Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo TK năm học 2009-2010 BGD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.93 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO
TỔNG KẾT NĂM HỌC 2009-2010
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM HỌC 2010-2011
CỦA GIÁO DỤC MẦM NON, GIÁO DỤC PHỔ THÔNG,
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN VÀ GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP
Năm học 2009-2010, diễn ra trong tình hình chính trị - xã hội của đất nước
tiếp tục ổn định, nền kinh tế có xu hướng phục hồi sau suy giảm và đã có những
chuyển biến tích cực, an ninh quốc phòng được tăng cường và ổn định. Đảng và Nhà
nước tiếp tục dành sự quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với ngành Giáo dục; nhiều văn
bản luật, nghị định, nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và
của các địa phương về phát triển giáo dục đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý
quan trọng cho phát triển giáo dục.
Thực hiện Chỉ thị số 4899/CT-BGDĐT ngày 04/8/2009 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) về nhiệm vụ trọng tâm năm học 2009-2010; với chủ
đề “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”, ngành Giáo dục
đã nỗ lực cố gắng phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những khó khăn
để hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra.
Phần thứ nhất
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ NĂM HỌC 2009-2010
I. Công tác chỉ đạo chung
Bộ GDĐT đã ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học
2009-2010: Quyết định số 4385/QĐ-BGDĐT ngày 30/6/2009 ban hành Khung
kế hoạch thời gian năm học 2009-2010, Chỉ thị số 4899/CT-BGDĐT ngày
04/8/2009 về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2009-2010; đồng
thời các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của từng cấp học và
từng mặt công tác đã gửi đầy đủ và kịp thời tới các Sở GDĐT trước ngày khai


giảng năm học mới.
UBND các tỉnh, thành phố đã ban hành Kế hoạch thời gian năm học và
Chỉ thị nhiệm vụ năm học của địa phương. Các cấp ủy Đảng, ban, ngành, đoàn
thể ở địa phương tiếp tục quan tâm và tích cực hỗ trợ cho ngành Giáo dục.
Tháng 10/2009, Bộ đã thành lập 4 đoàn đi kiểm tra tình hình triển khai
nhiệm vụ năm học tại 11 Sở GDĐT; tháng 3/2010, Bộ đã tổ chức 7 đoàn kiểm
tra tình hình triển khai phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực" tại 7 vùng trong cả nước.
Lãnh đạo Bộ và lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ đã dự họp giao ban 2 lần tại
7 vùng (vào tháng 11/2009 và tháng 3/2010), nắm bắt tình hình, giải quyết kịp
thời những khó khăn; trả lời những ý kiến, kiến nghị của các địa phương nhằm
thực hiện tốt nhiệm vụ năm học đã đề ra.
II. Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2009-2010
1. Kết quả thực hiện ba cuộc vận động và phong trào thi đua "Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực"
1.1. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh": Bộ đã hoàn thành việc biên soạn bộ tài liệu Hướng dẫn tích hợp nội dung
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vào
giảng dạy trong một số môn học chính khoá và các hoạt động ngoại khoá ở các
cấp học. Các cơ sở giáo dục bằng những hành động cụ thể đã có nhiều hoạt động
kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tổ chức các buổi sinh hoạt,
nói chuyện và sưu tầm tài liệu giới thiệu các gương điển hình về học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của Bác; gần 50.000 lượt nhà giáo tham gia thi kể
chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức kỉ niệm 40 năm thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 41 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư cho ngành Giáo dục.
1.2. Cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức,
tự học và sáng tạo”: Bộ GDĐT và Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã triển khai
thực hiện Kế hoạch liên tịch số 285/KH-BGDĐT-CĐGDVN ngày 05/5/2009;
Công đoàn GDVN đã ban hành Hướng dẫn số 54/HD-CĐN ngày 21/01/2010 về

tiêu chí đánh giá thi đua (đối với cá nhân và tập thể) trong việc thực hiện cuộc
vận động. Các nhà trường và cơ sở giáo dục đã phát động trong giáo viên phong
trào tự học, tự nghiên cứu. Nhiều hình thức hưởng ứng cuộc vận động như hội
thảo, họp mặt, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về phẩm chất đạo đức nhà giáo; tổ
chức tuyên dương khen thưởng nhà giáo tiêu biểu, giáo viên dạy giỏi… có nơi
đã tổ chức vinh danh cho cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên tiêu biểu nhất
được học sinh và đồng nghiệp tôn vinh (Hậu Giang). So với năm học trước, tình
hình vi phạm đạo đức nhà giáo đã giảm (năm 2008 có 122 vụ vi phạm đạo đức
nhà giáo, năm 2009 có 24 vụ và 6 tháng đầu năm 2010 chỉ còn 12 vụ), nhiều địa
phương không có trường hợp nào vi phạm.
1.3. Cuộc vận động "Hai không": Năm học 2009-2010 là năm thứ tư
toàn ngành triển khai thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của Thủ Chính phủ
về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục thông qua cuộc
vận động "Hai không" của ngành. Bộ chỉ đạo các cơ sở giáo dục rà soát, phân
2
loại trình độ học sinh để áp dụng các hình thức phụ đạo, bồi dưỡng phù hợp, đặc
biệt chú trọng phụ đạo cho học sinh yếu kém, nhất là trong thời gian cuối năm
học, học sinh lớp 12 ôn tập và dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT).
Trật tự, kỷ cương thi cử trong toàn ngành đã có chuyển biến căn bản, kỳ
thi tốt nghiệp THPT năm 2010 được thực hiện nghiêm túc, an toàn, khách quan,
chính xác và công bằng ở tất cả các khâu: ra đề thi, coi thi, chấm thi, xét công nhận
tốt nghiệp, thanh tra thi. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT năm 2010 toàn quốc là 92,57%,
tăng 8,97% so với năm 2009; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp GDTX năm 2010 toàn quốc là
66,71%, cao hơn năm 2009 là 27,11% (biểu 6, biểu 7- phụ lục 1). Tỷ lệ thi đỗ tốt
nghiệp tăng đã phản ánh sự chuyển biến tích cực về chất lượng dạy và học; phù
hợp với sự phấn đấu nỗ lực của học sinh, giáo viên trong thời gian qua; có sự tương
ứng giữa kết quả tốt nghiệp giáo dục THPT và GDTX trong từng địa phương cũng
như trên phạm vi toàn quốc.
Năm học 2009-2010, tỷ lệ học sinh bỏ học ở hầu hết các vùng đều giảm
(biểu 2- phụ lục 1). Số học sinh bỏ học giảm đáng kể, (vì chưa có số liệu học

