Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
********************
TRƯỜNG :ĐH ngân hàng TPHCM
TIỂU LUẬN : Kinh tế chính trò – Nền
kinh tế thò trường ở Việt Nam
SINH VIÊN : Dương Thò Xuân Hoà
LỚP : CĐ19E1
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : Lê Hùng
NĂM : 2005
*********************
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
Lý do chọn đề tài : Chỉ có thể chuyển sang cơ chế kinh tế thò trường
chúng ta mới thực hiện được mục tiêu mô hình chủ nghóa xã hội ở nước ta
.
Mục đích nghiên cứu : Nước ta mới đi những bước vào kinh tế thò trường
chúng ta vừa làm vừa học . Chúng ta lại xuất phát từ một nước nông
nghiệp là chủ yếu vì vậy những khó khăn những khuyết điểm và tồn tại
trong bước đầu là dễ hiểu . Hiện nay người giàu ở nước ta còn ít người
nghèo và trung bình còn nhiều . Thu nhập bình quân đầu người ở nước ta
còn thấp khoảng 400 USĐ khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng sản
xuất chủ yếu vẫn còn dựa vào lao động thủ công , số lao động thất nghiệp
còn nhiều . Các tệ nạn nhiều và có chiều hướng tăng như nghiện hút ma
tuý , tham nhũng buôn lậu , cờ bạc …. Rõ ràng để thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, chúng ta phải phát
triển mạnh mẽ kinh tế , nâng cao đời sống vật chất và tinh thần , nâng
cao đạo đức và lối sống lành mạnh . Vì vậy mỗi bước xây dựng và phát
triển kinh tế thò trường ở nước ta phải hướng vào mục tiêu trên .
Hệ thống kinh tế thò trường là một thể chế kinh tế dân chủ và tự do . Nó
cho phép mỗi công dân có quyền sản xuất cái gì , như thế nào , sản xuất
với cái gì cho ai và có quyền tiêu dùng cái gì . Công dân với tư cách là
người tiêu dùng và người sản xuất sẽ lập kế hoạch tiêu thụ và sản xuất
của minh một cách cá nhân phi tập trung , tức là mỗi người lập kế hoạch
cho chính bản thân mình mà không cần bất cứ một hình thức tập trung
nào . Sự phân phân phối các kế hoạch kinh tế khác nhau được thực hiện
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
thông qua việc hình thành giá cả một cách tự do và cạnh tranh trên thò
trường .
Nền kinh tế thò trường xã hội do vậy hướng vào hình tượng con người tự
do . Nó biểu thò quyền của mỗi con người , được phát triển nhân cách của
mình được tự do và tự chòu trách nhiệm về sự phồn thònh riêng của mình
dó nhiên trong khuôn khổ giới hạn xã hội đã đặt ra .
MULLER- ARMARK đã nói rằng vẫn nên ưu tiên hơn cho nền kinh tế thò
trường ngay cả khi nó thua kém về kinh tế so với nền kinh tế kế hoạch .
Nền kinh tế thò trường xã hội chính vì vậy là một thể chế kinh tế mang
tính nhân bản hơn . Xét về mặt lâu dài phải để cho người dân có quyền tự
do về chính trò cũng như về kinh tế. Rất khó có thể tưởng tượng được rằng
, trong khi có nhiều quyền tự do cá nhân như vậy thì từng kế hoạch có thể
thống nhất được với nhau một cách đầy đủ và chính xác đến mức những
mong muốn của người dân đáp ứng theo một quy mô chung có thể chấp
nhận được trong điều kiện thiếu hụt về hàng hoá.
Nền kinh tế thò trường xã hội có một hệ thống thông tin tin cậy để có thể
đưa ra được các dữ kiện tổng thể , có phân biệt và kòp thời về những
mong muốn tiêu dùng của đân cư . ở đây thò trường sẻ cung cấp những
thông tin cần thiết , mặc dù thiếu một kế hoạch tập trung nhưng không
dẫn đến tình trạng lộn xộn , mà lại đưa đến một sự nhất trì có hiệu quả về
các kế hoạch kinh tế tư nhân của người sản xuất và người tiêu dùng.
Các thò trường các yếu tố sản xuất mang lại cho các nhà cung ứng những
yếu tố nhà sở hữu tư bản và lực lượng lao động , những khả năng tìm
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
kiếm lợi nhuận và công ăn việc làm . các khuyến khích vật chất giúp họ
cải thiện về chất lượng và sản lượng , năng lực của mình trong cạnh tranh
. Lực lượng lao động cố gắng cải thiện thu nhập tuỳ theo trình độ nghề
nghiệp ngày càng cao hơn . Các nhà sản xuất tìm cách gia tăng thu nhập
của họ nhờ hoạt động kinh doanh thông qua mở rộng sản xuất, sản phẩm
mới và phương pháp sản xuất mới .
Xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế , nền kinh tế thò trường trong khuôn
khổ các nguồn hiện có xu hướng đáp ứng cao nhất các nhu cầu , cũng như
hướng tới sủ dụng các nhân tố sản xuất một cách tiết kiệm và có hiệu
năng , và do đó tốt nhất . Mặc dù có sự hoạch đònh theo nền kinh tế tư
nhân , phi tập trung và co khuynh hướng tìm lợi nhuận cho cá nhân và các
nhà sản xuất , nền kinh tế thò trường vẫn góp phần dành được một sự lợi
nhuận chung lớn nhất .
.I Khái niệm : kinh tế thò trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ
kinh tế đều được thực hiện trên thi trường, thông qua quá trình trao đổi
mua bán , là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát
triển rất cao của lực lượng sản xuất.
.II Đặc điểm kinh tế thò trường ở nước ta hiện nay
.1 Nền kinh tế thi trường còn ở trình độ kém phát triển :
- Thứ nhất : Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình
độ thấp. Trình độ công nghệ lạc hậu , máy móc cũ kỹ, quy mô sản
xuất nhỏ bé, năng suất, chất lượng , hiệu quả sản xuất còn thấp.
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
- Thứ hai: Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu
kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế
nông nghiệp . Ngành nghề chưa phát triển , sự phân công hiệp tác,
chuyên môn hoá sản xuất chưa rộng , chưa sâu , giao lưu hàng hoá
còn nhiều hạn chế
- Thứ ba : Chưa có thi trường theo đúng nghóa của nó . Trong những
năm qua thò trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và
phát triển nên nó còn ở trình độ thấp . Cơ cấu thi trường chưa đầy
đủ. Dung lượng thò trường còn ít và có phần rối loạn. Các yếu tố
kinh tế thò trường hình thành chưa đủ . Chưa có thi trường sức lao
động theo đúng nghóa. Thò trường tiền tệ chưa phát triển . Thò
trường vốn chưa phát triển còn sơ khai.
- Thứ tư : Thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn
thấp, do đó sức mua hàng hoá còn thấp , tỷ suất hàng hoá chưa cao.
- Thứ năm : Còn chòu ảnh hưởng lớn của mô hình kinh tế chỉ huy với
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Thật vậy diễn biến thò trường nhà đất trên đường Trần Não quận 2
trở nên vắng lặng … Công ty có nhiều văn phòng giao dòch nhưng giờ
phải thu gọn lại để giảm tiền nhà , lương nhân viên . Có thể khẳng
đònh , thò trường nhà đất hiện đã “đóng băng” , lác đác đó đây có vài
miếng “ băng vụn” là những căn nhà hoặc căn hộ chung cư trò giá
không cao đã kí hợp đồng mua bán từ trước nay tiếp tục thực hiện .
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
Tác động lớn nhất đến tình trạng” đóng băng” là giá vàng tăng mạnh
thất thường làm người mua , kẻ bán đều ngại . Người dân có tâm lý “
chờ” vì sợ tăng nửa, giá vàng giảm củng chờ vì e còn giảm thêm .
Nguyên nhân “ đóng bằng” khác, đó là tâm lý người dân chưa hoàn
toàn yên tâm và tin tưởng vào tính khả thi của các văn bản pháp luật
( cụ thể là các Nghò đònh 181, 188) và muốn chờ xem luật pháp đïc
thực thi thế nào. ( Báo Kinh tế Sài Gòn 23-12-04)
2.Nền kinh tế thò trường với nhiều thành phần kinh tế , trong đó
kinh tế nhà nước giử vai trò chủ đạo :
Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất
kinh tế khác nhau, nhưng chúng đều là những bộ phận của một cơ cấu
kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung- cầu , tiền tệ, giá cả
chung… Bởi vậy, chúng vừa hợp tác , vừa cạnh tranh với nhau, Mỗi
đơn vò kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng
trước pháp luật .
Tuy nhiên , cần nhận thức rõ ràng, mỗi thành phần kinh tế chòu sự tác
động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy
luật kinh tế khác nhau này mà bên cạnh tình thống nhất của các thành
phần kinh tế thò trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những
phương hướng khác nhau. Chẳng hạn như các thành phần kinh tế cá
thể, tư bản tư nhân tuy có vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất,
giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu về vốn , hàng hoá và dòch vụ
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
cho xã hội . Nhưng vì dựa trên sở hửu tư nhân về tư liệu sản xuất , các
thành phần kinh tế này không tránh khỏi tính tự phát, chạy theo lợi
nhuận dơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến
lợi ích chung của xã hội .
