Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Đề tài " Bản chất và các hình thức biểu hiện của giá trị thăng dư" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.08 KB, 14 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Tiểu luận môn
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN II
BẢN CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC
BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Quỳnh
Lớp: Anh 4 – Khối 1 – TCNH – K49
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Vũ Thị Quế Anh
HÀ NỘI – NGÀY 10/4/2011

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU trang 1
I. Lý luận về giá trị thặng dư trang 1
1. Nguồn gốc giá trị thặng dư trang 1
a. Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn trong công thức đó trang 1
b. Hàng hóa sức lao động trang 3
2. Bản chất giá trị thặng dư trang 3
II. Lợi nhuận-hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị thặng dư trang 5
1. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận trang 5
2. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân trang 6
III. Lợi nhuận của một số hình thái tư bản trang 8
1. Lợi nhuận thương nghiệp trong tư bản thương nghiệp trang 8
2. Lợi tức và tỷ suất lợi tức trong tư bản cho vay trang 9
3. Địa tô tư bản chủ nghĩa trong tư bản kinh doanh nông nghiệp trang 9
KẾT LUẬN trang 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO trang 12
2
MỞ ĐẦU
C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư,


rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản
xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào
thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao
động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư
liệu sản xuất". Cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị. Quan hệ
này che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và
bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế học trước C.Mác đã không thành
công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ C.Mác đã vạch
trần bộ mặt TBCN là do ông hiểu một cách sâu sắc và thấu đáo mọi vấn đề xung
quanh Giá trị thặng dư – khái niệm được coi là trung tâm của kinh tế chính trị
Mác-Lênin.
Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Để lý giải những khúc mắc trong phương thức sản xuất TBCN, chúng ta
cần hiểu rõ bản chất của giá trị thặng dư và nó được che giấu dưới vỏ bọc bên
ngoài bằng những hình thức nào. Chính bởi vậy mà em đã chọn đề tài “Bản
chất và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư” cho bài tiểu luận của
mình.
Để hoàn thành bài tiểu luận này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
nhiệt tình của Thạc sĩ Vũ Thị Quế Anh.
3
I. Lý luận về giá trị thặng dư
1. Nguồn gốc giá trị thặng dư
a. Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn trong công thức đó
Với tính cách là tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tiền vận động theo
công thức: H-T-H. Còn với tính cách là tư bản, tiền vận động theo công thức: T-
H-T’, trong đó T’=T+t ; t là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, số tiền trội hơn
đó gọi là giá trị thặng dư và ký hiệu là m.
T-H-T’ ( T’ = T + m )
Công thức T-H-T’ được gọi là công thức chung của tư bản; vì mọi tư bản cho
dù chúng mang những hình thái cụ thể nào cũng đều là giá teij mang lại giá trị

thặng dư.
Công thức này làm cho người ta lầm tưởng rằng cả sản xuất lẫn lưu thông
đều tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Vậy lưu thông có tạo ra giá trị và làm tăng
thêm giá trị hay không?
Lưu thông là quá trình trong đó diễn ra các hành vi mua và bán. Nếu mua-
bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái: từ tiền thành hàng hoặc từ hàng
thành tiền. Còn tổng giá trị cũng như phần giá trị trong tay mỗi người tham gia
trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Trong trường hợp trao đổi không ngang
giá, nếu hàng hóa được bán cao hơn giá trị thì người bán sẽ được lời, còn nếu
hàng hóa bán thấp hơn giá trị thì người mua được lời. Nhưng trong nền kinh tế
hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán vừa là người mua. Không
thể có người chỉ bán mà không mua và ngược lại. Vì vậy cái lợi mà họ thu được
khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua
rẻ bán đắt thì tổng giá trị toàn xã hội vẫn không thay đổi bởi số giá trị mà người
này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà
thôi.
Sự phân tích trên cho thấy lưu thông không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
Nhưng rõ ràng nếu không có lưu thông thì cũng không thể có giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư vừa sinh ra trong lưu thông vừa không thể sinh ra
trong quá trình ấy. Đó là mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. C.Mác là
người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về hàng hóa
sức lao động.
4
b. Hàng hóa sức lao động
Để giải quyết mẫu thuẫn trong công thức chung của tư bản, phải tìm được
trên thị trường một loại hàng hóa có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân nó. Đó là hàng hóa sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một
con người và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hóa. Việc tiền tệ biến
thành tư bản không thể tách rời việc sức lao động trở thành hàng hóa.