sinh bỏ học cả năm nên lấy số liệu ở học kỳ I để so sánh qua các năm) học kỳ I
năm học 2008-2009 số học sinh bỏ học là 86.269 em (chiếm tỷ lệ 0,56%); năm
học 2009-2010 là 75.691 (chiếm tỷ lệ 0,51%) giảm 0,05%, trong đó, tiểu học là
0,11%; THCS là 0,66%; THPT là 1,17%. Các trường đã triển khai tích cực
nhiều biện pháp: rà soát, phân loại học sinh từ đầu năm học, cử giáo viên bồi
dưỡng học sinh yếu kém, động viên từng đối tượng đã bỏ học tiếp tục ra lớp,
phối hợp với các cấp, các ngành, các Hội trung ương và địa phương, vận động
phụ huynh tạo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh. Tuy nhiên, một số vùng
khó khăn tỷ lệ học sinh bỏ học đã giảm so với năm học trước nhưng vẫn còn cao
là vùng Tây Bắc 0,94%, vùng Tây Nguyên 0,84%, vùng Đồng bằng sông Cửu
Long 0,83%, cá biệt có tỉnh không giảm.
1.4. Phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”: ngành Giáo dục tiếp tục coi phong trào thi đua này là giải pháp đột phá và
lâu dài để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức,
nhân cách học sinh với một cơ chế chính trị xã hội đủ mạnh bởi sự tham gia của
hai Bộ (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) và ba Đoàn
thể, tổ chức (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam) triển khai phong trào từ cấp Trung ương
tới các cấp cơ sở nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và
ngoài nhà trường để thực hiện nhiệm vụ giáo dục như chuẩn bị tổ chức kỷ niệm
1000 năm Thăng Long - Hà Nội và bầu chọn Vịnh Hạ Long là một trong bảy kỳ
quan thiên nhiên thế giới; tổ chức nhiều hoạt động vui chơi bổ ích cho học sinh
trong các nhà trường: Hội Thi “Búp măng xinh”, trại hè rèn luyện kỹ năng sống,
chương trình “Đến với Bảo tàng, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, đến với
các làng nghề truyền thống”; nhiều địa phương tổ chức tốt việc thực hiện “3 đủ”
(đủ ăn, đủ mặc, đủ sách vở) không có học sinh nào phải bỏ học vì thiếu thốn.
3
Một số địa phương có sự chỉ đạo cụ thể như Thành ủy Đà Nẵng đã ra Nghị
quyết đến năm 2015, không để học sinh phải bỏ học vì bất cứ lý do gì, tỉnh Cà
Mau đã hỗ trợ tiền đi học bằng đò cho trên 10 ngàn học sinh có hoàn cảnh khó

khăn. Hội Khuyến học có sáng kiến “Mỗi gia đình hội viên nuôi một con heo
khuyến học” (hoặc các hình thức tương tự) phát triển mạnh ở TP. Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An; xây dựng Quỹ học bổng khuyến
học “Vòng tay đồng đội” đã nhận được tài trợ của nhiều cá nhân, doanh nghiệp,
trên cơ sở đó quỹ đã cấp nhiều suất học bổng cho con em gia đình thương binh,
liệt sĩ.
Trước tình trạng học sinh đánh nhau có dấu hiệu gia tăng ở một số địa
phương và một số vụ việc xảy ra gây bức xúc trong dư luận xã hội, Bộ đã chỉ đạo
các Sở GDĐT thực hiện các biện pháp ngăn chặn tình trạng này đồng thời có thống
kê, báo cáo thực trạng tình hình và sẽ tổ chức Hội thảo toàn quốc về các giải pháp
phòng ngừa từ xa và ngăn chặn tình trạng học sinh đánh nhau và ngăm chặn tác hại
của trò chơi điện tử.
Phong trào thi đua có sức lan tỏa mạnh mẽ, 94% các trường tham gia
phấn đấu đạt ở các mức độ khác nhau. Khai giảng năm học 2009-2010, ngoài
phần “Lễ”, các nhà trường đã tổ chức tốt phần “Hội” với các trò chơi dân gian,
hát dân ca, giao lưu văn hóa… tạo không khí vui tươi phấn khởi cho học sinh
bước vào năm học mới. Các nhà trường đã chủ động sưu tầm và hướng dẫn học
sinh hát dân ca và chơi các trò chơi dân gian trong các giờ ra chơi và sinh hoạt
tập thể. Cảnh quan và điều kiện cơ sở vật chất của các nhà trường được cải thiện
nhanh chóng, có cây xanh bóng mát, lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế phù hợp với
lứa tuổi học sinh. Số công trình vệ sinh đã tăng thêm 20% so với năm học trước,
nâng tổng số trường có công trình vệ sinh là 38.893 trường, đạt 96,7% trên tổng
số trường trong cả nước, trong đó có 83,9% công trình hợp vệ sinh. Trồng mới
được 18 triệu cây xanh các loại phù hợp với điều kiện nhà trường. Toàn ngành
đã nhận chăm sóc 2.063 di tích lịch sử cấp quốc gia, 3.365 di tích cấp tỉnh và
7.041 đền đài, nghĩa trang liệt sỹ và 1.157 các công trình khác; đồng thời nhận
chăm sóc và phụng dưỡng 15.810 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương
binh liệt sỹ.
Bộ GDĐT đã phối hợp với Công đoàn GDVN tổ chức vận động quyên
góp hỗ trợ, giúp giáo viên và học sinh các tỉnh vùng khó được 64.237.154.000

