Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tổng hợp các văn hóa - lễ hội Việt Nam part 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.54 KB, 10 trang )

1

Tổng hợp các văn hóa lễ hội Việt Nam
Độc đáo huyền thoại và văn hóa cà phê Tây Nguyên

Nằm trong khuôn khổ các hoạt động chào mừng
Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ III/2011,
trong ngày 11/3/2011, tại khuôn viên Bảo tàng
tỉnh Đắk Lắk đã đồng loạt diễn ra lễ khai mạc
trưng bày những hiện vật Bảo tàng Cà phê và
triển lãm ảnh nghệ thuật về cà phê, du lịch Đắk
Lắk, lịch sử Đồn điền cà phê CADA (Compagne
Argicole D’asie-Công ty Nông nghiệp Á châu) và âm nhạc cồng chiêng Tây
Nguyên.
Thu hút rất đông người xem là khu vực trưng bày Bảo tàng Cà phê do Tập đoàn
Cà phê Trung Nguyên thực hiện. Nhiều hiện vật phong phú liên quan đến chế
biến, rang xay cà phê bằng phương thức thủ công truyền thống lâu đời đã
đi vào
huyền thoại cà phê thế giới như: Máy pha chế cà phê, máy rang cà phê, ca múc
cà phê bằng đồng, máy xay cà phê treo tường bằng sứ, bình sứ chứa cà phê
của các nước Costa Rica, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Ethiopia, Italia
Tại khu vực triển lãm tổng hợp với 4 nhóm chuyên đề chính bao gồm: Lịch sử đồn điền
cà phê CADA; âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên; ảnh thời sự-nghệ thuật về cà phê, văn
hóa lễ hội và du lịch Đắk Lắk; ngoạn thạch vi ảnh đã tạo thành một không gian văn hóa-
nghệ thuật đậm nét huyền sử cà phê Tây Nguyên.
Ban tổ chức cho biết: Chỉ riêng chuyên đề về “Lịch sử đồn điền cà phê CADA”
đã có 100 hình ảnh và 137 hiện vật được chia theo 3 chủ đề chính: “Dấu ấn một
thời”, “Chặng đường phát triển”, “Uống nước nhớ nguồn”. Những hình ảnh, hiện
2

vật được trưng bày chủ yếu là công cụ sản xuất, sinh hoạt của công nhân đồn


điền từ thời Pháp thuộc và giai đoạn sau năm 1975. Đồn điền CADA là m
ột trong
những đồn điền ra đời sớm bởi quá trình khai thác thuộc địa lần thứ II của Pháp
ở Đông Dương nói chung và Đắk Lắk nói riêng (năm 1922) v
ới diện tích ban đầu
2.000 ha.
Một nét không thể thiếu của văn hóa-nghệ thuật Tây Nguyên là âm nhạc cồng
chiêng. Chuyên đề này thu hút sự quan tâm của nhiều người bởi 188 bức ảnh v
à
hiện vật được trưng bày, trong đó có 87 hình ảnh về cồng chiêng Tây Nguyên
những năm 40, 50, 60 của thế kỷ XX do người Pháp chụp và hiện được lưu giữ
tại Pháp; số còn lại thuộc Viện Văn hóa-Nghệ thuật Việt Nam.
Lễ hội Làng Vạc – Nghệ An
Cứ mỗi độ Xuân về, Thị X
ã Thái
Hòa lại tổ chức lễ hội Làng Vạc
để nhân dân trong vùng và du
khách muôn phương về dâng
hương tưởng nhớ công đức
của các bậc tiền nhân khai dân
l
ập ấp từ thuở hồng hoang, khai
sinh ra vùng đất Phủ Quì.

Năm nay, Lễ hội Làng Vạc được tổ chức trong 3 ngày (11 đến 13/3). Hàng ngàn
người các dân tộc trên địa bàn và các vùng lân cận đã về tham gia lễ hội. Trong
phần lễ, có lễ rước Vạc đồng. Hội rước đông vui, trống dong cờ mở, đồng bào
các dân tộc mặc những trang phục truyền thống dân tộc mình bằng vải thổ cẩm
hoa văn rực rỡ. Những cô gái Thổ, Thái, Thanh xúng xính trong những trang
phục rực rỡ sắc màu, những cô gái Kinh thướt tha tà áo dài tham gia Hội rước