Cũng như mọi hàng hóa, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: Giá
trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa nào đó.
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá
trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng
dư. Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động. Đặc điểm này là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung
của tư bản.
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần
thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Sản xuất và tái sản xuất sức lao
động được thực hiện thông qua tiêu dùng cá nhân của công nhân. Bởi vậy, giá trị
sức lao động là giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê.
2. Bản chất giá trị thặng dư
C.Mác viết: “với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá
trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với
tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì
quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản
chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao động có
hai đặc trưng:
Một là, người công nhân dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như những
yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho hiệu quả nhất.
5
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân.
C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng nghiên
cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới

Giá trị 10 kg bông 10 đôla
Lao động cụ thể của công
nhân bảo tồn và chuyển giá
trị 10 kg bông vào 10 kg sợi
10 đôla
Hao mòn máy móc 2 đôla Khấu hao tài sản cố định 2 đôla
Tiền thuê sức lao
động trong một
ngày
4 đôla
Giá trị mới do 8 giờ lao
động của người công nhân
tạo ra.
8 đôla
Tổng chi phí SX 16 đôla Tổng doanh thu 20 đôla

Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi
phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng
ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá
tiền thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra
trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ
hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhàtư bản sử dụng hàng
hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng
dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất (10 kg sợi), chúng ta thấy có
hai phần :
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà

được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
6
Giá trị do lao động trìu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình lao
động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó
bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia
thành hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: trong thời gian này người công
nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức
tiền công mà nhà tư bản giả cho mình(4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư : trong thời gian lao
động thặng dư người công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao
động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 đôla)
và bộ phận này thuộc về nhà tư bản ( nhà tư bản chiếm đoạt)
Từ đó mà C.Mác đã đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi
điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới
ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả họ.
Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn
tại điểm đó là sức lao động được trả ngang giá.
II. Lợi nhuận-hình thức biểu hiện bên ngoài của giá
trị thặng dư
1. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Để sản xuất hàng hóa, nhà tư bản phải chi một khoản tiền để mua tư liệu sản
xuất (c) và mua sức lao động (v). Mác gọi đó là chi phí sản xuất TBCN và ký
hiệu là k.
- Lợi nhuận: Giữa giá trị của hàng hóa(w) và chi phí sản xuất TBCN có sự
khác nhau về lượng. Khoản chênh lệch về lượng giá trị của hàng hóa và chi phí

sản xuất gọi là lợi nhuận và ký hiệu bằng p. Cần phân biệt về mặt lượng và mặt
chất của giá trị thặng dư và lợi nhuận.
7
Về lượng, nếu giá cả hàng hóa bằng giá trị của nó thi lượng lợi nhuận bằng
lượng giá trị thặng dư vì
p = w – k = (c + v + m) – (c + v) = m
Nếu giá cả không nhất trí với giá trị của hàng hóa thì mỗi tư bản cá biệt có
thể thu được lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị thặng dư, nhưng trong toàn
xã hội thì tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Về chất, giá trị thặng dư là nội dung bên trong được tạo ra từ lĩnh vực sản
xuất là khoản dôi ra ngoài giá trị tư bản khả biến và do sức lao động đơcj mua từ
tư bản khả biến tạo ra. Còn lợi nhuận là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị
thặng dư, thông qua trao đổi và được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản
ứng trước (c + v) vì vậy, phạm trù lợi nhuận xuyên tạc quan hệ bóc lột TBCN.
- Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận(p’) là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận với toàn bộ tư
bản ứng ra để sản xuất, kinh doanh.
p’ =
vc
p
+