đồng tiền mặt; 3.868.340 quyển sách, vở viết; 184.970 bộ đồ dùng học tập;
601.399 quần áo ấm; 169.339 kg quần áo các loại và 37.166 hiện vật khác. Nhà
xuất bản Giáo dục Việt Nam phối hợp với các Sở vận động học sinh quyên góp
được 2,33 triệu bản sách giáo khoa cũ, trị giá trên 2,2 tỉ đồng, trao tặng lại cho
học sinh nghèo, các thư viện trường học vùng khó khăn. Tặng 71 nghìn bộ sách
giáo khoa cho tất cả học sinh là con thương binh, liệt sĩ trong cả nước trị giá hơn
7,5 tỉ đồng.
Trong năm học 2009-2010, với sự đóng góp của toàn thể cán bộ giáo chức
trong ngành, Bộ đã triển khai xây dựng cụm tượng đài 10 nữ thanh niên xung
4
phong hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc và sẽ tổ chức khánh thành vào dịp
19/8/2010.
2. Đẩy mạnh đổi mới quản lý giáo dục
Thực hiện Thông báo số 242-TB/TW ngày 25 tháng 6 năm 2009 của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), phương
hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020, Bộ GDĐT đã xây dựng
chương trình hành động thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, đã lựa chọn giải
pháp mang tính đột phá là đẩy mạnh đổi mới quản lý giáo dục trong toàn ngành.
Năm học 2009-2010, Bộ tập trung hoàn thiện hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về GDĐT, tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh công tác quản lý
giáo dục từ cấp Trung ương đến địa phương.
2.1. Về phân cấp quản lý: Thực hiện Thông tư liên tịch số 35/2008/TTLT-
BGDĐT-BNV ngày 14/7/2008, đến nay đã có 62/63 tỉnh, thành trong cả nước
có quyết định của UBND cấp tỉnh quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Sở GDĐT (còn Phú Yên chưa có quyết định của UBND tỉnh). Tuy nhiên,
vẫn còn một số Sở GDĐT chưa được quyền quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cho từ chức, cách chức đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các
đơn vị trực thuộc Sở GDĐT hoặc không được giao đầy đủ trách nhiệm quản lý
các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở.
Thực hiện Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày

15/4/2009 của Bộ GDĐT và Bộ Nội vụ về hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị
sự nghiệp GDĐT công lập, các Sở đã trình UBND tỉnh/thành phố phê duyệt kế
hoạch biên chế; chủ động trong việc kiện toàn, ổn định tổ chức bộ máy ở các cơ
sở giáo dục; sắp xếp, tuyển dụng, sử dụng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức
hợp lý; ban hành các Nghị quyết về công tác GDĐT; thực hiện tốt chức năng
quản lý Nhà nước về GDĐT tại địa phương; giao quyền quản lý tài chính cho
các cơ sở giáo dục.
2.2. Thực hiện Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 của Bộ
GDĐT, tất cả các cơ sở giáo dục đã thực hiện “3 công khai” để người học và xã
hội giám sát, đánh giá, bao gồm: công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất
lượng thực tế; công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng; công khai thu, chi
tài chính. Các Sở GDĐT cũng đã chỉ đạo, củng cố và hoàn thiện hệ thống
website của ngành, của các trường học để cập nhật và cung cấp thông tin được
nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, năm học 2009-2010 là năm đầu tiên thực hiện
Thông tư 09 nên nhiều cơ sở giáo dục còn lúng túng, vướng mắc trong việc xác
định các tiêu chí công khai, lựa chọn hình thức công khai.
2.3. Triển khai Nghị quyết số 35/2009/QH12 của Quốc hội về chủ trương,
định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong ngành, Bộ GDĐT đã xây
dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày
5
14/5/2010 quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu,
sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm
học 2010-2011 đến năm học 2014-2015. Liên bộ Bộ GDĐT, Bộ Tài chính và Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội đang hoàn thiện Thông tư liên tịch hướng
dẫn. Các Sở đang tích cực, chủ động xây dựng mức học phí phù hợp với thực tế
của địa phương trình Hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố quyết định áp dụng
trong năm học 2010-2011.
2.4. Việc chuyển đổi loại hình trường: Thực hiện Thông tư số
11/2009/TT-BGDĐT ngày 08/5/2009 của Bộ GDĐT, hầu hết các Sở đã tham

