các mặt hàng khác do mỗi cửa hàng tự quyết định
và về sở hữu, quản lý thì thống nhất từ một cơng ty mẹ. Cũng có một khái niệm khác định
nghĩa chuỗi cửa hàng như là một chuỗi bán lẻ gồm hệ thống các cửa hàng bán lẻ giống nhau
( về hình thức, cơ cấu tổ chức,quản lý…) và thuộc quyền sở hữu của cùng một công ty mẹ,
hoặc thuộc sở hữu của một cá nhân hay cơng ty khác hoạt động dưới hình thức nhượng
quyền(franchising) hay hợp đồng (contract)với công ty mẹ.
Với số lượng cửa hàng mà nhỏ hơn 10 được xem là chuỗi nhỏ, lớn hơn 10 được xem là
chuỗi lớn. Một hệ thống các cửa hàng giống nhau từ hàng hóa đến cách bài trí sẽ rất dễ đi vào
lịng người tiêu dùng.
Lợi thế của chuỗi cửa hàng:
- Lợi thế quy mơ: càng bán nhiều thì càng giảm được chi phí, gồm : phí vận chuyển
giảm, discount lớn, được hưởng các khoản xúc tiến (promotion) từ nhà sản xuất.
-


Hưởng được lợi từ một chính sách Marketing chung của cơng ty mẹ.
6


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

-

Phân tán được rủi ro ở các thị trường khác nhau.

-

Hình ảnh cửa hàng được người tiêu dùng chấp nhận.

- Sức mạnh của cửa hàng đối với các đối tác có khuynh hướng tăng lên
Các hình thức của chuỗi cửa hàng:
- Business chains: Là hệ thống các cơ sở (địa điểm) kinh doanh giống nhau, cung cấp
cùng một loại sản phẩm hoặc dịch vụ, sự thống nhất về quản lý, nguồn cung cấp, chương
trình đào tạo, nhân sự. Chúng có thể là một phần của công ty đơn nhất, hoặc hoạt động dưới
dạng nhượng quyền (franchising ).
- Restaurant chains: Là một sự tập hợp của các nhà hàng có mối liên quan, thường thì
cùng tên, khác địa điểm, cùng thuộc sở hữu của cùng một công ty hay thông qua các hợp
đồng nhượng quyền. Đặc trưng của loại hình này là được xây dựng theo một khuôn khổ thống
nhất, thực đơn được chuẩn hóa, và loại hình kinh doanh tiêu biểu của mơ hình này đó là hệ
thống các cửa hàng thức ăn nhanh.
1.3.4. Discount Store – Cửa hàng giảm giá.
Cửa hàng giảm giá thực chất là một dạng của cửa hàng bách hoá tổng hợp (department
store), chuyên bán các sản phẩm với giá rẻ hơn các nhà bán lẻ truyền thống. Hầu hết các cửa
hàng loại này thường mang đến cho khách hàng sự đa dạng về chủng loại hàng hoá. Tuy

nhiên cũng có một số cửa hàng giảm giá chỉ chuyên bán một số loại mặt hàng nhất định
như trang sức, các thiết bị và dụng cụ điện…Cũng cần nói rõ ở đây các cửa hàng giảm giá
không phải là dạng cửa hàng một đô ( Dollar Store) – loại cửa hàng chuyên bán sản phẩm với
giá một đô hoặc thấp hơn. Bởi vì, tại cửa hàng giảm giá người ta có thể mua nhiều loại nhãn
hiệu hàng hố và giá cả cho từng chủng loại cũng có nhiều khác biệt.
Ngày nay cửa hàng giảm giá xuất hiện khá phổ biến tại Mỹ và nhiều quốc gia trên toàn
thế giới. Nhưng có lẽ cũng ít ai biết là sự ra đời của loại cửa hàng này là trong giai đoạn chiến
tranh thế giới thứ hai, khi mà một loạt các nhà bán lẻ tại Mỹ đã bắt đầu thấy lợi ích của chiến
thuật giảm giá để hấp dẩn nhiều khách hàng hơnđể rồi từ đó tằn lợi nhuận nhờ tính quy mô.
1.3.4. Supermarket -Siêu thị.
Siêu thị là một cửa hàng tự phục vụ được chia ra nhiều khu vực, bộ phận cung cấp
nhiều loại mặt hàng khác nhau như: thức ăn, quần áo, mỹ phẩm, đồ dùng gia đình,… Nó có
qui mơ lớn và có nhiều sự lựa chọn hơn là cửa hàng báchhóa truyền thống.
Ở Việt Nam, siêu thị là một loại hình giải trí văn hố nhằm thỏa mãn nhu cầu nhìn
ngắm và chọn lựa của người dân – là hình thức bán lẻ giành cho mọi đối tượng xã hội. Tuy
chỉ mới phát triển tại Việt Nam năm 1994, từ 10 siêu thị ở 4/64 tỉnh thành phố thì 10 năm
sau đã có khoảng 150 siêu thị đang hoạt động tại 25 tỉnh thành. Tốc độ tăng trưởng hàng năm
7


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

của kênh phân phối hiện đại này khoảng15%-20%. Từ chỗ chỉ chiếm dưới 3% thị phần bán
lẻ, siêu thị đã tăng lên khoảng trên 20% và tốc độ này vẫn chưa dừng lại. Người tiêu dùng
Việt Nam đã có xu hướng chuyển từ mua sắm tại chợ truyền thống sang mua sắm tại siêu thị.
Ở Tp.Hồ Chí Minh và Hà Nội hiện nay có trên 80% hộ gia đình có thói quen đi chợ hảng
ngày. Chỉ hơn 10% hộ thích đi siêu thị thay cho đi chợ hàng tuần nhưng nếu chỉ đi 1 lần/tháng
thì con số tăng lên tới hơn 60%. Một số siêu thị mà người dân đến như Maximak, Big C,
Metro, Citimart,… mỗi siêu thị có những đặc trưng và ưu điểm riêng.

1.3.5. Dollar Store – Cửa hàng một đô.
-Khái niệm: Cửa hàng một đô là loại cửa hàng chỉ bán những món hàng có giá trị thấp
từ một USD trở xuống.
- Sản phẩm kinh doanh (thường thấy trong các cửa hàng một đô).
* Dụng cụ làm sạch: bọt biển, bình xịt, giẻ lau, dụng cụ hốt rác…
* Dụng cụ nhỏ: tua-vít, cờ-lê,đèn pin, móc khóa, dây thừng.
* Dụng cụ nhà bếp: dao, đồ bóc vỏ, chén, đĩa….
* Dụng cụvăn phòng nhỏ: bút, giấy, kẹp giấy, tẩy..
* Dụng cụ trang trí trong các ngày lễ:đồ trang trí lễ giáng sinh, trứg phục sinh…
* Dụng cụ làm vườn; kéo tỉa hoa….
* Và nhiều mặt hàng thơng dụng có giá trị nhỏ khác như xà bông, đèn pin...
- Khách hàng:
* Khách hàng của cửa hàng một đô là mọi thành phần trong xã hội, nhưng đa phần
họ có thu nhập khơng cao có thể cho rằng là thấp.
* Họ cũng chỉ mua sản phẩm khi họ cần, hoặc sản phẩm hết bất ngờ, khơng có yếu
tố mua nhiều để giảm giá hay mua dự trữ.
* Độ tuổi của họ cũng rất khác biệt ( ví dụ một em nhỏ thì có thể mua tập vở, một người
nội trợ thì có thể mua chén đĩa…)
* Họ có thể ở thành thị, nhưng thường cửa hàng loại này phù hợp với người dân vùng
nông thôn hơn.

8


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

1.3.6. Hypermarket – Siêu siêu thị.
-Khái niệm: Hypermarket là sự kết hợp của Siêu thị (supermarket) và cửa hàng bách
hoá tổng hợp (Department store). Khách hàng sẽ hồn tồn bị chống ngợp bởi một không

gian rộng lớn khoảng từ 45,000 dến 65,000 m2 và có thể rộng hơnvới hàng trăm nghìn chủng
loại hàng hoá và dịch vụ mà khách hàng cho dù đi cả ngày cũng không thể nào đi hết.
-Sản phẩm: vì là sự kết hợp của hai mơ hình bán lẻ quy mơ lớn nên hàng hóa của
hypermarket là sự cộng lại của mơ hình này đồng thời cịn có thêm những loại hàng hố, dịch
vụ mà các hình thức kia có thể khơng có như trạm xăng, cửa hàngthuốc, dịch vụ sữa xe là một
ví dụ. Cịn về giá cả, thì các Hypermarket khơng có khác biệt gì so với supermarket và
Department Store.
-Khách hàng: Khách hàng của hypermarket là những người có thu nhập cao,
họ thường đến hypermarket vào những ngày cuối tuần để mua sắm và hưởng các dịch vụ mà
loại hình này mang lại, cũng xin nói thêm là các hypermarket thường chỉ nằm vùng ngoại ơ,
vì nó q rộng nên khơng thích hợp trong khu vực nội thành.

2. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
2.1. Cơ hội và thách thức của thị trường bán lẻ Việt Nam
2.1.1. Cơ hội của thị trường bán lẻ Việt Nam
Sức thu hút của thị trường bán lẻ Việt Nam
Quy mô thị trường bán lẻ VN năm 2007 khoảng 20 tỉ USD và đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân 8%/năm. Kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng 13%, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm rất cao - khoảng 30%. Sang năm 2008 với quy mô thị trường trên 83 triệu dân,
với doanh số là 55 tỷ USD, và có tổng trị giá thị trường bán lẻ trị giá hơn 40 tỷ USD/ năm (số
liệu của Tổng cục Thống kê). Chỉ số lòng tin của người tiêu dùng (Consumer Confidence
Index)- Việt Nam xếp thứ 5 trên toàn thế giới và người tiêu dùng Việt Nam dẫn đầu thế giới
về tiêu dùng hàng kỹ thuật cao. Riêng tại TPHCM và Hà Nội, kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng
khoảng 28% (năm 2008) và dự kiến lên đến 37% vào năm 2010.
Thị trường lớn
Việt Nam là một thị trường khá lớn, với gần 90 triệu dân, cơ cấu dân số rất trẻ với
khoảng 65% dân số trong độ tuổi lao động, trên 55% dân số dưới 45 tuổi, hơn một nửa dân
số có độ tuổi dưới 30 và thu nhập của người dân ngày càng cao, tốc độ tăng trưởng hàng năm
cao, và dự báo con số tương ứng năm 2018 là 95 triệu (70 triệu dân thành thị). Người thành
thị VN dẫn đầu về tiêu dùng hàng Hi-tech. Việt Nam có mức tăng trưởng GDP cao và ổn

định, theo đó nhu cầu tiêu dùng cũng ngày một tăng lên. Năm ngoái, tăng trưởng GDP là
8,4% và tiêu dùng thông qua thương mại hơn 45 tỷ USD. Số liệu thống kê gần đây nhất cho
thấy, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2008 ước
9


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

tính đạt 447,3 nghìn tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước. Qua đó cho thấy, tiềm năng
phát triển hệ thống phân phối ở nước ta là rất lớn.
Mặt khác sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ VN còn do áp lực cạnh tranh giữa các hệ
thống bán lẻ chưa nhiều và VN có đến 65% dân số là người tiêu dùng trẻ, chi tiêu mạnh tay.
Tầng lớp trung lưu với thu nhập 250USD/tháng trở lên đang tăng nhanh. Riêng tầng lớp trung
lưu thu nhập trên 500USD/tháng chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở thành thị. Chính vì thế, sức
hút của thị trường bán lẻ VN tăng nhanh khi năm 2007, VN xếp hạng 2 trên thế giới sau Ấn
Độ, nhưng tháng 6.2008 - theo xếp hạng của Cty tư vấn Mỹ A.T.Keaney (Tổ chức Nghiên
cứu thị trường hàng đầu tại Hoa Kỳ), về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ tồn cầu thì Việt
Nam đã đứng số 1, được coi là thị trường đầu tư bán lẻ hấp dẫn nhất trong số 30 nước thuộc
nhóm thị trường đang nổi lên. Trong danh sách Top 10 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất, sau
Việt Nam là Ấn Độ, giữ vị trí thứ ba là Nga và thứ tư là Trung Quốc; tiếp đến là Ai Cập,
Morocco, Ả-rập Saudi, Chile, Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong các nước ASEAN, Malaysia đứng
thứ 13, Indonesia ở vị trí 15, Thái Lan là 24 và Philippines xếp thứ 26.
Theo các chuyên gia của A.T. Kearney, Việt Nam đạt được bước tiến ấn tượng trong
năm nay là nhờ kinh tế tăng trưởng mạnh, thể chế chính sách đang cải tiến theo hướng thân
thiện với nhà đầu tư nước ngoài và đặc biệt là nhu cầu của người tiêu dùng về những mô hình
bán lẻ hiện đại.
Theo Mike Moriarty, trưởng bộ phận nghiên cứu về tiêu dùng và bán lẻ của A.T.
Kearney, quy mơ thị trường bản lẻ ở Việt Nam cịn nhỏ, song vẫn rất hấp dẫn bởi áp lực cạnh
tranh chưa lớn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 8%. Bên cạnh đó, người tiêu

dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất ở châu Á và ngày càng mạnh tay chi tiêu. A.T. Kearney
bắt đầu công bố GRDI từ năm 2001, trong đó đánh giá về độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ ở
những nền kinh tế mới nổi, dựa trên 25 yếu tố khách nhau, bao gồm cả rủi ro kinh tế, chính
trị, mức độ hấp dẫn cũng như bão hòa của thị trường bán lẻ , mức bão hòa của thị trường bán
lẻ và sự khác nhau giữa tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) và tăng trưởng bán lẻ. Hiện
nay không nước nào trong số 10 thị trường bán lẻ hàng đầu năm 1995 cịn giữ được ngơi vị
của mình. Song Linh (theo Reuters, The Economic Times)
Theo Bộ Công Thương, hiện nay một số tập đoàn, DN phân phối,bán lẻ quốc tế đang
hoàn thiện hồ sơ,chuẩn bị đăng ký kinh doanh tại Việt Nam như: Dairy Farm (Singapore) đã
nộp đơn xin thành lập DN 100% vốn; Lotte (Hàn Quốc) vào Việt Nam qua hình thức liên
doanh; 2 tập đồn hàng đầu thế giới là Wal – Mart (Mỹ) và Carrefour (Pháp) cũng đang bắt
đầu để ý tới thị trường Việt Nam. Đây là những thông tin đáng mừng cho sự phát triển của thị
trường bán lẻ Việt Nam nhưng lại là đáng lo đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước bởi
từ lúc này sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn bao giờ hết. Các tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài
như Metro của Đức, Casino của Pháp, Parkson... đều đã có mặt ở Việt Nam. Một tập đồn
bán lẻ của Canada cũng đã công bố kế hoạch khai trương chuỗi cửa hàng tiện lợi mang tên
Circle K ở Việt Nam.
Thế mạnh của các nhà bán lẻ Việt Nam:
10


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ



Số lượng tăng nhanh chóng









Lớp DN mới, trẻ, được đào tạo tốt;
Năng động, sáng tạo; đa dạng hoạt động
Tiềm năng phát triển và cơ hội
Được quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước và Hiệp hội ngành hàng
Hiểu biết về văn hóa, truyền thống, tâm lý của người tiêu dùng
Phản ứng kịp thời, nhanh nhạy trước biến động của thị trường.
 Bước đầu sử dụng có hiệu quả các hoạt động.
Số lượng các DN nước ngoài và DN mới tham gia vào thị trường bán lẻ đã và sẽ tăng
lên: có cơ hội hợp tác, chia sẻ công nghệ, thông tin, kinh nghiệm.
Khi phát triển song song hai mơ hình bán lẻ truyền thống và hiện đại:
 Tiềm năng phát triển mạnh mẽ của bán lẻ hiện đại: phong cách sống mới; thu
nhập và tiêu dùng tăng lên; người tiêu dùng Việt Nam trong thời đại hội nhập;
đa dạng các loại hình bán lẻ hiện đại (từ siêu thị, đại siêu thị, chuỗi cửa hàng
chuyên doanh, tiện lợi… đến trung tâm thương mại tổng hợp) vv …
 Sức sống và sự thu hút của bán lẻ truyền thống ở Việt Nam: nét văn hoá riêng,
phong cách “cổ điển”, sản phẩm tươi mới và giá cả cạnh tranh, người tiêu dùng
ở khu vực nông thôn vv …
 Hội nhập kinh tế quốc tế: Ứng dụng công nghệ thông tin; Thương mại điện tử;
Các phương thức bán hàng qua điện thoại, qua mạng…
2.1.2. Thách thức của thị trường bán lẻ Việt Nam
Bà Vũ Thị Nga, Trưởng ban Bảo vệ người tiêu dùng, cho biết: “Nhiều doanh nghiệp
kinh doanh hàng nhập lậu, không rõ nguồn gốc nên không thực hiện nghĩa vụ bảo hành. Một
số doanh nghiệp lại thực hiện nghĩa vụ bảo hành không đầy đủ như, vi phạm thời gian sửa
chữa, bắt người tiêu dùng phải chịu chi phí sửa chữa, vận chuyển…”
Thị trường kinh doanh bán lẻ dù đang phát triển nhanh chóng nhưng phần lớn vẫn chỉ

tập trung ở khu vực thành thị. Loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại vẫn chưa đến được nhiều
với người tiêu dùng Việt Nam.
Tác dụng hỗ trợ nông dân, các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp sản xuất lớn thay
đổi cung cách sản xuất theo hướng bài bản chỉ là một phần nhỏ, mà bên cạnh đó, việc các hệ
thống siêu thị của nước ngồi đang và sẽ “làm mưa làm gió” trên thị trường tiêu dùng trong
nước là một điều hết sức nguy hại.
Thay mặt Hiệp hội bán lẻ Việt Nam, bà Loan khẳng định: “Trong thời gian tới, phân
phối bán lẻ truyền thống sẽ thu dần phạm vi hoạt động, vẫn tồn tại chợ truyền thống, cửa hiệu
tạp hóa, nhưng số lượng sẽ ít đi. Đồng thời phát triển các loại hình kinh doanh mới cùng với
sự phát triển của cơng nghệ thông tin".
11


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

Một vài chuyên gia đang dự đoán rằng suy thoái kinh tế sẽ “nghèo hóa” hàng triệu
người Việt Nam những người vừa thốt khỏi đói nghèo gần đây nhờ vào q trình phát triển
và đơ thị hóa nhanh chóng.
Ở phương diện người tiêu dùng, thu nhập trung bình mỗi hộ dân đang gia tăng và trong
khi những người giàu ngày càng giàu hơn thì có một tầng lớp trung lưu mới nổi được hình
thành.
Theo số liệu của ACNielsen, tổng giá trị tăng trưởng của ngành hàng tiêu dùng nhanh
là 20% trong tháng 12/2008 so với trước đó một năm và tỉ lệ tăng trưởng 4% cách đây một
năm. Lạc quan về viễn cảnh việc làm, giá cả thức ăn và năng lượng cho 6 tháng tới có thể nói
đang ngày càng phân cực và những người đi mua sắm ngày càng thắt lưng buộc bụng hơn
trong một vài tháng đầu năm 2009 theo Nielsen Vietnam Omnibus tháng 1-2/2009, chi tiêu
dịp Tết trong năm nay đã giảm so với cùng kỳ năm trước với hầu như 50% trong tổng số cho
biết họ đã cắt giảm chi tiêu ít hơn trong Tết này so với Tết năm ngối. Có một điều thú vị là
10% cho biết họ chi tiêu nhiều hơn trong những ngày nghỉ lễ Tết năm nay. Và 40% số người