Tỷ suất lơi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư có sự khác nhau về lượng và
chất.
Về lượng tỷ suất lợi nhuận bao giờ cũng nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ
suất lơi nhuận tăng hay giảm nó phụ thuộc vào tỷ suất giá trị thặng dư.
Về chất tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện mức độ bóc lột của tư bản đối với
lao động, còn tỷ suất lợi nhuận nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản.
Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là động lực của sản xuất TBCN là mục tiêu
cạnh tranh giành giật nơi đầu tư đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa có lợi

nhất giữa các nhà tư bản.
2. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các ngành sản xuất ra những
loại hàng hóa khác nhau nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất. Kết quả sự cạnh
tranh này là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Trong các ngành sản xuất khác nhau, do những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ
suất lợi nhuận (p’) khác nhau nên có tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
8
Ví dụ: p’ khác nhau do cấu tạo hữu cơ khác nhau
Ngành sản
xuất
Chi phí sản
xuất
m’ (%)
Khối lượng giá trị
thặng dư
p’ (%)
Cơ khí 800c + 200v 100 200 20
Dệt 700c + 300v 100 300 30
Da 600c + 400v 100 400 40

Trong điều kiện tự do cạnh tranh thì tư bản đầu tư vào bất cứ ngành nào nếu
có lượng tư bản ứng ra ngang nhau thì phải thu được khối lượng lợi nhuận như
nhau. Không có nhà tư bản nào chịu yên phận ở những ngành có tỷ suất lợi
nhuận thấp. Với ví dụ trên một số nhà tư bản kinh doanh trong ngành cơ khí sẽ
chuyển tư bản sang ngành da làm cho khối lượng sản phẩm ngành da dần dần
tăng lên làm cho cung lớn hơn cầu, giá cả giảm xuống, p’ trong ngành da giảm
xuống. Cuối cùng tư bản kinh doanh trong các ngành khác nhau đều thu được tỷ
suất lợi nhuận xấp xỉ nhau. Sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong
các ngành khác nhau diễn ra thông qua việc tư do di chuyển tư bản từ ngành có

p’ thấp sang ngành có p’ cao làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của
các ngành và hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành sản xuất
khác nhau:

'p
=
n
pnp ++ 1
Từ tỷ suất lợi nhuận bình quân chúng ta tính được lợi nhuận bình quân
p=p’.k
Vậy lợi nhuận bình quân là lợi nhuận mà một tư bản thu được theo tỷ suất lơi
nhuận chung với tổng tư bản ứng trước không kể cấu thành hữu cơ của tư bản
đó.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân càng che giấu quan hệ bóc lột TBCN, vì
đầu tư vào ngành nào, hễ có khối lượng tư bản ngang nhau thì rốt cuộc cũng thu
được khối lượng lợi nhuận ngang nhau, nó không quan hệ gì đến khối lượng giá
trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Thực ra lợi nhuận bình quân chỉ là giá
trị thặng dư được phân phối giữa các ngành sản xuất khác nhau tương ứng với
9
số tư bản đầu tư một cách tự phát. Xét chung trong toàn xã hội tổng số giá trị
thặng dư bằng tổng số lợi nhuận.
Lợi nhuận bình quân một mặt phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong
việc đấu tranh với nhau để giành giật cái “ăn cướp” được của giai cấp công
nhân, mặt khác nó vạch rõ toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột giai cấp công nhân.
III. Lợi nhuận của một số hình thái tư bản
1. Lợi nhuận thương nghiệp trong tư bản thương nghiệp
Trong nền kinh tế TBCN, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản
công nghiệp dưới hình thái tư bản hàng hóa tách ra. Nó được hình thành khi có
một số thương nhân ứng tư bản tiền tệ ra để đảm nhận việc mua và bán hàng hóa
cho tư bản công nghiệp nhằm mục đích thu lợi nhuận.