mưu tốt để UBND tỉnh phê duyệt Đề án chuyển đổi loại hình trường theo đúng
quy định. Các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Long An,
Đồng Tháp, Hậu Giang đã hoàn thành việc chuyển đổi loại hình trường. Tuy
nhiên, còn 29 Sở chưa có báo cáo kết quả chuyển đổi loại hình trường.
2.5. Công tác thanh tra: Bộ máy thanh tra giáo dục các cấp tiếp tục được
kiện toàn. Trong năm qua, Bộ tổ chức 45 lượt thanh tra chuyên ngành và kiểm
tra việc thực hiện các cuộc vận động và tổ chức các đoàn thanh tra kỳ thi tốt
nghiệp THPT, thi chọn học sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT năm 2010 tại các
Sở GDĐT. Đặc biệt, năm 2010, Bộ đã chuẩn bị tốt nội dung, góp phần tổ chức
thành công Đối thoại quốc tế lần thứ 7 về phòng chống tham nhũng trong lĩnh
vực giáo dục.
Các sở GDĐT đã tổ chức thực hiện thanh tra các cơ sở theo kế hoạch và
đạt tỷ lệ khá, thanh tra chuyên ngành (toàn diện) được 705 cơ sở giáo dục trực
thuộc (đạt tỷ lệ 20,9%); thanh tra hoạt động sư phạm 23.806 nhà giáo (đạt tỷ lệ
18,2%); thanh tra việc quản lý và sử dụng thiết bị dạy học được 624 cơ sở giáo
dục trực thuộc (đạt tỷ lệ 20,5%); 45 Sở đã thực hiện thanh tra công tác quản lý
tài chính; 50 Sở thanh tra việc ứng dụng CNTT; 55 Sở thực hiện thanh tra công
tác quản lý giáo dục và tổ chức 205 lượt kiểm tra việc thực hiện các cuộc vận
động và phong trào thi đua, tổ chức 540 lượt thanh tra việc thực hiện Luật phòng
chống tham nhũng trong ngành.
Nhìn chung công tác kiểm tra, thanh tra của Bộ và của các Sở GDĐT
có chuyển biến tích cực, góp phần đáng kể vào việc giữ vững kỷ cương nền
nếp học đường.
2.6. Công tác kiểm định chất lượng giáo dục đã được triển khai trên phạm
vi cả nước. Sau 1 năm triển khai thực hiện (từ tháng 4/2009) đến nay đã có
10.460 trường phổ thông hoàn thành báo cáo tự đánh giá, chiếm 37% tổng số
trường phổ thông trong cả nước. Đã có 52 trường phổ thông được các Sở GDĐT
công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục.
2.7. Công tác pháp chế ngành Giáo dục đã có nhiều tiến bộ. Bộ GDĐT
tập trung soạn thảo, trình Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ban ngành và đã ban

hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2009 là 48 văn bản và trong 6 tháng
6
đầu năm 2010 là 22 văn bản (phụ lục 2); trong đó nhiều văn bản có ý nghĩa rất
quan trọng đối với phát triển giáo dục: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Giáo dục; Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một
số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo; Nghị định của Chính phủ ban hành
quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng
học phí đối với các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học
2010-2011 đến năm học 2014-2015; Đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
em 5 tuổi giai đoạn 2010-2015; Đề án phát triển trường THPT chuyên giai đoạn
2011-2020; Đề án đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng - an ninh cho các
trường trung học phổ thông và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2010-2016,
Nghị định quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong
các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên.
Hệ thống tổ chức pháp chế ngành Giáo dục ngày càng được kiện toàn, có
1 Sở thành lập phòng Pháp chế (TP Hồ Chí Minh), 32 Sở thành lập tổ công tác
pháp chế thuộc Thanh tra hoặc Văn phòng, các Sở còn lại đã cử cán bộ kiêm
nhiệm làm công tác pháp chế. 100% Sở đã thành lập Ban phổ biến giáo dục
pháp luật, đã xây dựng tủ sách pháp luật và thường xuyên bổ sung sách phục vụ
cho công tác của ngành. Một số tỉnh làm tốt công tác pháp chế là TP Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Yên Bái, Hà Tĩnh, Thái Nguyên, Quảng Ngãi, Ninh Bình, Hà
Nội, Đăk Lăk, Cà Mau, Bình Thuận.
2.8. Kết quả ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục: Tổng
công ty Viễn thông Quân đội Viettel đã tài trợ miễn phí kết nối Internet băng
thông rộng đến tất cả các trường phổ thông, mầm non, các trung tâm GDTX, các
phòng GDĐT và các trường TCCN. Hiện nay, Viettel cung cấp mới thiết bị
modem 3G có tốc độ nhanh và tổ chức kết nối mới cho những điểm không nối
được bằng cáp.
Bộ và nhiều Sở GDĐT, phòng GDĐT tăng cường ứng dụng CNTT để
tổ chức hội nghị, hội thảo, tập huấn, họp trao đổi công tác qua mạng Internet,