Vạc đồng, đây là nét độc đáo của lễ hội làng Vạc. Sau lễ rước là lễ tế tại đền
3

được tổ chức tôn nghiêm, thành kính theo lễ nghi truyền thống được các cụ cao
niên trong làng thực hiện, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân
dân được ấm no, hạnh phúc và ngày càng phát triển.
Phần hội náo động, tấp nập. Sau ba hồi trống khai hội của Chủ tịch UBND thị x
ã
Thái Hoà Lê Phúc Ân, các trò chơi dân gian như đẩy gậy, kéo co, chọi gà, đ
ấu
võ, cờ thẻ, cờ bàn, hội vật,… được mở ra rộn ràng v
ới đông đảo mọi tầng lớp
nhân dân tham gia. Các cuộc thi đặc sắc như: thi hội cồng chiêng, thi ngư
ời đẹp
làng Vạc, thi kéo co, đẩy gậy nam, nữ, đấu võ, thi v
ật, bóng chuyền nam, nữ,
cắm trại… Sau đó mọi người cùng vui vẻ bên choé rượu cần.
Lễ hội Làng Vạc còn có hội diễn văn nghệ quần chúng với các tiết mục tự bi
ên
tự diễn độc đáo của các bản làng, phường xã như: múa cồng chiêng, kh
ắc
luống, các tiết mục múa hát truyền thống, hiện đại ca ngợi quê hương đất nư
ớc,
thể hiện rõ bản sắc văn hóa đặc trưng vùng Ph
ủ Quỳ, một đô thị trẻ năng động
trên miền tây đang chuyển mình vươn lên.
Hơn 10 năm phục dựng và tổ chức, lễ hội Làng Vạc càng phong phú đa d
ạng,
thu hút ngày càng nhiều du khách, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa,
tâm linh

của nhân dân trong vùng và trở thành đi
ểm hội tụ của các cộng đồng dân tộc.
Đặc biệt năm nay khu đền đã được xây dựng khang trang, có th
êm khu trưng
bày hiện vật cổ làng Vạc, đã có nhiều người dân trong vùng đã t
ự nguyện đem
hiện vật sưu tầm được đến trưng bày tại đền.





4


Đắk Lắk: Tưng bừng hội đua voi và đua thuyền độc mộc

Ngày 10/3, tại Khu du lịch hồ Lắk (thị trấn Liên
Sơn, huyện Lắk, Đắk Lắk) đã tưng bừng diễn ra
Hội đua voi và đua thuyền độc mộc. Hàng chục
nghìn du khách và người dân bản địa đã đến xem
và cổ vũ cho các đội đua. Đây là một trong những
hoạt động chào m
ừng 36 năm giải phóng Buôn Ma
Thuột và Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 3
năm 2011.
20 con voi khoẻ mạng nhất của 5 buôn: M’liêng, Chua, Lê, Jun, Tham đã tham dự lễ hội
đua voi. Sau hồi tù và hiệu lệnh, những con voi đua được điều khiển bởi những người đã
có nhiều năm kinh nghiệm trong việc thuần dưỡng voi gầm rú phóng như bay về phía
trước trong tiếng chiêng, trống và tiếng hò reo cổ vũ của hàng chục khán giả đứng chật

kín hai bên đường đua. Cuộc đua kết thúc, đoàn voi đua dàn thành hàng dọc đi một vòng
xung quanh đường đua và quỳ gối, giơ cao vòi vẫy chào khán giả. Kết quả, voi H’Tao
(35 tuổi) của ông Y Náp Triết ở buôn Chua giành giải nhất, voi Khăm Sel của chủ voi Y
Gah Hmôk ở buôn Lê dành giải nhì, giải ba thuộc về voi Bak Lăn của ông Ma Dân ở
buôn Jun.
Tiếp theo hội đua voi là phần đua thuyền độc mộc. 20 chiếc thuyền độc mộc của 60 tay
chèo tốt nhất được tuyển chọn ở 4 buôn làng quanh hồ Lắk tham gia thi đấu. Kết quả,
thuyền số 3 của buôn Trum giành giải nhất,và thuyền số 19 của buôn Tung giành giải nhì.



5


Tập quán cư trú của người Dao ở Thái Nguyên
Tập quán cư trú của người Dao thường được duy trì khá bền bỉ trên cơ sở các mỗi quan
hệ cộng đồng và tập quán mưu sinh cổ truyền. Hiện nay, người Dao ở Thái Nguyên đa số
vẫn cư trú ở vùng xa, đi lại khó khăn. Một số ít cư trú ở ven đường giao thông liên huy
ện,
liên xã. Họ thường lập bản ở gần rừng hoặc tại các chân đồi, núi.

