Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

cấu trúc thơ 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.25 KB, 3 trang )

Thụy Khuê
Cấu Trúc Thơ
XII. Sáng Tạo
Trong khoảng thời gian từ 45 đến 54, những xu hướng muốn làm mới văn
học nghệ thuật đều bị cản trở, Nguyễn Xuân Sanh trở về với thơ mới, Tô Ngọc
Vân vẽ tranh tuyên truyền, Nguyễn Ðình Thi cũng làm thơ khuôn khổ, Văn Cao
im lặng,
Sự đòi hỏi tự do sáng tác và đổi mới tư duy văn học trổi dậy sau ngày chia
đôi đất nước. Miền Bắc xuất hiện phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, với ý thức
cải tạo toàn diện đời sống con người, dân chủ hóa đất nước và tự do sáng tác.
Riêng trong địa hạt thi ca, những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần và nhất là
Lê Ðạt còn muốn đoạn tuyệt với thơ mới để bước vào thơ hiện đại.
Nhưng họ thất bại và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dẹp tan. Mãi đến
những năm 90, Ðặng Ðình Hưng và Lê Ðạt mới lại được phép xuất hiện trên
văn đàn. Ðặng Ðình Hưng với Bến Lạ và Ô Mai, Lê Ðạt với Bóng Chữ. Thi
pháp của họ đánh dấu ngõ quặt trong thơ hiện đại.
Ở miền Nam, tháng 10 - 1956, tạp chí Sáng Tạo ra đời tại Sàigòn như một
sự "nổi loạn", một "chất nổ phá đổ cái cũ, tạo dựng cái mới". Trên Sáng Tạo
xuất hiện những tên tuổi: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn
Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại, Tô
Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Ðức
Sơn
Họ tạo dựng cái mới như thế nào? Mai Thảo bảo: "Văn học nghệ thuật mặc
nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu,
những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực Những trào lưu cạn dòng
phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế. [ ] Cái vấn đề
lớn nhất của chúng ta bây giờ, trước sau vẫn là phải làm sao đoạn tuyệt được
hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá khứ [ ]. Công tác chặt
đứt với những trói buộc cũ phải được đặt lên hàng đầu và thơ bây giờ là thơ
tự do"(1). Ở bình diện khác, Thanh Tâm Tuyền định nghĩa nổi loạn: "Nổi loạn
là một hành động đòi được gia nhập đời sống: Kẻ nô lệ đòi quyền sống như


những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo."
Trên thực tế, có thể nói Sáng Tạo đã làm được "ngọn triều lớn" trong thời
điểm 50 - 60, tương tự như Tự Lực Văn Ðoàn những năm 39 - 45: Thổi nguồn
gió mới vào thời đại của họ, thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật.
Về nội dung của thay đổi, khi viết "Ðặt Nguyễn Xuân Sanh lên đỉnh cao của
đường cong", Trần Thanh Hiệp muốn tiếp tục công việc mà Xuân Thu Nhã Tập
đã thử nghiệm những năm 40 trong sáng tác: đưa tự do vào thơ, vào nghệ thuật.
Sáng Tạo đã thành công trong việc hiện đại hóa văn học, đem hai dòng mạch
lớn của thế kỷ XX vào văn học Việt: Dòng hiện sinh và dòng siêu thực, với
những tính chất nền tảng: Hoài nghi và Mộng tưởng.
Về văn xuôi và tiểu luận, xuất hiện những tiêu đề chính trong văn học hiện đại,
chủ yếu biện chứng của Sartre:
1. Ðặt lại vấn đề tác phẩm (oeuvre). Có thể có tác phẩm văn học hay không?
Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ
nghĩa có giá trị gì? Ðặt lại vấn đề viết (écriture). Viết như thế nào? Lối viết kể
chuyện, có cốt truyện, và cả lối viết hiện thực, tả chân kiểu Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng đã lỗi thời vì không đạt tới tận cùng tính cách chính xác và
xác thực. Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ về cách viết, cách đặt lại
vấn đề viết.
2. Tác phẩm mở: tác phẩm không còn mục đích hướng dẫn người đọc tới một
chủ đích như luân lý, đạo đức, triết học, văn chương, xã hội, v.v nữa. Tác
phẩm không cần kết luận, mà tác phẩm trình bầy một biện chứng, một thẩm mỹ
của sự dang dở, mở cửa cho những suy nghĩ khác và sẵn sàng chờ đón những
nối tiếp về sau (Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tháng Giêng Cỏ Non, Bản
Chúc Thư Trên Ngọn Ðỉnh Trời của Mai Thảo ).
3. Tính chất biến dạng của tác phẩm: tác giả không còn là chứng nhân biện
hộ (témoin de la défense) kiểu Gide, mà trở thành chứng nhân không thể loại trừ
(témoin inéliminable), kiểu Sartre, chứng nhân nằm trong diễn biến, chao đảo
với hoàn cảnh, chịu sự chia phối của các áp lực nội tâm cũng như ngoại cảnh
(Tâm trong Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền).

4. Ðưa vai trò của nhận thức (perception) vào tác phẩm. Tác phẩm không
còn nhiệm vụ khơi gợi cảm xúc và làm mủi lòng theo nghĩa lãng mạn, mà tác
phẩm gây nỗi đau, gây khó chịu bằng nhận thức (thơ Thanh Tâm Tuyền).
5. Xuất hiện hình thức mỉa mai, châm biếm hiện đại (ironie moderne) kiểu
Sartre, Beckett, thay thế lối châm biếm lãng mạn (ironie romantique), kiểu
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Dạng thức này cay độc hơn vì người viết
không ở ngoài để ghi nhận hiện thực mà ở ngay trong cuộc, diễu mình, cười
mình. Lối tự trào này rải rác trong các tác phẩm của những người cùng thời với
Sáng Tạo như Túy Hồng, Nhã Ca, Trần Thị Ngh, gọi nôm na là sự "chọc
quê" chính mình.
6. Tính cách dấn thân của người nghệ sĩ trong sáng tạo và trong cuộc sống,
thể hiện trên hai mặt:
- Chính trị: Chiến sĩ tự do, chống Cộng, truyền thống anh hùng (kiểu Malraux)
như Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền,
- Văn nghệ: Cực lực đổi mới, bài trừ cái cũ: Chống Tự Lực Văn Ðoàn, đả kích
Vũ Hoàng Chương Thái độ "chặt đứt" với quá khứ, tính cách "nổi loạn" và
những tuyên ngôn thái quá làm gai mắt những người cựu trào như Nguyễn Hiến
Lê (Ðời Viết Văn Của Tôi), Võ Phiến (Văn Học Miền Nam).
7. Hoài nghi: trên tất cả là hư vô, không có gì hết (Mai Thảo: Bản Chúc Thư
Trên Ngọn Ðỉnh Trời, Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền).
8. Dòng mạch siêu thực hòa hợp mộng vào đời, mở những ngưỡng cửa mới
cho sáng tác: đập vỡ bức màn kiểm duyệt của lý trí, của ý thức xã hội, tìm đến
bề sâu của tâm hồn ẩn dấu trong phần tiềm thức và vô thức, nâng cao vai trò của
tưởng tượng, tìm ra những phương pháp tạo hình mới cho thơ và họa, mở thêm
một cánh cửa nữa về phía Tự do. Sáng Tạo đã nắm bắt được luồng sinh khí ấy
và đem vào văn học Việt.Tháng 9/95
Chú thích
(1) Tuyển Tập Sáng Tạo, Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×