Vì vậy, cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế này. Nhà nước ta phải sử dụng
nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế những khuynh hướng tự
phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng sự phát triển của các thành
phần kinh tế này theo đònh hướng xã hội chủ nghóa . Nhưng, vấn đề có
ý nghóa quyết đònh nhất là Nhà Nước phải quan tâm tạo điều kiện
củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây dựng khu vực kinh tế nhà nước
không đảm nhiệm được vai trò này thì nền kinh tế quốc dân ắt không
tránh khỏi nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghóa.
- Với sự quản lý của nhà nước thì thò trường lao động ỏ việt nam
đang dần ổn đònh
- Những đầu năm 2005 xuất khảu lao động (XKLĐ) VN đón nhận
hai thông tin quan trọng: Đài Loan đình chỉ tiếp nhận lao động VN ,
và thò trường lao động tại Malaysia đang có những chuyển biến
theo chiều hướng tốt đẹp
- Nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài của Malaysia rất lớn,
Nhưng không vì thế mà chúng ta có thể làm ẩu, làm thiếu trách
nhiệm . Điều quan trọng nhất là các doanh nghiệp cần phải tuyển
lao động có chất lượng , động thời chọn được những đối tác đáng
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
tinh cậy để cung ứng lao động . Kinh nghiệm những năm trùc cho
thấy nếu cứ làm một cách ồ ạt , làm bừa, làm ẩu thì chúng ta sẽ
mất uy tín với phía bạn , người lao động lại phải đối mặt với những
nguy cơ rủi ro. Chính vì thế , chúng tôi khuyên những doanh nghiệp
XKLĐ còn yếu về năng lực chuyên môn không nên tham gia vào
thò trường này.( Báo tuổi trẻ: thứ sáu 28-1-2005)
3. Nền kinh tế thò trường phát triển theo cơ cấùu kinh tế “mở”:
- Xuất phát từ kinh nghiệm bao trùm về chính sách đối ngoại và
quan điềm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thề giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chính
sách kinh tế đối ngoại của nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay
được thực hiện theo đònh hướng sau:
- Đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức
kinh tế không phân biệt chế độ chính trò trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng quyền lợi. Củng cố và tăng
cường vò trí của Việt Nam ở các thò trường quen thuộc và với bạn
hàng truyền thống; tích cực thâm nhập , tạo chổ đứng ở các thò
trường mới , phát triển các mối quan hệ mới dưới mọi hình thức.
- Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho
việc thực hiện mục tiêu kinh tế- xã hội để ra cho từng giai đoạn
lòch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghóa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá theo đònh
hướng xã hội chủ nghóa.
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
- Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự
lực, tự cường ; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa
vào nguồn lực trong nước là chính đi đối với tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài.
- Theo những đònh hướng trên , mấy năm qua, hoạt động kinh tế đối
ngoại ở nước ta đẫ lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài
chính, tiền tệ quốc tế, bước đầu đã thu được những thành tựu quan
trọng về kinh tế đối ngoại.
- Cụ thể là nhắm tới thò trường trung quốc , cổng thông tin Việt Nam
– Trung quốc với đòa chỉ ww.vietnamchinalink.com.vn do VCCI
thiết kế , đi vào hoạt động. Tính đến cuối năm 2004 , khoảng 600
doanh nghiệp Việt Nam và 300 doanh nghiệp Trung Quốc đã tham
gia “ trưng bày “ hàng hoá, trao đổi thông tin , mua bán… qua cổng
thông tin này được thiết lập theo khuôn khổ diển đàn doanh nghiệp
việt – trung được thành lập thang 7-2004 > ( báo kinh tế Sài
Gòn 6-1-2005)
- Ngành chế biến hạt điều trở lại “ sân nhà” : nhiều năm qua , các
doanh nghiệp chế biến hạt điều Việt Nam gần như chỉ làm mỗi một
việc là bóc tách từ hạt điều thô ra nhân để đóng thùng xuất khẩu
mà quean đi thò trường rộng lớn trong nước . Nay, họ mới sực nhớ
còn một thò trường trong nước với 80 triệu dân và từ nhân điều , có
thể chế biến thành nhiều sản phẩm khác nhau tiêu thụ ngay trong
nước . ng Hồ Ngọc Cầm , chủ tòch Hiệp Hội Cây Điều Việt Nam
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
(vinacas) cho biết hiện nay các nhà máy chế biến hạt điều trong
nước một mặc tìm kiếm mở rộng thò trường xuất khẩu, mặt khác
cũng không quean xây dựng thò trường trong nước, ông Hồ Ngọc
Cầm cho rằng chế biến hạt điều đến sản phẩm cuối cùng để tiêu
thụ trong nước là một bước đệm, nhằm tạo dựng thương hiệu rồi
mới từ từ thâm nhập thò trường nước ngoài
- Trước năm 2002 , cứ nói đến xuất khẩu nhân điều là người ta nghó
ngay đến thò trương Trung Quốc , vì phần lớn nhân điều của Việt
Nam bán cho thò trường này . Nhưng từ năm ngoái , thò trường Mỹ
vượt qua Trung Quốc và chiếm 30% kim ngạch xuất khẩu điều của
Việt Nam , thò trường Trung Quốc chỉ còn chiếm 25% vào năm
ngoái so với 40% như các năm trước đó
- Năm nay , thò trường Mỹ dự báo sẽ chiếm 45% kim ngạch xuất
khẩu hạt điều, theo số liệu của Vinacas . Theo ông Khán . điều này
là nhờ các doanh nghiệp chế biến hạt điều đầu tư đổi mới thiết bò ,
công nghệ theo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp
với các quy đònh của thò trường Mỹ , cùng với nỗ lực xúc tiến xuất
khẩu vào Mỹ từ nhiều năm trước của Vinacas và các doanh nghiệp
hội viên . >( báo 18-11-2004 TBKTSG-17)
4. Bên cạnh đó thì ngân hàng trong nước cũng đã chuẩn bò hội nhập :
ng Lê Xuân Nghóa, Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển ngân hàng ,
Ngân hàng Nhà nước , cho biết để chuẩn bò cho hội nhập
ngành ngân hàng đã thực hiện hai chương trình tái cơ cấu quan trọng .