Thông thường, mỗi bản của người Dao gồm từ 15-30 nóc nhà. Việc phân bố dân c
ư trong
từng bản phụ thuộc vào địa hình, phạm vi đất đai. Chẳng hạn, người Dao ở xóm Cộng
Hòa (xã Động Đạt, Phú Lương) tụ cư rất tập trung, trong khi đó, người Dao ở xóm Sự
Thật (xã Quy Kỳ, Định Hóa) hoặc xóm Tân Đào (xã Tràng Xá, Võ Nhai) lại cư trú khá
phân tán. Hiện nay, cơ sở của việc cư trú phân tán không phải do kinh tế nương rẫy m
à là
được chính quyền địa phương cấp sổ đỏ. Cư trú phân tán t
ạo thuận lợi cho việc chăm sóc,

cải tạo ruộng nương, phát triển chăn nuôi. Tuy nhiên, nó cũng gây khó khăn đối với việc
cung cấp các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế)…
Tập quán chọn nơi dựng nhà ở
Theo quan niệm cổ truyền của người Dao, ngôi nhà lý tưởng phải được xây dựng ở nơi
cao ráo, cho phép quan sát được khoảng không gian rộng, thuận lợi cho việc làm ruộng
6

nương, có nơi để buộc trâu bò, không thiếu nước ăn trong mùa khô. Họ thích dựng nhà ở
gần rừng, bởi rừng là nguồn tài nguyên quyết định mức sống cũng như thời gian cư trú
của các gia đình trong bản. Rừng cung cấp đất canh tác, cung c
ấp rau, củ quả, muông thú,
vật liệu để làm nhà… Châm ngôn Dao có câu “Chảm mài kềm lải mài miền” (ở đâu có
rừng ở đó có người Dao). Câu nói này không chỉ phán ánh tập quán bám lấy rừng núi để
cư trú, mà còn nói lên tầm quan trọng của rừng đối với đời sống kinh tế của các bản
người Dao.
Trong xã hội cổ truyền, đủ rừng thì người Dao có cuộc sống kinh tế tự cấp tự túc khá ổn
định, rừng thu hẹp buộc họ phải đi tìm nơi sinh sống mới. Tập quán du canh du cư chạy
theo rừng núi là truyền thống ứng xử với tự nhiên của họ. Trong Quá sơn bảng văn (Bình
Hoàng khoán điệp) hiện được lưu giữ ở một số gia đình người Dao các xã Vũ Chấn (Võ
Nhai), Quân Chu (Đ
ại Từ) có đoạn viết:
… Bình Hoàng khoán điệp được phát xuống 13 tỉnh và các nơi, ghi tên sông núi cho con
cháu Bàn Vương được khai phá… Tất cả núi và ruộng thuộc những núi kể trên đều giao
cho con cháu Dao Vương cai quản, kinh doanh sinh sống. Con cháu Dao Vương sinh
sống nhờ núi rừng được miễn các thứ thuế và tạp dịch…
… Triều đình cho phép con cháu Bàn Vương khai phá núi Cối Kê bằng cách đao canh
hỏa chủng, trồng lúa nếp và các thứ ngũ cốc nuôi thân, về sau này người đông đất bạc
màu hết đất làm ăn một nhà chia làm nhiều nhà, lệnh nhà vua cho phép di chuyển nơi
khác chọn núi rừng làm ăn…
Trong bản thứ 2 của Bình Hoàng khoán điệp mà người Dao thường gọi là Qua hải đồ

cũng có đoạn viết: Báo cho các quận, các ty được biết, Sơn Tử là con cháu Bàn Vương
quá quan không cầu dấu, qua đò không cần tiền, nếu có ai không tuân theo, ngăn cản cho
phép xử phạt. Tất cả trong núi và ngoài núi có các thứ của rừng, tre, mây, song, đầm, ao
đều là đất trồng trọt của tổ tiên Sơn Tử (Dao) nay cho phép sử dụng, các quan, thứ dân
không được xâm phạm.
Ở một số sử sách khác của người Dao, như cuốn Tôm chiáo sâu, văn khấn cùng Bàn
7

Vương và lễ cấp sắc cũng thấy đề cập đến việc người Dao sống du canh, du cư, dựa vào
rừng và núi để sinh tồn. Hiện nay, do rừng cạn kiệt, đất bị xói mòn và cu
ộc vận động thực
hiện định canh, định cư… đã làm thay đổi tập quán cư trú, bộ mặt đời sống kinh tế, xã
hội của người Dao ở Thái Nguyên.
Tết Chơ Ruh Kơr của đồng bào Ba Na ở Phú Yên
Mùa đông giá rét qua đi, mùa xuân ấm áp trở về, cây rừng đơm chồi nẩy lộc,
đồng bào Ba Na ở Phú Yên chọn đêm trăng sáng tổ chức ăn tết Chơ Ruh Kơr.