Tư bản thương nghiệp là tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu thông nên
không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Vậy lợi nhuận thương nghiệp do đâu mà
có?
Sự hình thành lợi nhuận bình quân cho thấy việc tạo ra giá trị thặng dư và
phân phối giá trị thặng dư là hai việc hoàn toàn khác nhau. Tư bản thương
nghiệp tuy không tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó được phân phối giá trị thặng
dư. Do tư bản thương nghiệp đảm nhận việc mua và bán hàng hóa cho tư bản
công nghiệp nên lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được các
nhà tư bản công nghiệp nhượng cho. Việc nhượng đó không nhứng cần thiết mà
còn có lợi cho các nhà tư bản công nghiệp. Khi tư bản thương nghiệp đảm nhận
việc mua và bán hàng hóa thì các nhà tư bản công nghiệp trong tư bản của mình
vào việc phát triển sản xuất, tập trung năng lực của mình vào việc tổ chức quản
lý do đó quy mô tư bản sản xuất lớn hơn, tốc độ chu chuyển của tư bản hơn và
vì vậy lợi nhuận thu được lớn hơn so với trường hợp tư bản công nghiệp làm cả
việc lưu thông hàng hóa.
Đảm nhiệm chức năng lưu thông hàng hóa, thương nhân chỉ có thể thu lợi
nhuận bằng số chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Vì vậy tư bản công nghiệp
nhượng cho tư bản thương nghiệp dưới giá trị xã hội, tư bản thương nghiệp bán
hàng hóa cho người tiêu dùng đúng giá trị xã hội và thu lợi nhuận thương
nghiệp. Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp cũng là lợi nhuận bình quân chung
với tư bản công nghiệp.
10
Vậy lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư do lao động của
công nhân tạo ra được nhà tư bản công nghiệp nhường lại cho tư bản thương
nghiệp vì tư bản thương nghiệp đảm nhận việc lưu thông hàng hóa.
2. Lợi tức và tỷ suất lợi tức trong tư bản cho vay
Tư bản cho vay xuất hiện trước CNTB dưới hình thức cho vay nặng lãi, bắt
bí nhau trong những điều kiện khó khăn mức lợi tức rất cao có khi chiếm cả
phần sản phẩm tất yếu của người đi vay làm kìm hãm sự phát triển của nền sản
xuất.

Tiền cho vay nhằm mục đích thu lợi nhuận nhưng tiền không thể đẻ ra lợi
nhuận mà T phải đi vào hoạt động mới tạo ra P.
Lợi tức (z) là một phần của lợi nhuận bình quân (p) mà tư bản hoạt động tư
bản thu được phần trả cho tư bản cho vay. Thực chất z là một phần của m mà tư
bản hoạt động thu được nhờ sử dụng tư bản cho vay trả cho tư bản cho vay.
Tỷ suất lợi tức, là tỷ lệ phần trăm(%) giữa số lợi tức thu được và số tiền mà
tư bản cho vay trong một thời gian
z’ =
k
z
(%)
Ta có:
0 < z’ < p’
3. Địa tô tư bản chủ nghĩa trong tư bản kinh doanh nông
nghiệp
Quan hệ sản xuất TBCN xuất hiện trong nông nghiệp muộn hơn so với trong
thương nghiệp và trong công nghiệp. CNTB xuất hiện trong nông nghiệp làm
phân hóa người nông dân, số ít họ trở thành giàu có kinh doanh theo phương
thức sản xuất TBCN và kéo theo một số nhà tư bản thâm nhập đầu tư vào sản
xuất nông nghiệp.
Trong CNTB người thực sự canh tác ruộng đất là những người lao động làm
thuê, nhà tư bản thuê ruộng đất của địa chủ để kinh doanh, nhà địa chủ sở hữu
ruộng đất. Như vậy quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp gồm có 3 giai
cấp. Sự phát triển nền nông nghiệp TBCN, kinh tế hộ gia đình và trang trại là
những tổ chức kinh tế quan trọng của nền nông nghiệp TBCN.
11
Địa tô (R) xuất hiện khi tồn tại chế độ tư hữu về ruộng đất, đây là hình thức
bóc lột chủ yếu trong xã hội phong kiến. Trong chế độ phong kiến, đầu tiên là
địa tô lao dịch sau đó chuyển sang địa tô hiện vật, khi nền kinh tế hàng hóa phát
triển là địa tô bằng tiền, tức là số tiền mà người thuê ruộng đất trả cho chủ đất để