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
Chương trình thứ nhất là tái cấu trúc các ngân hàng thương mại cổ
phần , bắt đầu tiến hành từ năm 1998; Chương trình thứ hai là tái cơ cấu
ngân hàng thương mại quốc doanh , bắt đầu từ năm 2001.
Khi thò trường dòch vụ tài chính, các ngân hàng nước ngoài được mở
chi nhánh hoặc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài thì cuộc cạnh
tranh sẽ khốc liệt hơn “ Nhưng nói chung, họ phải hoạt động trên thò
trường Việt Nam ít nhất năm năm mới hiểu biết tường tận thò trường ,
bởi một đặc trưng cơ bản của hoạt động ngân hàng là dựa trên niềm tin ,
dựa trên cơ sở văn hoá” , ông Nghóa nói . Trong thời gian đó , môït số
ngân hàng lớn có thể bức lên được , còn các ngân hàng nhỏ sẽ hoạt
động trên những phân đoạn thò trường mà các ngân hàng lớn không
quan tâm .
ng Nghóa cho rằng thò trường tài chính Việt Nam nói chung và thò
trường ngân hàng nói riêng đầy rủi ro nên các ngân hàng có vốn nước
ngoài , kể cả khi họ được quyền quàn lí tài sản bằng tiền đồng như là
một ngân hàng Việt nam , thì việc cho các doanh nghiệp trong nứơc vay
cũng là một vấn đề rất lớn . Cho đến nay , rất ít các ngân hàng nước
ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam vay mà tập trung cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vay , vì rũi ro thấp hơn . Điều đó
chứng tỏ các ngân hàng nội đòa phải gánh gánh nặng của việc cung ứng
vốn cho phần còn lại của nền kinh tế . Và xu thế này còn là xu thế lâu
dài . Do đó , nói chung , cả trong lỉnh vực doanh nghiệp hay bán lẽ thì
tiềm năng phát triển của các ngân hàng Việt Nam còn rất lớn.
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
ng Nghóa cho rằng : ưu thế về thì trường tín dụng nội đòa vẫn thuột
về các ngân hàng Việt Nam . Về phần dòch vụ , - thường chiếm khoảng
40% thu nhập trước thuế của các ngân hàng thương mại ở các nước , ở
Việt Nam tỉ lệ này đang ở mức từ khoảng 18-20%. Nhưng với tốc độ
phát triển rất nhanh của lónh vực dòch vụ ngân hàng , ông Nghóa tin rằng
đến năm 2006 tỉ lệ này của các ngân hàng Việt Nam có thể là 30% . Vì
thế, ngay cả các ngân hàng nước ngoài vốn co ưu thế về dòch vụ , củng
không dể phát triển nhanh được lónh vực này trong điều kiện thò trường
tài chính của Việt Nam đang còn rất sơ khai và thò trường chưa đủ lớn
để các dòch vụ này có thể hoạt động hiệu quả .
Lời khuyên của các chuyên gia tài chính quốc tế đối với Việt Nam là
trong việc mở cửa thò trường tài chính cần phải quan tâm đến vấn đề
Việt Nam là một quốc gia với dân số đông và ngan hàng nội đòa cần
phải giữ vai trò chủ chôt. Chính phủ chắc cũng sẽ không quên điều đó .