các đơn vị đã triển khai tốt như Đà Nẵng, Đông Triều (Quảng Ninh), Hà
Nam, Nghệ An, Quảng Trị, An Giang, Lạng Giang (Bắc Giang), Thái Thuỵ
(Thái Bình), Lâm Đồng…Vùng 1 (15 tỉnh miền núi phía Bắc) đã khai trương
và đưa vào hoạt động website của vùng. Bộ đã phối hợp cùng Quỹ Laurence
S.Ting tổ chức cuộc thi Thiết kế bài giảng e-Learning cho giáo viên trung học
ở 12 môn học, với mục tiêu giúp giáo viên tiếp cận thẳng với công nghệ hiện
đại nhất của thế giới trong ứng dụng CNTT để dạy và học, tăng cường tính tự
học, đến nay đã có khoảng 4500 giáo viên tham gia và được tập huấn trực tiếp
để hưởng ứng cuộc thi. Bộ đã ban hành Thông tư 08/2010/TT-BGDĐT ngày
01/3/2010 về sử dụng phần mềm mã nguồn mở trong giáo dục. Nhiều Sở đã
tích cực triển khai công tác tập huấn như Đăk Lăk, Hà Nam, Đà Nẵng, TP Hồ
Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng…
7
Năm 2009, Website Bộ GDĐT được Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT, Hội
Tin học và Bộ Thông tin và Truyền thông xếp hạng đứng vị trí thứ nhất về mức
độ cung cấp thông tin trên website của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
2.9. Công tác thi đua khen thưởng đã có sự chuyển biến về phổ biến,
nhân rộng điển hình tiên tiến. Chuẩn bị tích cực cho Đại hội thi đua yêu nước
toàn ngành vào quý IV năm 2010, các Sở GDĐT tổ chức Hội nghị điển hình tiên
tiến của ngành giáo dục địa phương. Bộ đã tổ chức thành công Hội nghị tổng kết
5 năm thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển
hình tiên tiến trong ngành giáo dục. Các Sở tổ chức xét tặng danh hiệu Nhà giáo
Nhân dân và Nhà giáo Ưu tú lần thứ 11 (năm 2010). Các vùng thi đua tiếp tục
cải tiến các hoạt động thi đua, học tập và trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau trong
năm học, hăng hái thi đua dạy tốt, học tốt, quản lý tốt.
2.10. Công tác thông tin tuyên truyền về các hoạt động của ngành
Bộ GDĐT đã chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan báo chí tuyên
truyền về các cuộc vận động và phong trào thi đua của ngành như: cuộc vận động
“Hai không”, phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích

cực”, cuộc vận động quyên góp giúp đỡ giáo viên và học sinh vùng khó khăn, về đổi
mới phương pháp dạy học, về các điển hình tiên tiến trong ngành Giáo dục, thực
hiện “3 công khai”, đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội, thi tốt nghiệp THPT
năm 2010 và các chủ trương, định hướng, chỉ đạo của ngành…
Bộ GDĐT đã ký chương trình phối hợp tuyên truyền về công tác giáo dục và
đào tạo năm 2010 với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam. Trung
bình mỗi tuần đã có 5 phóng sự thời sự, chuyên đề (VTV1), 4 chương trình phát
thanh (VOV).
Sau một năm triển khai, Báo điện tử Giáo dục và Thời đại đã có trên
200.000 lượt người truy cập, trở thành một kênh thông tin có số lượng người truy
cập lớn, có ý kiến bạn đọc rộng rãi, có sự đối thoại hai chiều với toàn xã hội.
3. Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
3.1. Công tác phổ cập giáo dục và chống mù chữ được chú trọng, tất cả
các tỉnh, thành phố đều duy trì kết quả phổ cập giáo dục Tiểu học - Chống mù
chữ; Riêng năm học này thêm 4 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi Yên Bái, Điện Biên, Lai Châu và Bạc Liêu. Hiện nay, toàn quốc có
52/63 tỉnh, thành đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi (đạt tỉ lệ
82,5%).
Công tác phổ cập giáo dục THCS được triển khai quyết liệt ở 7 tỉnh cuối
cùng, trong lộ trình 10 năm toàn quốc tiến hành phổ cập giáo dục THCS (2001-
2010) như: giao ban công tác phổ cập giáo dục THCS với 7 tỉnh ngay từ đầu
năm học; cử các tổ công tác đến các tỉnh hỗ trợ kỹ thuật, nghiệp vụ. Các địa
8
phương đã thực hiện có hiệu quả nhiều giải pháp, có chính sách hỗ trợ đặc biệt,
ưu tiên kinh phí, tập trung nguồn lực cho các địa bàn khó khăn ở biên giới, hải
đảo và đặc biệt quan tâm đến những tỉnh, huyện, xã mới chia tách nhằm đạt
chuẩn phổ cập giáo dục.
Kết quả công tác phổ cập GDTHCS đến ngày 30/6/2010: 63/63 tỉnh,
thành phố và tất cả các huyện trong toàn quốc (687 huyện) đều đạt chuẩn; tỷ lệ
đơn vị cấp xã đạt chuẩn là 10.338/10.344 xã (99,9%); tỷ lệ người trong độ tuổi