Việt Nam được khảo sát cho biết họ quan tâm tới giá cả hơn so với trước. Người tiêu dùng
nói rằng mọi thứ trở nên đắt đỏ hơn và họ có ít tiền mặt hơn để tiêu xài cho dịp Tết vừa qua.
1/3 người dân chi tiêu giảm xuống đối với những ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) ngoại
trừ thực phẩm và nói rằng họ giảm chi tiêu ở tất các các kênh mua sắm siêu thị, chợ và tiệm
tạp hóa. Người tiêu dùng Việt Nam còn cho biết trong vòng 6 tháng tới, họ sẽ giảm mức chi
tiêu đối với những ngành hàng không phải ăn uống như đồ dùng trong nhà, hàng điện tử, hàng
chăm sóc mặt và quần áo và cả các hoạt động giải trí. Hơn phân nửa số người được khảo sát
nói rằng họ sẽ giảm chi tiêu tiền điện thoại, tiền điện, xăng dầu và chi phí sinh hoạt nói chung.
Hơn một nửa có ý định sẽ giảm chi tiêu trong 6 tháng tới với ngành hàng thức ăn nhanh và
nước ngọt có ga. (Vneconomy.vn)
Trong thời gian qua, chúng ta có giảm thiểu một chút do lạm phát nhưng về lâu dài, thị
trường Việt Nam vẫn là thị trường nóng bỏng.
Thương mại thế giới sẽ suy giảm xuống mức gần 9%, theo dự báo của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO). Bị tác động mạnh mẽ nhất sẽ là các nước phát triển, thương mại sẽ bị rơi
xuống 10%. Các nước nghèo xuất khẩu sẽ giảm 2-3%, WTO cảnh báo tình trạng suy thối
kinh tế sẽ còn tiếp tục suy sụp, nhưng những quyết định thương mại sẽ là “một công cụ tiềm
năng” để phục hồi, tổng giám đốc WTO, Pascal Lamy nhận định: Đây là lần suy giảm
thương mại lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời ông kêu gọi các nhà lãnh
đạo toàn thế giới đấu tranh chống lại chủ nghĩa bảo hộ.
Thương mại là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu được thảo luận tại cuộc
họp của các quan chức chính phủ các nước G20 tại London vào ngày 2.3 vừa qua. Ngài
Lamy cảnh báo rằng việc sử dụng biện pháp bảo hộ đã tăng lên, với những hậu quả nguy
hiểm: “ hàng nghìn việc làm liên quan đến thương mại đã bị mất. Chính phủ phải tránh để
đưa tình trạng này trở nên tồi tệ hơn khi trở lại với phương pháp bảo hộ, một phương pháp
không thật sự bảo vệ được quốc gia nào và đe dọa nghiêm trọng hơn tới việc làm”
12


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ


2.2. Thực tế thị trường bán lẻ Việt Nam
2.2.1. Nhận định về các doanh nghiệp bán lẻ trong nước
Việt Nam mới chỉ có một số đơn vị có phương thức kinh doanh và phân phối tương
đối chuyên nghiệp như: Tổng công ty Thương mại Sài Gòn Satra với 40 doanh nghiệp (DN)
trực thuộc, Tổng công ty thương mại Hà Nội, chuỗi siêu thị Citimax, Fivimart, hệ thống Maxi
Mart, CoopMart...
Thực tế cho thấy các đơn vị bán lẻ trong nước còn chưa nhiều, lại thiếu tính chuyên
nghiệp và vốn ít; hệ thống hậu cần như kho bãi, xe chuyên dùng, nguồn hàng rời rạc, thiếu
đồng bộ và chưa đạt chuẩn; hạ tầng giao thông kém...Hầu hết các nhà phân phối bán lẻ đều ở
quy mô nhỏ, yếu về năng lực, hạn chế về mặt hàng phục vụ, nguồn nhân lực chưa được đào
tạo cơ bản...Vì thế, việc mở thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp nước ngồi với trình độ
văn minh thương mại cao là một thách thức rất lớn để tồn tại và phát triển.
Bên cạnh đó, Chính phủ hầu như chưa phát huy được vai trị của mình trong việc định
hướng cũng như giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước. Điển hình là việc cấp giấy phép hoạt
động cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngồi nhìn lại ta sẽ thấy hầu hết những siêu thị, trung
tâm thương mại nước ngồi đều chọn được những vị trí đẹp nhất, gần vị trí trung tâm, nơi tập
trung dân cư, giao thơng thuận tiện, mặt bằng rộng.
Khó khăn đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam đó là năng lực cạnh tranh
của từng doanh nghiệp yếu vì đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mơ nhỏ, trình độ quản lý
lạc hậu, phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh chưa hiện đại, chiến
lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong đào tạo, tổ chức cung
ứng…
Đồng thời, tính liên kết giữa các doanh nghiệp yếu như: liên kết dọc giữa nhà sản xuấtnhà bán buôn-nhà bán lẻ; liên kết ngang giữa nhà bán buôn với nhà bán buôn, nhà bán lẻ với
nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân phối với các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng…
Đối với DN bán lẻ Việt Nam trong những năm qua, chúng ta rất tiến bộ và tăng trưởng
đáng khích lệ. Cụ thể, từ hình thức bán lẻ truyền thống chúng ta đã bắt nhịp hình thức bán lẻ
hiện đại thơng qua các siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, các chuỗi cửa hàng
mang tính chuyên ngành như may mặc, điện máy, nội thất... Trong những hình thức như vậy

thì các DN Việt Nam cũng cần nỗ lực phấn đấu hết sức để làm sao học tập những điểm mạnh,
ưu điểm của hệ thống phân phối của các nhà bán lẻ nước ngoài.
Với phẩm chất của DN Việt Nam, trong thời kỳ hội nhập với rất nhiều doanh nhân trẻ,
năng động, được đào tạo bài bản và với một quyết tâm cùng với sự khéo léo. Đặc biệt đối với
DN bán lẻ chúng ta có lợi thế là hiểu biết về văn hóa, lịch sử, truyền thống cũng như tập quán
13


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

mua sắm, tiêu dùng của người Việt Nam cùng sự linh hoạt của các DN vừa và nhỏ trong lĩnh
vực này. Mặc dù sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức rất lớn nhưng DN trong nước sẽ khẳng
định được mình.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao các nhà sản xuất trong nước và nước ngồi lại phải
tìm đến các nhà phân phối và bán lẻ nước ngoài như Diethlem, Metro, Big C, Lotte, v.v. thay
vì các đối tác trong nước?
Câu trả lời đó chính là chất lượng và hiệu quả phân phối. Các doanh nghiệp này đã
thực hiện chuyên nghiệp và hữu hiệu các chức năng cơ bản và quan trọng của kênh phân phối
đó là nghiên cứu, chiêu thị, tiếp xúc, làm thích ứng, đàm phán, kho vận, đầu tư và chấp nhận
rủi ro. Ngoài ra, các nhà phân phối và bán lẻ này sở hữu 3 chữ E rất quan trọng đó là sự thơng
thạo (expertise), vốn (equity) và kinh nghiệm toàn cầu (experience) trong lãnh vực phân phối
và bán lẻ. Các nhà phân phối và bán lẻ Việt Nam chỉ phân phối và bán lẻ trong lãnh thổ Việt
Nam do vậy thiếu sự thông thạo về các mơ hình phân phối và bán lẻ đã và đang áp dụng trên
thế giới. Cùng với sự thiếu thông thạo là sự thiếu hiểu biết về thông tin của các nhà phân phối
và bán lẻ nước ngoài. So với các đồng nghiệp nước ngoài, các nhà phân phối và bán lẻ Việt
Nam khơng có tiềm lực tài chính đủ mạnh vì chỉ tham gia phân phối và bán lẻ tại thị trường
Việt Nam. Mặc khác, họ lại hoạt động độc lập và thiếu sự liên kết do vậy không huy động
được nguồn tài chính đủ mạnh để cạnh tranh. Cuối cùng đó là thiếu kinh nghiệm trong quản
lý phân phối và bán lẻ cũng như trình độ nhân lực phục vụ cho ngành phân phối và bán lẻ còn

yếu kém.
Nhìn bề ngồi ta có thể nhận thấy sự bùng nổ của các nhà phân phối và bán lẻ Việt
Nam với sự gia tăng với tốc độ chóng mặt về số lượng các cửa hiệu (stores) của CoopMart,
Vinatex, Hapro, G7, Citimart, v.v. nhằm chiếm lĩnh những mặt bằng tốt chuẩn bị đón đầu với
làn sóng của các nhà phân phối và bán lẻ nước ngoài tuy nhiên sẽ là chưa đủ và không hiệu
quả nếu các doanh nghiệp này không hoàn thiện thực chất các yếu tố 3E kể trên.
Nếu khơng nhìn vào tên, có lẽ chẳng ai nhận ra sự khác biệt giữa các siêu thị Co.op
Mart, Big C hoặc Citimart…Nhỏ hơn một chút là các hệ thống: Hapro, Maximark… Tuy
nhiên, những hệ thống này cũng chưa cho thấy lý do để thuyết phục khách hàng đến với họ
mà không phải là những siêu thị khác. Dường như những siêu thị của Việt Nam chỉ đơn thuần
tạo nên nơi mua sắm có gắn máy lạnh, nhiều hàng hố và… phải xếp hàng khi thanh toán.
Thấp hơn một chút nữa là các cửa hàng tiện dụng. Tại Việt Nam, chúng ta biết đến các hệ
thống như Shop & Go, Fresh Mart (Tập đoàn CP, Thái Lan), G7 Mart… Ngoài ra, tại thị
trường Việt Nam tồn tại những mơ hình bán lẻ theo kiểu chuyên biệt: Nguyễn Kim, Best
Caring, Viễn Thông A…Đây có thể là một xu hướng khả dĩ để đương đầu với sự cạnh tranh
khốc liệt. Bởi chính độ chuyên biệt đã xác định rõ nhóm khách hàng. Chẳng hạn, tới Nguyễn
Kim nghĩa là khách hàng muốn mua hàng điện máy gia dụng. Sự chun biệt hố sẽ góp phần
hình thành chân dung khách hàng mục tiêu. Tuy nhiên, dường như sự khác biệt giữa các đối
thủ cùng phân khúc này cũng thật sự chưa rõ ràng. Một loại hình nữa là: trung tâm thương
mại. Với nhữngn tên tuổi: Diamond Plaza, Zen Plaza, Parkson… tập trung vào nhóm khách
hàng cao cấp ở những đơ thị lớn. Chính nhóm này sẽ cạnh tranh quyết liệt với nhau để tồn tại.
Đây là nhóm có đội quản lý chuyên nghiệp, chất lượng, dịch vụ và thương hiệu lớn. Bản thân
14