( báo TBHKTSG : 6-1-2002 )
5. nền kinh tế thò trường phát triển theo đònh hướng xã hội chủ nghóa
với sự quản lí vó mô của nhà nước :
- Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thò trường ở nước ta , làm
cho nền kinh tế thò trường ở nứơc ta khác với nền sản xuất của hàng
hoá giản đơn trước đây, cũng như khác với nền kinh tế thò trường ở
các nước tư bản chủ nghóa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh
tế khái quát trong thơì kì quá độ lên chủ nghóa xã hội ở nước ta. Mô
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng , làm cho nó khác với kinh
tế thò trường ở các nước tư bản chủ nghóa .
- Đặc biệt là báo Tiếp thò Sài Gòn có bài “ minh bạch thò trường để
hút thêm nhiều nhà đầu tư cá nhân” .
- ng Trần Thanh Tân tổng giám đốc công ty quản lí quỷ đầu tư
chứng khoáng VFM : kết quả đấu giá lần này , 99,9% cổ phiếu được
mua bởi các nhà đầu tư là pháp nhân củng dể hiểu bởi họ là những
nhà đầu tư chuyên nghiệp , nắm rất rõ thông tin , có chiến lượt đầu tư
dài hạn chứ không nhằm kiếm lời ngắn hạn như các nhà đầu tư cá
nhân nên có thể đưa ra mức giá cao hơn .
- Tuy nhiên , để phát huy vai trò của thò trường chứng khoáng ( TTCK)
như là một kênh huy động vốn cho nền kinh tế thì TTCK ( thông qua
việc đấu giá các cổ phiếu ) nên thu hút được cả hai đối tượng gồm
các nhà đầu tư pháp nhân và cá nhân cùng tham gia . Để có thể thu
hút nhiều nhà đầu tư cá nhân tham gia vào cuộc chơi này, nhà nước
nên có những chính sách hữu hiệu , tăng cường công tác thông tin
công khai minh bạch các số liệu của công ty dự kiến bán cổ phần
thông qua hình thức đấu giá trên diện rộng để mọi thành phần đều
có thể tiếp cận được.
- TS. Hồ Công Hưởng giám đốc công ty chứng khoáng ngân hàng đầu
tư phát triển Việt Nam (BSC) cho biết: công chúng ( nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài) không phải không quan tâm đến TTCK . Mà
vấn đề là việc lựa chọn doanh nghiệp ra niêm yết các nhà đầu tư quỷ
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
đầu tư nước ngoài không quan tâm đến doanh nghiệp nhỏ , mà họ
thích mua các doanh nghiệp lớn sắp tới , nếu nhà nước mạnh dạng
cho đem ra bán những doanh nghiệp lớn thì cơ hội thu hút vốn đầu tư
sẽ lớn hơn , thò trường sẻ sôi động , hấp dẫn hơn . ( báo chuyên đề
tiếp thò Sài Gòn 4-3-2004)
5. Việt Nam “ áp lực mở cửa thò trường rất lớn” phó thủ tường Vũ
Khoan cho biết
- p lực mở rộng thò trường rất lớn !
- (TT-Hà Nội) – phát biểu chỉ đạo hội nghò thương mại toàn quốc diễn
ra hôm qua 28-2 tại Hà nội , phó thủ tướng Vũ Khoan cho rằng :
ngay cả kết quả xuất khẩu đạt 26,5 tỉ USD ) tăng 31,4%) trong năm
2004 cũng chưa phải là thành tích ấn tượng vì hiều quả giá trò đạt
được chưa cao , VN vẫn chưa phát triển được hệ thống các ngành
công nghiệp bổ trợ phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu . Thứ trưởng Bộ
Thương Mại Phan Thế Ruệ khi đề cập những mặc tồn tại trong xuất
khẩu cũng nhìn nhận giá trò nhập khẩu nguyên phụ liệu cho hai
nhóm sản phẩm dệt may , da dày vẫn chiếm 67% tổng kim ngạch
xuất khẩu .
- Sự lệ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu , theo phân tích của các
chuyên gia, là nguyên nhân khiến xuất khẩu của VN chưa thất sự
bền vững và chòu ảnh hưởng tiêu cực từ thế giới .
- Trong khi đó , những tồn tại , hàn chế của tổ chức , phát triển thò
trường trong nước cũng đã được Bộ thương mại nhìn nhận rõ; chưa
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
thiết lập được hệ thống phân phối ổn đònh và vững chắc, kết cấu hạ
tầng thương mại yếu kém , phân tán nhìn nhận về thách thức đối
với doanh nghiệp (DN) VN , phó tổng giám đốc hệ thông siêu thò
Co-op Mart Nguyễn Ngọc Hoà cho rằng các tập đoàn phân phối
nước ngoài sẵn sàng chòu lỗ một thời gian dài để xâm nhập thò
trường VN. “ Nếu DN trong nước không chuẩn bò đối phó thì nguy
cơ sát nhập , bán lại là điều khó tránh khỏi . Tuy nhiên , chúng tôi
nhận thấy đây là điều tất yếu và các DN nội đòa không còn cách
nào khác là phải đối đầu” – ông Hoà khẳng đònh . Chủ tòch HĐQT
Quảng Thái ( Lâm Đồng ) Tô Hùng Xô với kinh nghiệm về phát
triển hệ thống phân phối hàng tiêu dùng ở Lâm Đồng cũng đề
xuất : các doanh nhân phân phối lẽ của VN nếu tập trung vào một
hiệp hội các nhà phân phối để thảo luận , đề xuất các chính sách ,
thậm chí thành lập một công ty cổ phần của nhiều nhà phân phối
với quy mô kinh doanh lớn trên đòa bàn nhiều tỉnh , thành phố thì
cũng có thể cạnh tranh được .