Bà con dân tộc Ba Na tổ chức ăn tết Chơ Ruh Kơr r
ất chu đáo. Ngay từ tháng 11
âm lịch, họ đã chuẩn bị chóe ủ rượu cần cho từng gia đình và cho cả làng. Rư
ợu
cần của họ được làm b
ằng các loại cây ở núi rừng, gồm men say, men cay
(nồng), men ngọt Rượu cần được chứa trong nh
ững chóe bằng đất nung có
màu nâu sẫm và phải từ một tháng trở lên thì rượu mới có hương thơm v
ị ngọt.
Tiếp đó là chuẩn bị heo, gà hoặc trâu, bò, trái b
ầu, rau, gạo tẻ, gạo nếp gói bánh
đòn như bánh tét của người Kinh, được bó từng đôi. Các già làng gặp nhau b

àn
bạc, ấn định ngày tết cho mỗi buôn làng để không tổ chức tr
ùng nhau, giúp bà
con, họ hàng có thể thăm viếng, chúc tụng nhau, làm cho ngày tết th
êm tưng
bừng vui vẻ.
8

Ngay từ hôm trước ngày hội tết chính thức, khách xa gần lần lư
ợt đến tham dự,
già làng và những người chủ gia đình lo đón tiếp. Khách và ch
ủ gặp nhau tay bắt
mặt mừng, mời nhau hút thuốc uống rượu, hỏi thăm câu chuyện làm ăn và s
ức
khỏe từng người thật rôm rả. Thanh niên, phụ nữ, trẻ em trong làng lần lư
ợt tập
trung về nhà rông (nhà văn hóa cộng đồng) vui chơi nhộn nhịp.
Các già làng đã có mặt tại nhà rông trước đó, bàn chuy
ện lễ cúng thần linh.
Chiều đến, chủ và khách ăn cơm tại nhà rông như một đại gia đình. Các món
ăn
ngon và mới được đem ra đãi khách, gọi là bữa cơm mới. Qua ngày l
ễ tết chính
thức hôm sau, những con heo hoặc trâu bò được mổ thịt và chia ph
ần cho mỗi
nóc nhà trong làng. Những gia đình có bà con họ hàng ở xa đến dự cũng đư
ợc
chia một xâu thịt. Tối đến, khi tiếng trống pơ rưng (trống lớn) vang lên l
ần thứ
nhất, mọi ngư

ời mặc những bộ quần áo mới, may theo trang phục truyền thống
có màu sắc rực rỡ, lần lượt kéo về nhà rông. Họ mang những chóe rư
ợu cần đặt
ngoài sân. Khi tiếng pơ rưng vang lên lần thứ hai, chủ và khách có m
ặt đầy đủ
bên cây nêu sắp dựng. Những thanh niên bóc lớp lá chuối đậy chóe rượu v
à cho
nước suối vào để rượu sủi tăm. Cắm chung quanh miệng chóe là nh
ững cần
rượu làm bằng cây trúc hoặc lồ ô rừng dài hơn 1m. Những con vật dâng cúng l
à
gà trống (mồng càng to càng quý). Đống lửa đã nhóm sẵn, cho thêm củi đ
ể bừng
cháy to hơn. Chủ lễ là già làng lấy lá dông, làm 3 phễu cột vào cây nêu theo th

tự muối, gạo và cái trên cùng để không. Người chủ lễ nhổ cánh gà l
ấy lông cắm
vào đầu cây nêu, dùng dao cắt tiết gà lấy máu phết lên t
ừng lông một. Một tí
huyết được cho vào phễu lá trên cùng. Con gà được thui chín đư
ợc lấy tí gan,
mề, da, thịt bỏ chung với phễu huyết. Con gà thui được đặt trên tấm lá bốc h
ơi
nghi ngút. Lúc này, cây nêu được dựng lên, người chủ lễ tay phải cầm cần rư
ợu,
tay trái áp sát chóe rượu đọc bài cúng: “Hỡi Gi
àng sông, Giàng núi, xin Giàng
cứu giúp cây không thối nghẹn hỏng nát, lỗ không cũng ra, lỗ tự nhiên c
ũng mọc,
xin cu đất không moi, kiến không tha đi, muốn bụi lúa ban ngày b