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

nhóm này cũng có nhiều chiêu thức marketing để thu hút khách hàng mục tiêu của mình.
Trong khi đó, Metro Cash & Carry có thể được xem là mơ hình cung cấp sỉ những mặt hàng

thiết yếu khác biệt nhất hiện nay ở Việt Nam.
Metro làm marketing bài bản, chuẩn mực. Họ xác định nhóm khách hàng của mình rất
rõ ràng bằng cách xác lập 90.000 hội viên. Đây là nhóm khách hàng có thu nhập trung bình
cao. Quan trọng là Metro kết hợp với nhà cung cấp để có mực giá rẻ nhất có thể. Đó là lý do
mà Metro dường như khơng có đối thủ tại Việt Nam.
Tóm lại, các nhà bán lẻ Việt Nam ít nhiều cũng đã có sự chuẩn bị về công tác
marketing. Tuy nhiên, những chuẩn bị của họ dường như chưa đủ mà chỉ cần nhìn vào cách
định vị khách hàng cũng có thể nhận thấy nhiều nỗi lo.
Điểm yếu của các DN phân phối ở Việt Nam là tính chuyên nghiệp chưa cao, do chỉ có
khoảng 4-5% nhân lực được đào tạo chuyên ngành. 60-70% DN phân phối chưa sử dụng công
nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý và khoảng 20% đơn vị mới xây dựng website với nội
dung đơn giản, ít được cập nhật.
Theo một nghiên cứu mới đây của Tập đoàn IBM, thách thức lớn nhất mà ngành bán lẻ
VN đang phải đối mặt là sự xuất hiện của nhật kí điện tử (blog), diễn đàn trực tuyến và thế
giới ảo…Cụ thể, ông Andrew Ma, Giám đốc phụ trách Giải pháp ngành bán lẻ của IBM Châu
Á - Thái Bình Dương trong một hội thảo về ngành bán lẻ VN mới đây đã cho hay, với sự xuất
hiện của blog, diễn đàn trực tuyến, internet…đã làm cho phạm vi và cách thức tiếp xúc khách
hàng của doanh nghiệp (DN) bán lẻ trở nên đa dạng và rộng hơn - sự thuận tiện mọi lúc mọi
nơi và cơng nghệ ảo hóa đã và đang tác động mạnh đến ngành bán lẻ VN, tương lai của ngành
nằm ở khả năng hợp nhất thực tế và môi trường ảo của DN để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Nói về tác động của internet tới ngành bán lẻ ông Andrew Ma cho biết hiện tại trên thế giới
đã có nhiều DN áp dụng cơng nghệ ảo hóa vào kinh doanh, tiến hành tạo mẫu và phát triển
sản phẩm trên nền sản phẩm Cuộc sống thứ hai (Second Life) như thiết lập mạng internet 3
chiều, khởi động mạng internet 3D, kinh doanh ảo EBO và các mơi trường ảo khác.
Theo đó, ban đầu chỉ có vài DN gia nhập thế giới ảo như Sony, Reebok, Nissan…
nhưng đến nay đã có rất nhiều hãng áp dụng thành cơng cơng nghệ ảo hóa vào kinh doanh bán
lẻ, tăng cao lợi nhuận như Sears, Adidas, American Apparel, Apple và Samsung. Tại VN,
theo khảo sát của IBM, các hệ thống bán lẻ lớn như Metro CashCary, Big C, Parkson… đã
vận hành các giải pháp công nghệ tiến tiến dành cho ngành bán lẻ, cịn các DN VN hiện chỉ
có một số tiến hành dùng thí điểm. Riêng đối với việc gia nhập kinh doanh trong thế giới ảo

thì vẫn cịn xa lạ tại thị trường VN.
“Chúng tôi cho rằng đây là thời điểm để DN bán lẻ VN đánh giá lại thị trường, xác
định rõ đối thủ cạnh tranh của mình là ai để kịp thời chọn các giải pháp kinh doanh theo xu
hướng bán lẻ hiện đại” - ông Andrew Ma nói.

15


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

“Đây là cơ hội đồng thời cũng là thách thức mới của DN, bởi đối thủ cạnh tranh bây
giờ có thể là bất kỳ ai, ở bất cứ nơi đâu. Khách hàng ngày càng có nhiều thơng tin, địi hỏi cao
hơn và có sức mạnh lớn hơn” - ơng Andrew Ma cho biết thêm.
Bên cạnh đó, IBM cho rằng sự xuất hiện các chuỗi cửa hàng chuyên biệt và sự có mặt
của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu tại thị trường VN cũng góp phần thay đổi diện mạo thị
trường. Các cửa hàng VN muốn cạnh tranh buộc phải cải tiến dây chuyền cung ứng, cải tiến
qui trình kinh doanh để nâng cao năng suất, hiệu quả.
DN bán lẻ nước ngoài có tính chun nghiệp rất cao. Họ sử dụng cơng nghệ hiện đại,
có tiềm lực về tài chính mạnh, có hệ thống hỗ trợ tốt...
2.2.2. Thuận lợi và khó khăn của nghành bán lẻ Việt Nam.
Thuận lợi.
Hiện kênh phân phối truyền thống đang chiếm khoảng trên 85% lưu chuyển hàng hóa
bán lẻ.
Về dài hạn, tỷ lệ này giảm dần nhưng về tuyệt đối sẽ tăng lên. Đây là dư địa cho các
doanh nghiệp, hộ kinh doanh Việt Nam vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi chủ
yếu vào khai thác thị trường thông qua kênh phân phối hiện đại (trung tâm thương mại, đại
siêu thị, siêu thị…). Đặc điểm của phân phối (nhất là bán lẻ) là tính phân tán cao và gắn với
địa điểm bán lẻ cụ thể, với địa bàn dân cư cụ thể.
Với mạng lưới các điểm bán lẻ khá dày đặc, phân bố khắp nơi đang trở thành một lợi

thế cho doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam. Hơn ai hết, các doanh nghiệp và hộ kinh
doanh Việt Nam gắn bó về văn hóa, hiểu biết về tập quán, nhu cầu của người tiêu dùng Việt
Nam và có cơ hội để học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại
cũng như có thêm động lực trong việc đổi mới và phát triển kinh doanh.
Hơn nữa, trong cam kết, để có thời gian cho doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị, Chính
phủ đã thực hiện việc mở cửa theo lộ trình, áp dụng kiểm tra nhu cầu kinh tế khi cấp phép từ
cơ sở bán lẻ thứ hai trở lên đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, khơng mở cửa
hoặc mở cửa theo lộ trình đối với một số hàng hóa.
Để tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho các DN, Hiệp hội các nhà
bán lẻ Việt Nam đã ra mắt vào ngày 5/10/2007 với khoảng 130 DN tham gia. Vai trò của
Hiệp hội là đảm bảo môi trường kinh doanh cho các nhà sản xuất, cung cấp hàng hóa dịch vụ
cho các nhà bán lẻ, bảo vệ quyền và ích chính đáng cho DN hội viên; bảo vệ quyền lợi cho
người tiêu dùng...
Khó khăn của các doanh nghiệp nước ngoài:

16


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

Thị trường bán lẻ Việt Nam với quy mô khoảng 20 tỷ USD và thu nhập đầu người
dưới 1.000 USD/năm; Quy mô thị trường nhỏ, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ cản bước tiến
của những doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu khiến
sức mua sụt giảm mạnh trên tồn thế giới, trong đó có cả Việt Nam. Các doanh nghiệp phân
phối lớn hiện phải đối phó với những khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính đưa lại và sẽ
khơng để mắt đến những thị trường mới trong một vài năm tới.
Thông thường hệ thống bán lẻ muốn phát triển phải có vị trí kinh doanh thuận tiện là
mặt đường đồng nghĩa với việc phải có tiềm lực tài chính rất mạnh, đó là chưa kể các nhà bán
lẻ nước ngoài muốn thiết lập các chuỗi siêu thị tại Việt Nam. Vấn đề này thật khơng đơn giản

vì phân bổ đất đai cho hạ tầng thương mại của Việt Nam còn chật hẹp, giá thuê lại quá cao .
Tại các tòa nhà thương mại cao cấp ở trung tâm với giá thuê dao động 65 - 150
USD/m2/tháng, tại các vị trí khơng trung tâm có giá thuê khoảng 25 - 60 USD/m2/tháng.
Phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam
Một loạt sự kiện trong nước và thế giới đang diễn ra khẳng định một điều: người bán
lẻ, người tiêu dùng Việt Nam đang là tâm điểm của thế giới kinh doanh hiện nay. Nhiều nhà
đầu tư đang nhắm đến Việt Nam…
Ngày 01.01.2009 là thời điểm mà Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ theo lộ trình cam
kết khi gia nhập WTO của Việt Nam. Dư luận "đồn đoán" nhiều về số phận của các doanh
nghiệp phân phối, bán lẻ trong nước sẽ bị ảnh hưởng, khi các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài được tham gia vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, theo phân tích của các chun gia thương
mại trong và ngồi nước cho thấy sẽ khơng có biến động lớn trên thị trường ngay sau ngày
mở cửa.
Các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ trong nước nói chung, có lợi thế rất lớn về "sân
nhà" với sự thông thuộc, am hiểu một cách sâu sắc văn hóa, thói quen tiêu dùng của người địa
phương, trong khi "nhập gia tùy tục" không phải là chuyện đơn giản mà những "vị khách lạ"
có thể làm tốt trong ngày một ngày hai; ngoài ra các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ Việt
Nam cịn rất nhiều khơng gian để phát triển khi mà các đại gia bán lẻ nước ngoài chỉ tập trung
vào những tỉnh, thành phố lớn. Vì vậy, nếu biết tận dụng thế mạnh này, liên tục tiếp cận, nắm
bắt nhu cầu ngày càng cao và khắt khe của khách hàng, tiến hành đồng bộ các giải pháp để
trang bị những điều kiện cần thiết có thể thỏa mãn được những nhu cầu đó, thì các doanh
nghiệp phân phối, bán lẻ Việt Nam hoàn toàn có cơ hội và khả năng thích ứng.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ Việt Nam có lợi thế vượt trội khi
phát triển mơ hình cửa hàng tiện lợi; cịn các doanh nghiệp nước ngồi khó có khả năng thao
túng phân khúc thị trường này do có nhiều hạn chế từ hiểu biết về tập quán, về thị hiếu, thu
nhập đến thời gian đầu tư và thu hồi vốn, địa điểm bán lẻ,... trong khi các doanh nghiệp phân
phối, bán lẻ Việt Nam lại rất dễ thực hiện thông qua việc cải tạo, mua đứt, thuê hoặc sáp nhập
cửa hàng, kể cả các bà buôn thúng, bán mẹt, chỉ cần cải tạo các cơ sở đó thành điểm bán lẻ
tiện lợi đã có mạng lưới bán lẻ rộng khắp, do đó tương lai các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ
Việt Nam có nhiều thuận lợi để tồn tại và phát triển.