15-18 có bằng tốt nghiệp THCS hệ phổ thông và hệ bổ túc THCS là 87,3%.
3.2. Tập trung chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học
3.2.1. Đối với giáo dục mầm non
Năm học 2009-2010, là năm học đầu tiên Bộ triển khai thực hiện chương
trình giáo dục mầm non mới: mở lớp tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ quản lý và
giáo viên, có tập huấn riêng cho vùng khó khăn; đã có 6.851 trường (đạt tỷ lệ
53,9%), với số trẻ là 2.379.011 (đạt tỷ lệ 64,1%), trong đó trẻ 5 tuổi là 585.312
(đạt tỷ lệ 44,8%) thực hiện chương trình mới. Những tỉnh triển khai tốt là: Hà
Nội, Bắc Giang, Hà Nam, Bình Định, Khánh Hòa, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh.
Bộ đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng về giáo dục dinh dưỡng, vệ
sinh an toàn thực phẩm, phòng chống HIV/AIDS, nâng cấp cơ sở vật chất, trang
bị đồ dùng, phương tiện phục vụ cho việc tổ chức ăn bán trú. Trẻ được tổ chức
nuôi bán trú tại trường đạt tỷ lệ 68,9% (tăng 3,4% so với năm học trước), tỷ lệ
suy dinh dưỡng giảm, chỉ còn 5,9% ở nhà trẻ và 6,4% ở mẫu giáo (giảm so với
năm học trước 1,6% ở nhà trẻ và 0,5% ở mẫu giáo).
Việc ứng dụng CNTT trong các trường mầm non được triển khai tích cực
và đạt kết quả tốt: cả nước có 12.251 trường mầm non có ứng dụng CNTT, đạt
96,4% (tăng 3.176 trường so với năm học trước). Có 10.528 trường đã được nối
mạng internet, đạt 82,8% tổng số trường.
Ngày 09/02/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 239/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010-
2015. Hiện nay, Bộ GDĐT đang phối hợp với Văn phòng Chính phủ chuẩn bị tổ
chức Hội nghị triển khai Đề án.
3.2.2. Đối với giáo dục tiểu học
Thực hiện đánh giá kết quả học tập học sinh tiểu học theo Thông tư số
32/2009/TT-BGDĐT ngày 27/10/2009, dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng
các môn học; đánh giá sâu và điều chỉnh chương trình môn Thủ công-Kỹ thuật;
nhiều địa phương đẩy mạnh dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số
phù hợp với đặc điểm vùng, miền. Chất lượng giáo dục năm học 2009-2010 của
tiểu học có tiến bộ (biểu 3 - phụ lục 1): môn Toán, tỷ lệ đạt loại giỏi 51,6% (tăng

12,4% so với năm trước), loại yếu còn 2,2% (giảm 1,4% so với năm trước). Kết
quả môn Tiếng Việt, tỷ lệ đạt loại giỏi 45,8% (tăng 13,3% so với năm trước),
loại yếu còn 2,0% (giảm 1,3% so với năm trước).
9
Các hoạt động giáo dục an toàn giao thông, giáo dục môi trường, giáo
dục giới và quyền trẻ em được tích hợp, lồng ghép vào các môn học ở tiểu
học. Tiếp tục huy động các nguồn lực từ xã hội cho giáo dục tiểu học: công ty
cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk trao học bổng và quà trị giá 1,5 tỷ đồng; tập
đoàn Unilever triển khai lắp đặt 38 sân chơi ngoài trời tại 14 tỉnh, trị giá 6 tỷ
đồng; công ty FPT tổ chức thi giải Toán qua mạng cho học sinh tiểu học; tiếp
nhận và cấp phát 10.000 chiếc đàn Pianô do Công ty Booyoung Hàn Quốc
trao tặng cho các trường tiểu học…
3.2.3. Đối với giáo dục trung học
Bộ đã tổ chức hội nghị đánh giá 3 năm thực hiện chương trình và sách
giáo khoa THPT; ban hành và tập huấn sử dụng tài liệu Hướng dẫn thực hiện
chuẩn kiến thức, kỹ năng đối với các môn học ở THCS và THPT. Kết quả học
và thi tốt nghiệp lớp 12 THPT có tiến bộ rõ rệt do đã có tác động bước đầu từ
việc này.
Tăng cường tích hợp nội dung giáo dục địa phương, giáo dục môi trường,
giáo dục kỹ năng sống, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, chú trọng đến
việc giáo dục đạo đức, ý thức, tình yêu đối với quê hương và kỹ năng sống,
nhiều Sở GDĐT đã biên soạn bộ tài liệu về nội dung giáo dục địa phương các
môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý.
Các Sở GDĐT đã tích cực chỉ đạo việc đổi mới phương pháp dạy học,
khắc phục dạy học chủ yếu theo lối “đọc-chép“; đổi mới kiểm tra, đánh giá, tăng
cường sử dụng thiết bị dạy học và phòng học bộ môn, làm và sử dụng thiết bị
dạy học tự làm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. Các tỉnh thực hiện
khá tốt chủ trương này là TP Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Lai Châu.
Kết quả xếp loại hạnh kiểm, học lực của học sinh trung học đều tăng so với
năm trước (biểu 4, biểu 5 - phụ lục 1): Cấp THCS: Hạnh kiểm tốt đạt 70% (tăng

so với năm trước 3,1%), loại yếu 0,31% (giảm 0,05%); học lực giỏi đạt 15,1%
(tăng 1,4%), học lực khá đạt 33,6% (tăng 1,7%), học lực yếu 8,6% (giảm 1,5%),
học lực kém 0,52% (giảm 0,08%). Ở cấp THPT: Hạnh kiểm tốt đạt 64,1% (tăng
so với năm trước 5,7%), loại yếu 1,1% (giảm 0,01%); học lực giỏi đạt 5,15%
(tăng 0,25%), học lực khá đạt 32,1% (tăng 2,7%), học lực yếu 14,0% (giảm 1%),
học lực kém 0,8% (giảm 0,1%).
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển hệ thống trường
THPT chuyên đến năm 2020; Bộ đã tổ chức hội nghị các trường chuyên toàn
quốc lần thứ 2; ban hành chương trình các chuyên đề chuyên sâu dạy tại các
trường THPT chuyên. Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12 năm 2010 đã diễn ra
nghiêm túc. Kết quả: có 82 giải nhất, 442 giải nhì, 945 giải ba, 708 giải khuyến
khích. Tổng số thí sinh đoạt giải là 2.177, chiếm tỉ lệ 55,63% số thí sinh dự thi.
Kỳ thi cũng đã chọn được 8 học sinh dự thi Olympic Vật lý châu Á, kết quả: 6/8
học sinh đoạt giải, trong đó 1 Huy chương Bạc, 1 Huy chương Đồng, 4 bằng
10
khen. Đối với các đội tuyển dự Olympic quốc tế năm 2010 có 23 học sinh tham
gia ở các môn Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học và Tin học. Kết quả đã có 6 học
sinh tham dự kì thi Olympic Toán đạt 01 Huy chương Vàng, 4 Huy chương Bạc
và 1 Huy chương Đồng; 4 học sinh tham dự môn Sinh đạt 1 Huy chương Bạc, 2
Huy chương đồng; 5 học sinh tham dự môn Vật lý đạt 1 Huy chương Vàng, 3
Huy chương Bạc và 01 Huy chương Đồng.
3.2.4. Đối với giáo dục thường xuyên
Hệ thống mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên không ngừng được mở
rộng ở các địa phương (biểu 8, biểu 9 - phụ lục 1). Để xây dựng các trung tâm
giáo dục thường xuyên mới, Hà Nội đầu tư 90 tỷ đồng, Đồng Tháp 42 tỷ đồng
Nội dung các tài liệu phục vụ cho GDTX ngày càng phong phú, đa dạng đáp
ứng nhu cầu người học ở nhiều lĩnh vực; hình thức tổ chức học tập linh hoạt,
phù hợp đã thu hút được nhiều người tham gia học tập. Trong năm học 2009-
2010, có gần 14 triệu lượt người học các chuyên đề. Bộ đã tổ chức Hội thảo
chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học bổ túc THPT các môn Vật lý, Sinh học