được quyền sử dụng đất trong một thời gian nào đó.
Trong chủ nghĩa tư bản: nhà tư bản thuê ruộng đất, địa chủ là người cho thuê
ruộng đất, người canh tác là người lao động làm thuê.
Số tiền mà nhà tư bản trả cho chủ đất theo hợp đồng sử dụng đất trong một
thời gian nhất định gọi là địa tô TBCN. Cơ sở của địa tô TBCN vẫn là quyền sở
hữu tư nhân về ruộng đất là mối quan hệ giữa 3 giai cấp: nhà tư bản, nhà địa chủ
và công nhân sản xuất trong nông nghiệp khác với địa tô trong chế độ phong
kiến chỉ có quan hê 2 giai cấp: địa chủ và nông dân.
Địa tô trong chế độ phong kiến dựa trên sự cưỡng bức siêu kinh tế.Còn trong
chủ nghĩa tư bản là mối quan hệ kinh tế giữa: tư bản với địa chủ, giữa tư bản với
công nhân làm thuê. Địa tô phong kiến là sự biểu hiện của sản phẩm thặng dư,
còn địa tô TBCN chỉ là một phần của giá trị thặng dư do công nhân sản xuất
nông nghiệp tạo ra, phần còn lại của giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận
bình quân (
p
) vậy:
Địa tô TBCN là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do công nhân làm thuê trong
nông nghiệp tạo ra (tức là bộ phận giá trị thặng dư sau khi trừ đi lợi nhuận bình
quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp) và do nhà tư bản thuê đất nộp cho
người sở hữu ruộng đất.
R -> p
n
= p -
p
Chúng ta vừa nghiên cứu biểu hiện của giá trị thặng dư (m) thông qua một số
hình thái TBCN. Có thể nhận thấy rằng giá trị thặng dư mặc dù xuất hiện dưới
nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều do quá trình sản xuất vật chất tạo ra. Khối
lượng giá trị thặng dư được phân chia cho các loại tư bản trong xã hội dưới hình
thức lợi nhuận theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân (
'p

)

p
TBSX (công nghiệp)
Giá trị thặng dư
p
TBTN (thương nghiệp)
(m) z TBCV (cho vay)
R Địa chủ
12
KẾT LUẬN
C.Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không
phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa đặc biệt –
hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các
hàng hóa thông thường, và chính hàng hóa này đã tạo ra giá trị thặng dư cho nhà
tư bản. Bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị thặng dư là quy
luật bóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật
tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
Nhờ việc hiểu rõ bản chất và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư mà
ta hiểu được nhà tư bản đã bóc lột sức lao động của công nhân như thế nào và
che đậy bộ mặt thật của mình dưới nhiều hình thức mà chỉ đến C.Mác mới có
khả năng vạch trần.
Bài tiểu luận trên đã nghiên cứu một cách khái quát về bản chất và các hình
thức biểu hiện của giá trị thặng dư. Chúng ta đã hiểu được phần nào cơ chế bóc
lột phức tạp và tinh vi của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Để hiểu rõ
vấn đề một cách sâu sắc và thấu đáo hơn, chúng ta cần có những nghiên cứu sâu
và rộng hơn nữa về phương thức sản xuất TBCN lấy phạm trù giá trị thặng dư
làm nền tảng.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hướng dẫn học môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin, NXB Bộ GD&ĐT,
Huế, 2003
2. Giáo trinh Kinh tế học Chính trị Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1999
3. Kinh tế chính tri Mác-Lênin, NXB Khoa học và kỹ thuật, Trường ĐH
Bách khoa Hà Nội, 2008
4. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008
5. Hệ thống các trang web
/> />14

×