17


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

Kết quả khảo sát người tiêu dùng tại Hà Nội và TPHCM của AGROINFO cho thấy,
các nhà bán lẻ trong nước đang đáp ứng tốt hơn sự kỳ vọng của người tiêu dùng trong một số
tiêu chí. Trường hợp của chuỗi siêu thị Co.opMart là một ví dụ điển hình. Chuỗi siêu thị
Co.opMart được người tiêu dùng đánh giá khá cao khi đáp ứng được phần lớn các tiêu chí mà
họ kỳ vọng nhiều như giá cả cạnh tranh, thanh toán nhanh gọn, gần nhà và thuận tiện về giao
thông so với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài là Metro Cash & Carry và Big C. Điều này rõ
ràng là một tín hiệu đáng mừng cho ngành kinh doanh bán lẻ của Việt Nam trong bối cảnh thị
trường sắp tới.
2.2.2.2 Khó khăn.
Khó khăn đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam đó là năng lực cạnh tranh
của từng doanh nghiệp yếu vì đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mơ nhỏ, trình độ quản lý
lạc hậu, phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh chưa hiện đại, chiến
lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
Đồng thời, tính liên kết giữa các doanh nghiệp yếu như: liên kết dọc giữa nhà sản xuấtnhà bán buôn-nhà bán lẻ; liên kết ngang giữa nhà bán buôn với nhà bán buôn, nhà bán lẻ với
nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân phối với các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng…trong đó
các doanh nghiệp Việt Nam có 3 điểm yếu lớn sau:
Tài chính: Đây là yếu tố không cần bàn cãi nhiều.
Hậu cần (logistics): Kinh doanh siêu thị hiện đại đòi hỏi một hệ thống hậu cần chuyên
nghiệp. Tổng giám đốc của Metro Cash&Carry cho biết Metro đã chi gần 20-25 triệu euro
trang bị hệ thống cung ứng hàng (kho lạnh, xe chuyên dụng, thiết bị kiểm tra, bảo quản hàng
hóa...) theo chuẩn của Metro tồn cầu và chi gần 800.000 euro cho cơng tác huấn luyện.
Trong khi đó, ở các siêu thị của Việt Nam, các giám đốc siêu thị vẫn còn tranh cãi với nhau
về việc trung tâm phân phối hoặc nhà cung cấp không giao đủ hàng bán trong dịp lễ, Tết mà
chưa có biện pháp nào để khắc phục tình trạng này. Việc điều phối các xe giao hàng đúng

loại, đúng nơi, đúng thời điểm vẫn còn được điều hành, quản lý khá đơn giản. Điều này
không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà còn làm gia tăng chi phí lao động cũng
như quản lý.
Tính chuyên nghiệp: Kinh doanh bán lẻ hiện đại địi hỏi nhà quản lý có những công cụ
hỗ trợ để đưa ra các quyết định. Đối với một hệ thống siêu thị, bộ phận mua hàng đóng vai trị
khá quan trọng. Chun viên mua hàng chun nghiệp có thể điều đình với nhà cung cấp trên
tất cả mọi phương diện từ giá cả, số lượng, thời gian giao nhận hàng, các chương trình tiếp
thị, khuyến mãi, quy cách bao bì, đóng gói... Thậm chí họ có thể tư vấn lại cho nhà cung cấp
nên sản xuất hàng như thế nào, tiếp thị, quảng bá ra sao... Tuy nhiên, ở khâu này, dường như
các chuyên viên mua hàng của các nhà bán lẻ nước ngoài tỏ ra lấn lướt. Giám đốc một doanh
nghiệp dệt may kể rằng ông chào hàng ở Metro, bộ phận mua hàng ở đây trình bày cho ơng
xem tất cả những quy chuẩn của ngành hàng, mẫu mã, màu sắc, kích cỡ, phần trăm cho tiếp
thị quảng cáo, những điều khoản hỗ trợ của bên mua và những yêu cầu với nhà cung cấp...
Tất cả được vi tính hóa, cập nhật và trình bày rõ ràng, minh bạch cho nhà cung cấp tham
18


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

khảo. Trong khi đó, khi ơng làm việc với các siêu thị Việt Nam, quá trình thương lượng diễn
ra rất sơ sài. Cho nên khi bộ phận mua hàng từ chối bán hàng của doanh nghiệp, ơng hồn
tồn cảm thấy khơng thể nào “tâm phục, khẩu phục”.
Từ ba điểm yếu lớn nhất này của hệ thống bán lẻ Việt Nam, có thể thấy trong một
tương lai không xa, việc doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam bị chi phối và mất dần thị phần về tay
các nhà bán lẻ nước ngoài là điều khó tránh khỏi.
Sự đở bợ của các doanh nghiệp nước ngoài:
Tập đoàn Best Denki, một trong 5 “đại gia” bán lẻ điện máy lớn nhất Nhật Bản đã
“tăm tia” thị trường Việt Nam. Best Denki hiện sở hữu 570 chuỗi siêu thị tại Nhật và 40 siêu
thị ở Singapore, Malaysia, Hồng Kông (Trung Quốc), Indonesia, ...Với kinh nghiệm 55 năm

thành lập và gần hai năm hoạt động theo phương thức nhượng quyền thương mại với một DN
Việt Nam, Best Denki đã sẵn sàng liên doanh để trực tiếp tham gia thị trường này. Ông C.J.
Raij, Giám đốc bộ phận kinh doanh tiếp thị và phát triển thị trường nước ngoài của Best
Denki cho biết, với mong muốn trực tiếp đầu tư và được tham gia kinh doanh tại thị trường
bán lẻ điện máy ở Việt Nam, Best Denki và các đối tác vừa kết thúc giai đoạn đàm phán và
đang hoàn tất thủ tục, chuẩn bị thành lập liên doanh trong lĩnh vực này.
Ngồi ra, khơng thể khơng kể đến những tên tuổi đã có mặt và chiếm thị phần đáng kể
ở thị trường bán lẻ Việt Nam như: South Asia Investments Pte (Singapore), hệ thống siêu thị
Big C (Pháp), Metro Cash & Carry (Đức), Zen Plaza (Nhật Bản), Diamond Plaza (Hàn Quốc),
Parkson (Tập đoàn Lion, Malaysia),... Các tập đoàn này khơng chỉ tập trung tại các thành phố
có sức mua lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội mà còn mở rộng phạm vi hoạt động đến các
tỉnh thành tại miền Trung, miền Tây... Metro Cash & Carry - nhà phân phối lớn thứ 5 thế giới,
một trong hai tập đồn phân phối có mặt đầu tiên tại Việt Nam - mới đây đã đưa 2 trung tâm
phân phối tại Hải Phòng và Đà Nẵng vào hoạt động, nâng tổng số trung tâm phân phối của tập
đoàn này tại VN lên con số 7. Big C sau khi khai trương siêu thị ở Hà Nội cũng đang tiếp tục
kế hoạch đầu tư 120 triệu USD để mở các siêu thị tại Cần Thơ, Đà Nẵng và mở thêm nhiều
siêu thị tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; Tập đồn Parkson cũng có dự định xây dựng 10
trung tâm mua sắm...
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới đã
đến khảo sát thị trường và bày tỏ ý định đầu tư vào Việt Nam, trong đó có tập đồn bán lẻ
hàng đầu thế giới với doanh số gần 40 tỷ USD là Tesco (Anh). Ngoài ra, hai nhà bán lẻ nổi
tiếng là WalMart và Carrefoul cũng đang “lăm le” đầu tư. Theo ông Tham Tuck Choy, Tổng
giám đốc Parkson tại Việt Nam: “Với hơn 80 triệu dân, trong đó đa phần là giới trẻ, thu nhập
của người dân ngày càng cao, nhu cầu tiêu dùng đa dạng..., Việt Nam luôn được đánh giá là
thị trường đầy tiềm năng”.

19


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn

Quản trị bán lẻ

3. PHÂN TÍCH 4 MƠ HÌNH BÁN LẺ ĐẶC TRƯNG TẠI VIỆT NAM
3.1. Siêu thị - siêu thị Coop Mart
3.1.1. Sơ lược về Coop Mart
Theo Bộ Công Thương, hoạt động dịch vụ phân phối, bán lẻ, đóng góp khoảng 15%
GDP cả nước hàng năm. Với hơn 90 triệu dân và hàng chục triệu du khách mỗi năm, thị
trường bán lẻ Việt Nam khá lớn và hấp dẫn đối với các nhà phân phối nước ngoài.
Hệ thống Co.opMart là chuỗi siêu thị bán lẻ trực thuộc Saigon Co.op, đơn vị này
hiện đang sở hữu 47 siêu thị bao gồm 22 siêu thị tại TP.HCM và và 25 siêu thị tại các tỉnh,
thành phố lớn khác trong cả nước. Các siêu thị Co.opMart có đặc điểm chung là thân thiện,
gần gũi với khách hàng, mang đến cho khách hàng sự tiện lợi và nhiều dịch vụ tăng thêm. Có
thể ví Saigon Co-op và chuỗi siêu thị Co.opMart như một cô gái được mến thương, khơng vì
nhan sắc lộng lẫy, gia tài kết sù, học vấn siêu hạng,.. nhưng là nét bình dị, duyên dáng, đảm
đang, ân cần, đầy tình người, đượm phong cách VN,.. Thương hiệu Co.opMart đã trở thành
một trong những thương hiệu có tên tuổi trên thị trường hệ thống bán lẻ bởi việc ln cố gắng
hồn thiện để đem đến sự phục vụ tốt hơn cho khách hàng. Với gam màu xanh đỏ trắng (Mart
màu đỏ, nhỏ nổi bật trên nền màu xanh của chữ Co.op, hai chữ ấy kết hợp hài hòa trên nền
màu trắng) tạo nên một phong cách riêng,độcđáo cho thương hiệu. Ngoài ra, với slogan (khẩu
hiệu): “Bạn của mọi nhà" và "Nơi mua sắm đáng tin cậy" nó đã trở nên có sức sống thật sự,
tồn tại trong "bộ nhớ" của người tiêu dùng chứ không chỉ trên băng rôn, tờ bướm quảng cáo
hay các bản tin hàng hố thơng thường.
3.1.2. Sản phẩm kinh doanh
Hệ thống siêu thị Co.op Mart kinh doanh gần 30.000 mặt hàng, bao gồm: Thực phẩm
tươi sống tươi ngon, thực phẩm công nghệ đa dạng, đồ dùng phong phú với nhiều mẫu mã
mới, hàng may mặc thời trang, chất lượng, giá phải chăng, cùng với dịch vụ khách hàng
phong phú, tiện lợi và sự thân thiện của nhân viên Co.opMart là lý do Co.opMart trở thành
“Nơi mua sắm đáng tin cậy, bạn của mọi nhà” là kênh thông tin phản hồi nhanh diễn biến giá
cả thị trường cho các cơ quan điều hành thành phố, trở thành nhà bán lẻ chuyên nghiệp nhất
trong hệ thống bán lẻ Việt Nam. Các siêu thị của Co.opMart đều mang đặc điểm chung là