và Tiếng Anh. Các địa phương tổ chức tập huấn, hội thi giáo viên dạy giỏi, hội
giảng giáo viên GDTX cấp THPT Chất lượng dạy học GDTX đã có chuyển
biến tích cực.
Tiếp tục thực hiện Đề án "Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010"
và Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người, Bộ đã phối hợp với
Liên hiệp các tổ chức giáo dục toàn cầu tổ chức Sự kiện quốc gia hưởng ứng
Tuần lễ toàn cầu hành động giáo dục cho mọi người năm 2010. Cùng với các
quốc gia trên thế giới, sự kiện này được tổ chức tại Việt Nam với chủ đề “Tất cả
vì một mục tiêu giáo dục cho mọi người” và khẩu hiệu “Tăng cường đầu tư cho
giáo dục”.
3.2.5. Đối với giáo dục chuyên nghiệp
Công tác phân luồng học sinh sau THCS có tiến bộ, năm học này có 187
trong tổng số 553 trường tuyển sinh TCCN, với 26.257 học sinh tốt nghiệp
THCS tham dự tuyển. Các địa phương thực hiện tốt công tác này là: TP Hồ Chí
Minh, Hà Tĩnh, Yên Bái, Tiền Giang
Trong năm học đã ban hành được 28 chương trình khung các ngành đào
tạo TCCN theo hướng xác định mục tiêu đào tạo gắn với chuẩn năng lực đầu
ra, tăng cường kỹ năng thực hành nghề nghiệp cho học sinh, bổ sung 3 học
phần tự chọn là Kỹ năng giao tiếp, Khởi tạo doanh nghiệp, Sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Nhiều Sở GDĐT đã chỉ đạo cụ thể các giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo như xây dựng và công bố chuẩn đầu ra (TP Hồ Chí Minh), tiếp tục rà soát
hoàn thiện lại chương trình đào tạo của nhà trường, lập dự án đầu tư tăng cường cơ
sở vật chất, tăng cường giáo trình, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên TCCN, quy hoạch
phát triển nhân lực của địa phương, gắn kết việc đào tạo với sử dụng nhân lực
11
(Lâm Đồng, Hà Nam, Vĩnh Phúc), đã có hàng trăm hợp đồng ký kết giữa các
trường và doanh nghiệp về đào tạo theo địa chỉ.
Tuy vậy, chất lượng giáo dục TCCN chưa có chuyển biến đáng kể, đặc biệt ở
các cơ sở đào tạo mới được thành lập. Kỹ năng thực hành nghề nghiệp và kỹ năng

mềm của học sinh còn nhiều hạn chế. Việc triển khai công tác kiểm định chất lượng
thiếu đồng bộ về cơ chế và chỉ đạo kiên quyết từ Trung ương đến địa phương.
3.2.6. Đối với giáo dục dân tộc và giáo dục chuyên biệt
a) Công tác giáo dục dân tộc: Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội
trú (PTDTNT) và phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) tiếp tục phát triển. Toàn
quốc có 294 trường PTDTNT (tăng 09 trường so với năm học trước) với khoảng
70.000 học sinh được hưởng học bổng chính sách; số trường PTDTBT là 1.736
trường (tiểu học: 515 trường; THCS: 861 trường và THPT: 360 trường); có
147.164 học sinh PTDTBT (tiểu học: 25.171HS; THCS: 92.137 HS; THPT:
21.230 HS). Các tỉnh có quy mô trường, lớp và học sinh DTBT lớn là tỉnh Hà
Giang, Điện Biên và Lào Cai.
Chất lượng dạy và học ở các tỉnh miền núi và dân tộc ngày càng được cải
thiện. Học sinh các trường PTDTNT có phẩm chất đạo đức tốt, giữ được bản sắc
văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu các nét đẹp văn hóa ứng xử văn
minh, tiên tiến thông qua các hoạt động của nhà trường. Tỉ lệ học sinh xếp loại
hạnh kiểm tốt và khá của các trường đạt trên 95%. Tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp trung
học phổ thông ở các tỉnh miền núi và vùng dân tộc thiểu số năm sau cao hơn
năm trước. Năm học 2009-2010 có 5.506/5.919 học sinh các trường PTDTNT
thi đỗ tốt nghiệp THPT, đạt tỷ lệ 93,02%.
Việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số được quan
tâm. Cả nước có 4.020 lớp tăng cường tiếng Việt. Tại Gia Lai, 86,37% trẻ mẫu
giáo 5 tuổi được chuẩn bị tiếng Việt. 100% trẻ 4, 5 tuổi tại Hà Tĩnh được làm
quen với tiếng Việt tại lớp mẫu giáo. Học sinh dân tộc thiểu số học tiếng Việt 1
theo chương trình công nghệ giáo dục đã đạt được hiệu quả cao tại Lào Cai, Tây
Ninh, Kon Tum… Nhiều tỉnh miền núi đã tổ chức chương trình giao lưu “Tiếng
Việt của chúng em” cho học sinh dân tộc thiểu số (Quảng Bình, Lào Cai, Quảng
Nam, Lạng Sơn, Đồng Nai, Đắc Nông, Bình Phước…). Các tỉnh miền núi phía
Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên đã quan tâm bồi dưỡng chuyên
môn và tiếng dân tộc cho giáo viên dạy vùng dân tộc thiểu số.
Năm học 2009-2010, cả nước duy trì dạy 7 thứ tiếng dân tộc Chăm,