ằng bụi sả, ban
đêm bằng cây đa, đừng để con sâu ăn vàng, trắng khô ng
ọn nứt nẻ. Muốn có
9

toàn hạt chắc mẩy, để nửa nhà, đầy nhà, còn để trút vào chái nhà ”.
Lễ cúng xong, chủ và khách cùng đến bên các chóe rượu cần, già làng vít c
ần
uống trước, tiếp đến là khách mời rồi lần lượt các th
ành viên trong làng. Bánh
nếp được bóc ra, thịt được cắt thành miếng để đầy ktơ (trẹt) làm b
ằng cây giang
rừng. Cả làng cùng nhau ăn tết. Họ mời nhau ăn thịt, bánh và uống rư
ợu cần,
hết chóe này đến chóe khác. Khi hết rượu trong chóe thì đổ thêm nước v
ào và
uống cho đến lúc rượu nhạt mới thôi. Tiếng cồng, chi
êng vang lên, gái, trai trong
làng cùng nhau múa hát, chuyện trò suốt đêm quây quần bên nhau th
ật vui
nhộn.
Tết Chơ Ruh Kơr của đồng bào dân tộc Ba Na không chỉ tổ chức ở nh
à rông mà
còn tổ chức trong từng gia đình. Khi từ nhà rông trở về, mỗi gia đình m
ời khách
về nhà mình, gọi là ngày đơp (thăm hỏi). Khách đi trước, đàn cồng, chi
êng đi
sau gõ nhịp vang lừng. Những chóe rượu thơm ngon nhất đư
ợc đem ra mời
khách uống suốt ngày đêm. Trai gái xoắn xuýt bên nhau, uống rượu, hát hò nh

ảy
múa. Đoàn khách đi hết nhà này đến nhà khác thăm hỏi, chúc tụng vui vẻ.
Ngày nay, đồng bào dân tộc Ba Na ở Phú Yên vẫn tổ chức ăn tết Ch
ơ Ruh Kơr
truyền thống của mình nhưng có phần đơn giản hơn. H
ọ bỏ những hủ tục lạc
hậu rườm rà tốn kém. Đoàn khách tham gia ngày đơp gồm già làng, lãnh đ
ạo
chính quyền và đại diện các ban ngành đoàn th
ể đến thăm hỏi chúc tết các gia
đình chính sách và toàn thể bà con trong mỗi buôn làng.





10


Vài nét về Nhã nhạc Cung đình Huế
Nhã nh
ạc là một thuật ngữ liên quan đến âm nhạc cung đình có mặt tại 4 nước đồng văn:
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nhã nhạc là nhạc chính thống của triều
đình được dùng ở các cuộc lễ tế Giao, tế Miếu và trong các dịp triều hội; là sản phẩm kết
hợp giữa Lễ và Nhạc.

Như v
ậy, có thể nói khi có triều đình phong kiến thì có Nhã nhạc. Tuy nhiên Nhã nhạc
Việt Nam hình thành rõ nét và được sử sách ghi lại từ triều đại Lý - Trần, và theo đó các
triều đại phong kiến tiếp theo giữ gìn, phát triển, bổ sung , sáng tạo ng

ày càng phong phú,
tinh tế. Chúng ta hãy nghe vua Minh Mạng bàn với quần thần về Nhã nhạc, được sách
Đại Nam thực lục ghi lại như sau. Vua nói: “Trẫm thấy buổi đầu gầy dựng, lễ nhạc còn
thiếu, thường muốn sáng chế mà chưa nắm được cốt yếu. Các khanh có từng nhờ được
nhã nhạc của triều Lê không?”. Quan bộ Lễ Phan Huy Thực đáp: “Nhạc của triều Lê chỉ
có đội bả lệnh mà thôi”. Vua nói: “Triều Lê có tiếng là thịnh vượng mà việc nhạc lễ thô
bỉ như thế. Nay tuy nhạc xưa đã bỏ mất mà các đồ bát âm còn đó có thể khảo được. Nên
tìm người hiểu âm nhạc cùng bọn các ngươi chế tác”. Thực tế là Nhã nhạc triều Nguyễn
đã kế thừa và phát triển Nhã nhạc triều Lê, chẳng hạn nó bao gồm các loại nhạc dùng

×