thân thiện, gần gũi với khách hàng, mang đến cho khách hàng sự tiện lợi và nhiều dịch vụ
tăng thêm. Với phương châm “Hàng hóa chất lượng, giá cả phải chăng, phục vụ ân
cần”,Co.opMart đã thâm nhập thị trường cả nước bằng phong cách Saigon kết hợp với từng
nét đặc thù của địa phương, tập hợp giữa tập trung và sự linh hoạt, sáng tạo và cải tiến không
ngừng của mỗi đơn vị, mỗi cá nhân. Thế nên, càng ngày Co.opMart càng được nhiều khách
hàng chọn lựa để đến mua sắm và thư giãn cùng gia đình mỗi ngày.
/>
Trung bình mỗi siêu thị nước ngoài ở VN hiện kinh doanh 40.000-50.000 mặt hàng
khác nhau, trong khi tại các siêu thị trong nước con số này chỉ 25.000-30.000 mặt hàng. Sự đa
dạng trong chủng hàng của các siêu thị ngoại thường nhỉnh hơn siêu thị trong nước ở ngành
hàng lẫn nhãn hàng. Ví dụ như mặt hàng gia vị hạt tiêu.Trên quầy gia vị của siêu thị Big C có
đến gần 10 loại tiêu khác nhau như tiêu sọ, tiêu xanh, tiêu hạt mịn, tiêu cay, tiêu nhập khẩu...
20


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

Ngay trong cùng một loại tiêu cũng có đến 2-3 nhà cung cấp khác nhau. Trong khi đó, tại siêu
thị Co.op Mart khách hàng chỉ có hai sự lựa chọn: tiêu sọ hoặc tiêu đen đóng gói sẵn.
Co.opMart đã chứng tỏ mình xứng đáng là một hệ thống bán lẻ hàng đầu Việt Nam.
Với mục tiêu là chuộng hàng nội, thúc đẩy tinh thần Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam,
dùng hàng nội để thay thế cho hàng ngoại nhập cho nên khoảng 80% trong số hơn 20.000 mặt
hàng thường xuyên có trong chuỗi siêu thị là hàng Việt Nam chất lượng tốt, giá cả phù hợp
với mặt bằng thu nhập chung của xã hội và thậm chí khơng cao hơn các cửa hàng tạp hóa.
Nếu trước đây doanh thu hàng Việt Nam của toàn hệ thống siêu thị Co.op Mart chỉ khoảng
70%, thì nay đã trên 90%. Như vậy có thể thấy hàng sản xuất trong nước đã thuyết phục được
người tiêu dùng. “Khác với sự lấn lướt của hàng ngoại những năm trước, tỉ trọng hàng nội
tăng dần cùng thời gian, trong nhiều nhóm hàng, hàng Việt cịn đóng vai trò chủ đạo. Chẳng
hạn ở ngành vải sợi, 95% quần áo trẻ em, trung niên, giới trẻ đều là hàng nội, hàng ngoại chỉ

xuất hiện ở dòng áo thun nam, trong khi trước đây cơ cấu ngành hàng này 40% là hàng ngoại,
với tỷ trọng chiếm đến 90% số lượng mặt hàng, chiếm 95% doanh thu trong hệ thống, hàng
Việt đang ngày càng chiếm ưu thế tại chuỗi siêu thị Co.opMart, Co.op Food và cửa hàng
Co.op.”, Bà Bùi Hạnh Thu - phó tổng giám đốc Saigon Co.op cho hay.
- Thực phẩm tươi sống và chế biến nấu chín: Đây là 1 trong những nét đặc trưng
của Hệ thống Co.opMart, với tiêu chí: phục vụ nhanh và đáp ứng nhu cầu về giảm bớt thời
gian cho các bà nội trợ. Hệ thống Co.opMart cung cấp cho người nội trợ những sản phẩm
ngon, sạch và tiện lợi, bao gồm:





Thực phẩm sơ chế và tẩm ướp.
Thực phẩm chế biến nấu chín.
Rau an tồn.
Trái cây.

Các nguồn hàng mà Co.opMart lựa chọn kỹ để bán cho quý khách được thu mua trực
tiếp từ chợ cá Phan Thiết, rau an tồn Đà Lạt, Rau ấp Đình Củ Chi, rau Hưng Phát, rau Sao
Việt... việc hợp tác giữa nông dân, ngư dân và hệ thống Co.opMart đem lại lợi thế cạnh tranh
lớn cho các mặt hàng kinh doanh tại hệ thống với giá tốt nhất và sản phẩm có chất lượng đảm
bảo.
Trái cây được mua từ nhiều nguồn khác nhau, từ những quả nho tươi, cam vàng nhập
từ Mỹ, Uc hay đến những trái cây từ các vùng miền của Việt Nam như : ổi, sari, sầu riêng,
xồi cát Hịa Lộc, …phong phú và đa dạng trong từng chủng loại.
Hàng hóa được trưng bày tại khu vực dành riêng trong các tủ lạnh, tủ mát và tủ cấp
đông ở nhiệt độ luôn ổn định để đảm bảo cho hàng hóa ln tươi ngon và bắt mắt. Bên cạnh
đó, hàng hóa ln được nhân viên chăm sóc thường xuyên và sẵn sàng tư vấn cho khách hàng
lựa chọn những thực phẩm ngon, cách nấu các món ăn phục vụ cho thực đơn hàng ngày.

- Thực phẩm công nghệ: Co.opmart có những nhà cung cấp và các đối tác chiến
lược như Bibica, Vissan, Pepsi Co, Dầu Tường An, Đồ Hộp Hạ Long,… Đó là Bánh kẹo
21


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

Kinh Đô, Bột ngọt Ajinomoto, Đường Biên Hòa, Nước suối Lavie, Dầu ăn Neptune, Nước
ngọt Pepsi, Sữa Vinamilk, Sữa Cô gái hà Lan, Thực phẩm đóng hộp Vissan…Hệ thống
Co.opMart ln đảm bảo cung cấp những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu hàng ngày
của quý khách hàng.
Quy trình mua hàng và kiểm sốt chất lượng hàng hóa ln được chú trọng, với các
hàng hóa thuộc nhóm thực phẩm, việc đảm bảo hạn sử dụng, nhãn hàng hóa và thơng tin
hướng dẫn sử dụng ln được quan tâm.
- Hóa phẩm: Nhiều chủng loại hàng hóa từ những nhà cung cấp hàng đầu như
Unilever, P&G, Mỹ phẩm Saigon, Mỹ Hảo… luôn đem lại những mặt hàng thiết yếu phục vụ
hàng ngày cho ngừơi tiêu dùng. Các sản phẩm như Bột giặt, nước xả, dầu gội, sữa tắm, xà
bông, nước rửa chén …. hàng tuần đều có các chương trình khuyến mãi dành riêng cho người
tiêu dùng với nhiều giải thưởng hấp dẫn. Ngồi các sản phẩm thơng dụng, Co.opMart cịn có
những sản phẩm chăm sóc chuyên biệt hơn cho các nhu cầu đa dạng của khách hàng. Bạn có
thể tìm thấy trên các kệ hóa phẩm những sản phẩm như : Gel dưỡng tóc, thuốc nhuộm tóc,
kem dưỡng da tay, sữa dưỡng thể, kem dưỡng gót chân hay các sản phẩm chăm sóc răng
miệng.
Việc hình thành các khu vực bán hàng phục vụ cho ba mẹ và em bé, Mỹ phẩm dành
cho Nam giới là nét mới của hệ thống Co.opMart, hàng hóa được trưng bày đẹp, phong phú
hợp lý tạo thuận lợi cho việc mua sắm. Đội ngũ nhân viên tư vấn của Saigon Co.op và chính
nhà cung cấp ln sẵn sàng phục vụ khách hàng ngay tại thời điểm mua hàng, các thơng tin
hàng hóa và sử dụng sản phẩm được cung cấp chi tiết và kịp thời giúp khách hàng đễ dàng lựa
chọn sản phẩm sử dụng.

- Hàng may mặc: Các thương hiệu hàng đầu Việt Nam như Việt Tiến, Việt Thắng,
Piere Cardin, An Phước và các nhà cung cấp sản phẩm may mặc nổi tiếng khác đều có mặt tại
khu may mặc của Co.opMart để đáp ứng nhu cầu mặc đẹp của quý khách hàng. Hàng hóa
đẹp, chất lượng cao, giá cả hợp lý và chủng loại phong phú. Các chương trình khuyến mãi
thường xuyên đem lại nhiều quyền lợi cho người tiêu dùng.
Đội ngũ nhân viên phục vụ và các nhân viên của nhà cung cấp sẵn sàng tư vấn giúp
khách hàng lựa chọn những kiểu quần áo hợp thời trang, cùng với các dịch vụ cộng thêm
khơng thu phí như cắt lai, thu nới size. Khu trưng bày các sản phẩm may mặc được đầu tư rất
chuyên nghiệp với quầy kệ đẹp, tiện lợi cho việc lựa chọn mua sắm.
-Đồ dùng: Hàng hóa chất lượng, giá cả phải chăng đó là những tiêu chí lựa chọn
hàng đầu để Co.opMart lựa chọn phục vụ cho khách hàng, với các thương hiệu nổi tiếng:
Happy Cook, Nhôm Kim Hằng, Supor, Phalê Việt Tiệp, Nhựa Phát Thành…Hàng hóa đa
dạng, phong phú với hàng ngàn chủng lọai hàng hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của
người tiêu dùng.
Hàng hoá trong khu đồ dùng được trưng bày theo từng nhóm các sản phẩm phục vụ
các tiện ích của gia đình như : đồ dùng gia đình, trang bị cho nhà bếp, thuận tiện cho việc mua
22