- Về việc phát triển thò trường trong nước , Phó thủ tướng Vũ Khoan
cho rằng hệ thống thương mại thò trường đã đặt từ lâu rồi nhưng
việc đưa vào cuộc sống còn quá chậm , nhiều công ty đầu tư không
hiệu quả . “ Các đồng chí nên giải bài toán thương mại từ nhựng
chuyện rất nhỏ , đến tận nơi xem xét thực tế , yêu cầu của người
dân như thế nào chứ không phải cứ quy hoạch xây dựng các công
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
trình trong phòng họp để rội chợ to mà trong thì trống rỗng”- phó
thủ tướng nhắc nhở ngành thương mại .
- Những điều này , theo phó thủ tướng , rất quan trọng vì áp lực của
mở cửa thò trường khi hội nhập rất lớn . Bộ trưởng Bộ thương mại
Trương Đình Tuyển cũng đề cập đến nổi lo về thời điểm 2005 khi
VN phải mở của hệ thộng phân phối trong nước : “ Mở cửa thò
trường là điều tất yếu và hiện nay đàm phán gia nhập WTO về vấn
đề này còn rất căng thẳng . Mỹ và nhiều nước đang yêu cầu VN
phải lập tức cho các công ty nước ngoài bước vào thò trường VN .
DN VN nếu không chuẩn bò tốt sẽ rất khó khăn .
III.Những hạn chế:
• Mặc dù công cuộc chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam trong
hơn 15 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,song cũng còn
tồn tại không ít hạn chế.Xét trên tổng thể cho thấy nền kinh tế thò
trường ở nước ta mới hình thành và còn nhiều hạn chế cả trong cơ
cấu và cơ chế vận hành.
• Về cơ cấu thành phần kinh tế ,chúng ta chủ trương tiến hành 1 nền
kinh tế nhiều thành phần trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.Dồng thời tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác
phát huy đươc tiềm năng của mình. Thực hiện chủ trương đó, chúng
ta tiến hành nhiều biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước nên
sản lượng doanh nghiệp đã giảm xuống ,nhưng tỷ trọng lại tăng
lên. Năm 1990 nèn kinh tế nhà nước chiếm 31,8% trong GDP thì từ
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
năm 1994 đến nay tỷ lệ của nó lại tăng lên khoảng trên dưới
40%.Điều đáng chú ý là qua nhiều lần tổ chức sắp xếp lại nhưng
sản lượng doanh nghiệp nhà nước vẫn còn lớn đặc biệt là còn nhiều
doanh nghiệp nhà nước có qui mô nhỏ, thực hiệân cổ phần hoa
doanh nghiệpù nhà nước còn chậm nên chưa tạo động lực thúc đẩy
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu qua.Nhìn chung doanh nghiệp
nhà nước chưa tận dụng và phát huy hết nguồn lưcï nhà nước giao
cho doanh nghiệp quản lí sử dụng.Nguồn tài nguyên đất đai chưa
được quản lí chặt chẽ, khai thác chưa hết, hiệu quả sử dụng chưa
cao.Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước thấp so với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đặc biệt là các
ngành như: thương nghiệp bán lẻ, nhiều sản phẩm bò hàng ngoại
chèn ép cạnh tranh đến mức sản xuất đình trệ, thua lỗ như giấy,
sắt , thép…Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước không có khả năng
độc lập tham gia đấu thầu quốc tế mà thường phải liên doanh với
doanh nghiệp nước ngòai nên chòu nhiều thiệt thòi.Khu vực kinh tế
nhà nước còn nắm độc quyền trong nhiều ngành kinh tế nhưng hoạt
động kém hiệu quả.Các khu vực kinh tế khác chủ yếu có qui mô
nhỏ, thiếu vốn và kinh nghiệm.Hơn nữa trong thực tế còn bò phân
biệt đối xử khó tiếp cân những nguồn tài chính tín dụng trong các
dự án của nhà nước .Khu vực kinh tế dân doanh trong nước có xu
hướng sụt giảm tốc độ tăng trưởng từ năm 1996.