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

sắm và lựa chọn cho căn bếp của gia đình. Các bà nội trợ thích trang trí cịn có thể tìm thấy
nhiều sản phẩm xinh xắn, kiểu dáng lạ, đẹp, bắt mắt để chăm chút cho căn nhà của mình như:
tơ, dĩa, chén kiểu bằng gốm sứ, thủy tinh, phalê, bình hoa, bộ ly, các loại đồ kiểu độc đáo với
mẫu mã đa dạng phong phú, thường xuyên cập nhật hàng mới sẽ làm cho buổi mua sắm của
quý khách thêm thú vị. Các sản phẩm phục vụ cho việc trang trí căn nhà của người tiêu dùng :
các sản phẩm phale, hoa trưng bày.
-Nhãn hàng Co.opMart: Việc xây dựng hơn 300 sản phẩm dưới nhãn hiệu Coop
Mart (7/2010) cũng góp phần tạo nên dấu ấn thương hiệu.Việc cung cấp các mặt hàng thực

phẩm tươi sống và chế biến của các nhà cung cấp đạt tiêu chuẩn và đồng thời tạo ra hàng trăm
mặt hàng riêng, mang thương hiệu Co.opMart, như canh chua gà lá giang, cá rơ, lóc kho tộ,
mướp đắng, cà chua nhồi thịt, cá bống, cá diêu hồng, lươn om... thời trang SGC và mạnh nhất
là các mặt hàng thực phẩm khô, đông lạnh và chế biến sẵn nhãn hiệu Co.opMart luôn thỏa
mãn, đáp ứng nhu cầu mua sắm đa dạng của người tiêu dùng, phù hợp bữa ăn gia đình trong
tuần và cuối tuần, được các bà nội trợ ưa thích.
( />Menu=1368&Chitiet=13498&Style=1)

Saigon Co.op đã xây dựng hình ảnh Co.opMart là một siêu thị hiện đại văn minh của
phương thức bán hàng tự chọn, vừa có nét giản dị gần gũi trong kinh doanh và các dịch vụ đi
kèm. Sự khác biệt mà các nhà bán lẻ Việt Nam nói chung và Co.opMart nói riêng đã khai thác
khá thành cơng là: Mơ hình kết hợp giữa tự chọn và có phục vụ, sự có mặt của nhân viên mậu
dịch giúp đỡ, tư vấn cho khách hàng chọn lựa sản phẩm phù hợp, điều này khơng có tại các
cửa hàng tự chọn các nước khác; Phục vụ tận nhà cũng được xem như một ưu việt của các
siêu thị; Lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp với thị hiếu, khẩu vị từng vùng với giá cả
hợp lý phù hợp với khả năng thanh toán của đa số người dân cũng là sự khác biệt cơ bản của
siêu thị.
3.1.3. Thị trường mục tiêu
Theo bà Loan, hàng hóa đến tay người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ
(khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập (khoảng 44%). Hàng hóa qua hệ
thống phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện lợi… chỉ mới chiếm khoảng 10% vì phần
lớn hệ thống phân phối cịn rất non trẻ, còn lại là 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng.
Như vậy, kênh mua sắm truyền thống vẫn tiếp tục đóng vai trị then chốt trong đời sống hàng
ngày của người Việt Nam, chiếm 68% doanh thu từ các tiệm tạp hóa cả nước. Rõ ràng kênh
mua sắm truyền thống vẫn giữ được chỗ đứng riêng và các kênh thương mại bán lẻ hiện đại
sẽ cần chiến đấu đề giành được một phần của miếng bánh đó.
( />
Quy mơ thị trường ngày càng mở rộng hơn, hiện VN có gần 400 siêu thị, trung tâm
thương mại nhưng có tới hơn 8.000 chợ các loại, sự chênh lệch là rất lớn. Và bình quân mỗi
hệ thống siêu thị có 2.000-3.000 nhà cung cấp hàng hóa là các DN, cơ sở sản xuất trong nước.

Siêu thị đang trở thành kênh quảng bá thương hiệu quan trọng cho hàng VN và là một trong
những mục tiêu mà nhiều DN nhắm tới. Người dân đang dần chuyển thói quen từ mua, bán ở
chợ truyền thống sang các trung tâm thương mại và siêu thị. Thêm nữa, Việt Nam đã là thành
23


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nên hình thức phân phối không qua chợ sẽ trở
nên phổ biến hơn bao giờ hết. />Mơ hình chuỗi siêu thị Co.opMart là sự kết hợp giữa chợ truyền thống với phong
cách bán hàng văn minh, hiện đại. Định vị của Co.op Mart là trở thành người bạn thân thiết
của người tiêu dùng và để tạo nét đặc trưng cho Co.opMart, Saigon Co.op đã phân khúc
khách hàng mà Co.opMart nhắm đến là tầng lớp dân cư có thu nhập trung bình và thấp, khách
hàng đã lập gia đình là chủ yếu và cán bộ công nhân viên- đối tượng chiếm số đông của xã
hội, ngồi ra Co.opMart cịn nhắm đến những bà nội trợ bận rộn với cơng việc ít có thời gian
nấu nướng cho bữa ăn của gia đình. Xác định thị trường mục tiêu của Coop Mart là thành
phố. Hồ Chí Minh, các thành phố và thị xã, thị trấn có đơng dân cư trong cả nước. Do đó, việc
phát triển Coop Mart có chọn lọc theo thứ tự, ưu tiên cho những địa bàn có tiềm lực kinh tế
mạnh, sức mua cao. Đến nay Saigon Coop đã phát triển 47 siêu thị, trong đó 22 ở thành phố
và 25 ở các tỉnh thành khác trong cả nước.
Những đối tượng khách hàng đến với hệ thống siêu thị Co.opMart là ai?
o Đa số là những người nội trợ đủ mọi thành phần lứa tuổi.
o Họ thường là những người có thu nhập trung bình khá trở lên.

Họ là những người khơng thích sự ồn ào náo nhiệt của việc mua sắm ngồi chợ
Họ khơng thích trả giá
Họ là những người mua sắm bốc đồng, vì có thể họ đến siêu thị là đi cùng với
bạn bè, hoặc chỉ để ngắm nhưng có thể một mặt hàng nàođó khiến họ khơng thể
kiềm lại cái cảm giác thích mua sắm bốc đồng của mình.

o Họ là những người bận rộn.
o Họ là những người quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm.
o Họ thường ở khu vực thành phố.
o
o
o

Dẫn lời bà Nguyễn Thị Hạnh: hiện nay doanh số kinh doanh hàng Việt Nam của
chúng tơi ngày càng tăng, có nghĩa là chúng tôi đã xác định đối tượng phục vụ chủ yếu của hệ
thống siêu thị Co.op Mart là những người có thu nhập trung bình – khá. Đây là đối tượng tiêu
dùng vừa quan tâm đến chất lượng hàng hoá, vừa địi hỏi hàng hố phải có giá cả hợp lý.
Chúng tôi đánh giá hiện nay hàng sản xuất trong nước có chất lượng tốt và giá cả có thể đáp
ứng được khả năng chi tiêu của đa số người tiêu dùng Việt Nam. Đó là chiến lược kinh doanh
chính của chúng tơi. Vì vậy, khi triển khai chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam”, thì chúng tơi nhận thấy rất phù hợp với tiêu chí kinh doanh của hệ thống siêu thị
Co.op Mart từ khi thành lập đến nay. Và chúng tôi tin rằng điều này sẽ không ảnh hưởng
nhiều đến doanh số. Điều mà chúng tôi quan tâm nhất là luôn nhắc nhở, và đồng thời cũng
yêu cầu nhà cung cấp cam kết, đảm bảo ổn định chất lượng, mặt khác cũng cần phải thường
xuyên cải tiến mẫu mã hàng hố, có giá cả hợp lý để giữ vững được niềm tin của người tiêu
dùng. Để từ đó người tiêu dùng Việt Nam sẽ ngày càng sử dụng hàng sản xuất trong nước
nhiều hơn.
Cũng theo bà Hạnh:” Việc các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thâm nhập vào thị trường
Việt Nam tạo ra sự cạnh tranh có thể nói là rất gay gắt đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong
24


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

nước, trong đó có SaiGon Co.op. Chính vì vậy mà ngay từ rất lâu rồi chúng tôi đã chuẩn bị

một chiến lược cho mình. Một trong những điều mà chúng tơi nghĩ rằng nó là lợi thế và thế
mạnh của mình đó là chúng tôi đã đầu tư phát triển thương hiệu từ hơn 10 năm nay, hiện nay
có thể nói người tiêu dùng Việt Nam đã quen với thương hiệu Co.op Mart... Tôi đánh giá cao
tiềm năng của thị trường nông thơn, vì trên 70% dân cư đang sống ở đây. Vì vậy đây là một
thị trường rất hấp dẫn, và sắp tới chúng tôi sẽ phát triển hệ thống siêu thị Co.op Mart ở các
địa phương của các tỉnh, thành phố. Thực tế, hiện nay có một số tỉnh chưa thật sự mang lại
hiệu quả đầu tư như mong muốn, song chúng tôi vẫn xem đây là chiến lược lâu dài. Ngồi
việc phục vụ mục đích kinh doanh, với vai trò là một tổ chức kinh tế tập thể, chúng tơi xem
đó là nhiệm vụ chính trị quan trọng cần phải hoàn thành. Mỗi khi đầu tư vào một địa bàn mới,
chúng tôi mong muốn đem đến cho người tiêu dùng một phương tiện mua sắm hiện đại, an
toàn, văn minh hơn, và tôi mong muốn các siêu thị Co.op Mart trong tương lai có thể thay đổi
thói quen mua sắm ở các chợ truyền thống của người dân.”
Hệ thống siêu thị Coop Mart được đông đảo người tiêu dùng tin yêu, tín nhiệm và
đang từng bước vươn ra chiếm lĩnh thị trường trong cả nước, đã khẳng định được vị trí Nhà
bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam liên tiếp năm năm liền; nằm trong Top 500 Nhà bán lẻ hàng đầu
châu Á - Thái Bình Dương 6 năm liền (2004-2009)theo bình chọn của Tạp chí Bán lẻ châu Á.
Đây là niềm tự hào của hệ thống siêu thị HTX thành phố Hồ Chí Minh và phong trào HTX
Việt Nam. Thời gian tới nỗ lực và thử thách sẽ cịn lớn hơn những gì đã trải qua, do đó phải
chuẩn bị đối phó với các biến động chưa lường hết trong bối cảnh hộp nhập, đòi hỏi phải
chấp nhận quy luật cạnh tranh của thị trường để tiến lên. Dựa trên truyền thống của Đơn vị
Anh hùng, Saigon Coop kiên quyết giữ vững là mơ hình, là biểu tượng có tính thuyết phục
nhất cho sự phát triển phong trào HTX cả nước và phong trào HTX châu Á-Thái Bình Dương.
3.1.4. Chiến lược Marketing
P1: Product
Co.opMart đã chủ động hợp tác cùng với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, hợp tác xã
và nông dân trong việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm hàng tiêu dùng cũng như nông sản
khác nhau. Không chỉ Co.opMart mà nhiều siêu thị khác đánh giá hiện nay hàng sản xuất
trong nước có chất lượng tốt và giá cả có thể đáp ứng được khả năng chi tiêu của đa số người
tiêu dùng Việt Nam. Thế nên chiến lược của Co.opMart là đưa hàng Việt vào trong siêu thị,
khuyến khích ngưởi Việt dùng hàng Việt. Phù hợp với nhu cầu của khách hàng trong thị