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
• Các thò trường ở nước ta còn kém phát triển và hoạt động chưa
đồng bộ.Sự cạnh tranh trên thò trường còn nhiều yếu tố bất bình
đăng .Vì vậy cơ chế thò trừơng khó có thể phát huy những tác dụng
tích cực trong việc phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
trong xã hội như đất đai, lao động, nguồn vốn. Thực tế thò trường
nhà đất đã tồn tại trước năm 1993, nhưng về mặt pháp lý đến nay
vẫn chưa được thừa nhận nên đã ảnh hưởng đến sự chuyển dòch cơ
cấu kinh tế cũng như mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp.Thò
trường chứng khoán còn mới phôi thai qua hơn 1 năm hoạt động vơiù
hàng hoá quá nghèo nàn, có lẻ còn lâu mới có thề trở thành phong
vũ biểu tượng cho nền kinh tế như ở các nước phát triển.Mặc dù đã
có nhiều cố gắng trong việc cho ra dời thò trường chứng khoán
nhưng các điều kiện đảm bảo cho thò trường này hoạt động chưa
đồng bộ và dầy đủ.Các đònh chế tài chính cần thiết cho phát triển
thò trường chứng khoán như công ty tài chính, công ty thuê mua, các
quỹ đầu tư chưa hình thành hoăïc chưa phát triển.Thò trường lao
động, thò trường công nghệ và nhiều thò trường khác chưa phát
triển.Vì vậysự phân phối và sử dụng nguồn lực như đất đai lao
động , nguồn vốn còn kém hiệu quả.
• Chuyển sang cơ chế mới công tác điều hành vó mô gặp nhiều lúng
túng cả về nội dung phương pháp và công cụ điều hành.Xác đònh
các cân đối lớn, đònh hướng cơ cấu nền kinh tế bằng phương pháp
dự báo là việc làm chưa quen thiếu sự chuẩn bò tài liệu cơ bản .Sử
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
dụng các công cụ thuế, lãi suất, dự trữ quốc gia chưa có kinh
nghiệm.Vai trò của nhà nước còn nhiều hạn chế, bộ máy nhà nước
cồng kềnh, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vó mô chưa
theo kòp với sự phát triển của kinh tế thò trường. Hệ thống pháp luật
và các công cụ quản lí nền kinh tế thò trương chưa đồng bộ, còn tình
trạng lợi dụng chức quyền, tham nhũng, thậm chí cản trở công cuộc
đổi mới của một số cán bộ, chủ trương chính sách của đảng và nhà
nước đề ra chậm đi vào cuộc sống.
• Đổi mới chính sách và cơ chế tài chính còn chậm so với yêu cầu
đặt ra.Việc chấm dứt bao cấp và phát vốn mà không ràng buộc
trách nhiệm vật chất với hiệu quả sử dụng vốn, sửa đổi 1 số chế độ
phúc lợi vượt quá khả năng của nền kinh tế đến nay chưa được cụ
thể hoá, thậm chí chưa còn nhất quán.Vì vậy tình trạng bao cấp
trong chi ngân sách nhà nước vẫn chưa được xoá bỏ triệt để.Cơ chế
chính sách kinh tế nhìn chung chưa đồng bộ và không ổn đònh.Điều
này không những gây trở ngại cho hoạt động kinh tế nói chung mà
còn gây tác động trực tiếp rất mạnh tới hoạt động tài chính ngân
sách.Trong điều hành chưa triệt để tuân thủ pháp luật , cơ chế
chính sách đã được ban hành còn có những trường hợp ngoại lệ.Sự
can thiệp của nhà nước hoặc là quá trực tiếp hoặc là quá thường
xuyên bằng công cụ tài chính ngân sách đã không cho phép phát
huy tính năng động trong nền kinh tế, khai thác và tận dụng khả
năng tự điều tiềt của cơ chế thò trường.Chính sách tài chính trong
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
việc huy động vốn cho đầu tư phát triển còn có mặt hạn chế ảnh
hưởng đến quá trình khuyến khích đầu tư Xã hội, thúc đẩy khai
thác tiềm năng tài nguyên thiên nhiên và tiềm năng về vốn, sức lao
động của các tầng lớp dân cư.Điều này có thể thấy qua việc giảm
sút đầu tư xã hội ở các khu vực kinh tế khác trong thời gian qua.
IV. Những giải pháp để phát triển kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở Việt Nam :
- Muốn phát triển nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa
, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp . Dưới đây là những giải
pháp chủ yếu nhất :
a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ là một trong những điều kiện cơ sở để thúc
đẩy kinh tế hàng hoá phát triển , nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả
sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế .
Cùng với việc đổi mới , củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế hợp
tác , việc thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế cá
thể , tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ
nghóa xã hội trong thời kỳ quá độ. Theo hướng đó mà khu vực
kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể , kinh tế cá thể và các hình
thức kinh tế hỗn hợp khác đều được khuyến khích phát triển
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
theo đònh hướng tiến lên chủ nghóa xã hội. Tất cả các thành
phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vò trí , quy mô ,
tỷ trọng, trình dộ có khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của
nền kinh tế phát triển theo đònh hướng xã hội chủ nghóa .
b) Mở rộng phân công lao động , phát triển kinh tế vùng lãnh thổ ,
tạo lập đồng bộ các yếu tố thò trường :
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm . Để
đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoám cần phải mở rộng phân
công lao động xã hội , phân bố lại lao động và dân cư trong
phạm vi cả nước cũng như từng đòa phương , từng vùng theo
hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi nguồn
lực , phát triển nhiều ngành nghề , sử dụng có hiệu quả cơ sở
vật chất – kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động .
Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước , phải
tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhàm gắn phân
công lao động trong nước với thò trường thế giới. Nhờ đó mà thò
trường trong nước từng bước được mở rộng , tiềm năng về lao
động , tài nguyên , cơ sở vật chất hiện có được khai thác có hiệu
quả . Thò trường được khai thông trên khắp mọi miền của đất
rước , gắn liền với thò trường thế giới.
Cần phải tiếp tục phát triển mạnh thò trường hàng hoá và dòch
vụ , hình thành thò trường sức lao động có tổ chức quản lý chặt
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
chẻ đất đai và thò trường nhà cửa , xây dụng thò trường vốn, từng
bước hình thành thò trường chứng khoán.
Để khai thác có hiệu quả tiềm năng vè vốn, sức lao động , công
nghệ, tài nguyên , thực hiện mở rộng phân công lao động xã hội
, cần phải từng bước hình thành đồng bộ các loại thò trường tiền
tệ, vốn , sức lao động, chất xám, thông tin , tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng…. Điều này sẽ đảm bảo cho việc phân bố và sử
dụng các yếu tố đầu vào , đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp
với nhu cầu của sự phát triển kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa .
c) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu , ứng dụng khoa học và công
nghệ , đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá
Trong kinh tế thò trường , các doanh nghiệ chỉ có thể đứng vững
trong cạnh trnh nếu thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi
phí, nâng cao chất lượng sản phẩm . Muốn vậy , phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ vào quá trình sãn xuất và lưu
thông hàng hoá . So với thế giới , trình độ công nghệ sản xuất
của ta còn thấp kém, không đồng bộ , do đó , khả năng cạnh
tranh của hàng hoá nước ta so với hàng hoá nước ngoài trên cả
thò trường nội đòa và thề giới còn kém . Bởi vậy, để phát triển
kinh tế hàng hoá , chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá ,
hiện đại hoá .
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dòch vụ hiện đại động bộ
cũng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu, không đồng bộ , mất cân
đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các
nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngoài , cản trở phát triển
kinh tế hàng hoá ở mọi miền đất nước . Vì thế , cần gấp rút xây
dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu đó. Trứơc mắt,
nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng , năng cấp một số yếu
tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống , bến cảng , sân bay ,
điện nước , hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng , dòch vụ bảo
hiểm ….
d) Giữ vững ổn đònh chính trò , hoàn thiện hệ thống luật pháp ,
đổi mới các chính sách tài chính, tiển tệ , giá cả
Sự ổn đònh chính trò bao giờ củng là nhân tố quan trọng để phát
triển . Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong
nước và ngoài nước yên tâm đầu tư . Giử vững ổn đònh chính trò
ở nước ta hiện nay là giữ vửng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam , tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lí của nhà
nước máy nghiền phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản
lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang
pháp lý cho tất cả mọi hoạt động của sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với hệ thống pháp luật
Nền kinh tế thò trường ở Việt
Nam
đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp chỉ có thể
làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ , giá cả nhằm mục tiêu thúc
đẩy sản xuất phát triển ; huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực , bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia ,
giảm bội chi ngân sách , góp phẩn khống chế và kiểm soát lạm
phát; xủ lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng .
e) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vó mô ,
đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh
giỏi
Hệ thống điểu tiết kinh tế vó mô phải được kiện toàn phù hợp
với nhu cầu kinh tế thò trường , bao gồm điều tiết bằng chiến
lược và kế hoạch kinh tế , pháp luật , chính sách và các đòn bẩy
kinh tế , hành chính , giáo dục , khuyến khích, hổ trợ và cả bằng
răn đe, trừng phạt , ngan ngừa , điều tiết thông qua bộ máy nhà
nước , các đoàn thể ……
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý , kinh
doanh tương ứng. Chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo đònh hướng xã hội chủ nghóa đòi hỏi
chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội
ngủ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh doanh cho phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kì mới . Đội ngủ đó phải
có năng lực chuyên môn giỏi , thích ứng mau lẹ với cơ chế thò