trường mục tiêu là vừa quan tâm đến chất lượng hàng hố, vừa địi hỏi hàng hố phải có giá
cả hợp lý. Co.opMart hướng đến đa phần là các khách hàng đã lập gia đình và các khách hàng
trẻ, bận rộn với cơng việc. Vì vậy, bên cạnh các sản phẩm truyền thống của 1 siêu thị, Co.op
Mart còn mở rộng hệ thống nhà ăn ngay tại siêu thị của mình, cũng như cung cấp các món ăn
đã làm sẵn hoặc đã qua chế biến khá đa dạng và phong phú, mang đến sự lựa chọn thỏa mái
cho các bà nội trợ cũng như các khách hàng khơng có nhiều thời gian nấu nướng cho bữa ăn
của gia đình.
Thủ tục đưa hàng vào bán tại Co.opMart rất rõ ràng và từng chủng loại hàng hóa như
thực phẩm tươi sống, thực phẩm khô, hàng đồ chơi, vải sợi... phải thỏa mãn các điều kiện:
25


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ

Hàng hóa hợp thị hiếu người tiêu dùng, đầy đủ quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm, nhãn mác, bao bì, hàng hóa đủ để đáp ứng nhu cầu, có thể giao hàng nhiều tỉnh thành.
Ðể đa dạng hóa nguồn hàng, mặt hàng, trong đó chú trọng kinh doanh các sản phẩm
do các nhà sản xuất trong nước làm ra, Co.opMart đã chọn lọc 1.000 nhà cung cấp, trong tổng
số 2.000 nhà mua hàng theo các dạng sỉ, lẻ, gối đầu, ứng trước, gia cơng, tùy khách mà có chế
độ khuyến mãi với giá cả linh hoạt... Bộ phận mua hàng và nghiệp vụ mua hàng được chuẩn
hóa theo chức năng và chuyên nghiệp trong chọn lọc, xét duyệt chủng loại hàng hóa, tổ chức
thu mua tận gốc và tiếp nhận hàng hóa từ các tỉnh, các nhà cung cấp. Thực hiện tốt chính sách
kinh doanh, trong đó ưu tiên mua hàng của doanh nghiệp trong nước, Co.opMart thường
xuyên có 500 nhà cung cấp cho năm ngành hàng: hóa phẩm, thực phẩm chế biến cơng nghệ,
đồ dùng gia đình, may mặc, như HTX rau Anh Ðào (Ðà Lạt), thủy hải sản Sài Gòn, Agifish,
Vissan, Trường An, Happy Cook, Việt Tiến, Nhà Bè, Thành Công, Vinamilk, Kinh Ðô, P/S,
v.v. Các nhà cung cấp sẵn sàng hạ giá từ 5 đến 10%, theo u cầu của Co.opMart. Ngồi ra
Co.opMart cịn triển khai và thực hiện có hiệu quả chiến lược giá, chiến lược hàng hóa và
mua hàng cùng với việc xây dựng các tiêu chí đầu tư xây dựng các Co.opMart. Co.opMart

cịn ưu tiên những DN có chính sách kinh doanh năng động, có chính sách giá tốt cho khách
hàng, ưu tiên hàng sản xuất địa phương...
Quy trình mua hàng và kiểm sốt chất lượng hàng hóa ln được chú trọng, với các
hàng hóa thuộc nhóm thực phẩm, việc đảm bảo hạn sử dụng, nhãn hàng hóa và thơng tin
hướng dẫn sử dụng luôn được quan tâm. Với các mặt hàng thực phẩm tươi sống và chế biến,
Co.opMart chú trọng khai thác nguồn hàng của các nhà cung cấp đạt tiêu chuẩn đồng thời tạo
ra hàng trăm mặt hàng riêng, mang thương hiệu Co.opMart, như canh chua gà lá giang, cá rơ,
lóc kho tộ, mướp đắng, cà chua nhồi thịt, cá bống, cá diêu hồng, lươn om... phù hợp bữa ăn
gia đình trong tuần và cuối tuần, được các bà nội trợ ưa thích.
Khi được hỏi thì có 94% khách hàng quan tâm đến chất lượng sản phẩm được bán tại
siêu thị. Điều này hoàn toàn phù hợp với những mong muốn của người tiêu dùng về các loại
thực phẩm có giá cả hợp lý và đảm bảo được về mặt chất lượng. Vì thế nên để bảo vệ sức
khỏe người tiêu dùng, Co.opMart ký hợp đồng với Trung tâm 3, thường xuyên kiểm tra an
toàn thực phẩm trong các siêu thị. Triển khai các hoạt động quảng bá, phát tài liệu, cẩm nang
mua sắm đến tận nhà của hàng chục nghìn khách hàng thân thiết. />Content.aspx?ID=4123

Chính sách chất lượng
1.

Hệ thống Co.opMart - Nơi mua sắm đáng tin cậy - Bạn của mọi nhà

Với mục tiêu mục tiêu chất lượng:“hàng hóa chất lượng, giá cả phải chăng, phục
vụ ân cần, luôn mang lại giá trị tăng thêm cho khách hàng”.




Hàng hóa phong phú và chất lượng.
Giá cả phải chăng.
Phục vụ ân cần.

26


GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ



Ln đem lại các giá trị tăng thêm cho khách hàng.

"Xây dựng thương hiệu doanh nghiệp được chúng tôi quan tâm ngay từ khi thành lập
Saigon Co-op đến nay. Cách đây 14 năm, Saigon Co-op đã đi đầu trong việc hình thành hệ
thống siêu thị bán lẻ, và ở khía cạnh phục vụ chu đáo, đem lại lợi ích cho khách hàng.” Dẫn
lời của bà Thu.
2. Saigon Co.op luôn ưu tiên chọn những sản phẩm của nhà sản xuất có chứng
chỉ ISO-9000 hoặc một hệ thống quản lý chất lượng tương đương, tối thiểu là nhà sản xuất
có hàng Việt Nam chất lượng cao do người tiêu dùng bình chọn.
3. Saigon Co.op là mái nhà thân yêu của toàn thể cán bộ nhân viên. Mọi hoạt động của
Co.opmart luôn hướng đến cộng đồng xã hội.
Nhằm nâng cao chất lượng phục vụ quản lý, xây dựng hình ảnh Coop Mart nơi mua
sắm tiện lợi an tồn và thân thiện thơng qua việc khơng ngừng cải tiến đầu tư, đổi mới trang
thiết bị phục vụ kinh doanh như hệ thống thang máy, thang cuốn, tủ đông, tủ lạnh, kho mát,
cổng từ chống trộm, thiết bị chống sét lan truyền, camera quan sát, cải tạo và lắp đặt mới hệ
thống đèn tiết kiệm năng lượng, hệ thống tủ trữ thực phẩm. Tổng kinh phí đầu tư mỗi năm lên
đến hàng trăm tỷ đồng.
Để đảm bảo vệ sinh an toản thực phẩm, hệ thống Co.opMart thiết lập một bộ phận
kiểm soát xuyên suốt từ trước, trong và sau bán hàng. Bên cạnh đó, định kỳ Hệ thống
Co.opMart còn ký hợp đồng tư vấn và dịch vụ với các cơ quan chức năng như Chi cục Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng , Trung tâm y tế dự phịng và Trung tâm dịch vụ phân tích thí
nghiệm tiến hành lấy mẫu hàng hóa phân tích các chỉ tiêu lý tính, hóa tính và vi sinh. Với hệ

thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2000, chứng chỉ HACCP công tác đảm
bảo chất lượng và VSATTP , Co.opMart luôn hướng đến mục tiêu bảo vệ sức khỏe và đem lại
bữa ăn ngon cho người tiêu dùng.
Với nhân viên của siêu thị
Nhân viên bán hàng: vui vẻ, thân thiện, ân cần, nhã nhặn, trung thực bạn có thể hỏi
hỏi nhân viên về một món hàng hay thực phẩm họ sẽ hướng dẫn một cách cặn kẽ hay đưa ra
những lời khuyên đúng đắn. Cũng có thể tự do lựa chọn hàng hóa mà khơng sợ bị người bán
hàng khó chịu vì bị mất mở hàng hoặc trả giá quá sát…, được ngắm thỏa thích và học cách sử
dụng những mặt hàng mới từ các nhân viên bán hàng. Ngoài ra, với bộ đồng phục xanh
dương phù hợp với thương hiệu Co.opMart đã tạo cho nhân viên một phong cách chuyên
nghiệp, lịch sự.
Nhân viên quản lý: phong cách làm việc năng động do sự bổ sung liên tục nhân sự
trẻ giữ các chức vụ chủ chốt, từ Giám Đốc siêu thị, Trưởng, phó phịng chun mơn cho đến
thành viên trong Ban Tổng Giám Đốc (điều này có được nhờ sự ra đời khá đều đặn của các
Co.opMart, góp phần tạo nên sự năng động trong toàn bộ máy); của việc " bảo tồn lực lượng
" hay nói cách khác là không bị mất chất xám khi cử người sang các liên doanh hay đưa đi
27


×