Khmer, Êđê, Bahnar, Jrai, Hmông, Hoa trong trường phổ thông tại 20 tỉnh
trong 751 trường, 4.905 lớp cho 112.180 học sinh (thêm 2 tỉnh so với năm
học 2008-2009).
Các dự án ODA, các tổ chức phi chính phủ tổ chức nhiều hoạt động bồi
dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên.
Các chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục dân tộc được thực hiện
nghiêm túc. Đặc biệt, chính sách đối với giáo viên, hỗ trợ học sinh nghèo, học
12
sinh trường PTDTBT, chủ trương cấp sách giáo khoa, giấy, vở viết không thu
tiền cho học sinh ở địa bàn khó khăn. Ngoài ra, một số tỉnh có chế độ chính sách
cho học sinh nghèo, tỉnh Quảng Nam hỗ trợ học tập cho 11.017 học sinh THCS
và THPT; tỉnh Lào Cai có 3.900 học sinh phổ thông được tỉnh hỗ trợ kinh phí
học tập
Triển khai đề án về phát triển giáo dục ở 62 huyện nghèo, Bộ GDĐT đã
xây dựng Kế hoạch số 384/KH-BGDĐT ngày 09/6/2009 thực hiện Nghị quyết
số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo; cụ thể hoá mục tiêu,
nhiệm vụ thuộc lĩnh vực GDĐT theo Nghị quyết 30a của Chính phủ.
Bộ GDĐT đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các
Bộ ngành liên quan xây dựng tiêu chí, hướng dẫn các huyện nghèo lập kế hoạch
thực hiện các cơ chế, chính sách trong khuôn khổ Đề án giảm nghèo của các
huyện. Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên
tại 62 huyện nghèo giai đoạn 2008 - 2012, đã triển khai xây dựng 4.737 phòng
học và 4.018 phòng công vụ giáo viên với tổng kinh phí đầu tư là 1.115 tỷ đồng.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông,
đổi mới phương pháp dạy học ở vùng dân tộc, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc
biệt khó khăn còn đạt hiệu quả chưa cao. Chế độ chính sách đối với giáo viên và học
sinh dân tộc đã được quan tâm song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
b) Công tác giáo dục trẻ khuyết tật cũng có nhiều chuyển biến tích cực, số
trẻ khuyết tật mầm non học hoà nhập là 15.349, đạt tỷ lệ 62.8% tổng số trẻ

khuyết tật mầm non. Có 290.000 học sinh khuyết tật tiểu học, THCS học hòa
nhập tại các cơ sở giáo dục phổ thông; 7.583 học sinh khuyết tật học tại 106 cơ
sở giáo dục chuyên biệt. Bộ đã ban hành Thông tư số 39/2009/TT-BGDĐT ngày
29/12/2009 về quy định giáo dục hòa nhập trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; tổ
chức 3 lớp tập huấn kỹ năng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật mầm non cho cán
bộ quản lý và giáo viên cốt cán của các tỉnh Tuyên Quang, Bến Tre và Bình
Thuận; hỗ trợ cho 2 trung tâm cấp tỉnh phát triển giáo dục hòa nhập (An Giang,
Cao Bằng); tổ chức Hội thảo cấp quốc gia “Định hướng xây dựng Trung tâm hỗ
trợ và phát triển giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật”; tổ chức tuyên dương và giao
lưu giáo viên dạy giỏi trẻ khuyết tật toàn quốc lần thứ 2, trao tặng Bằng khen
của Bộ trưởng cho 184 giáo viên và cán bộ quản lý cho công tác này; tổ chức
tổng kết chương trình thí điểm mô hình Giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật
cấp THCS tại 2 tỉnh Ninh Bình và Quảng Nam.
3.2.7. Công tác giáo dục quốc phòng - an ninh (GDQP-AN)
Các Sở chỉ đạo dạy theo phân phối chương trình, tăng cường cơ sở vật
chất, đội ngũ giáo viên để nâng cao chất lượng dạy và học, chú trọng giáo dục
lịch sử truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ trang
nhân dân; rèn luyện nếp sống và đạo đức cho học sinh, sinh viên. Đến nay đã có
13
1995/2573 trường THPT (chiếm 77,5%) tổ chức dạy theo phân phối chương
trình; 471/2573 trường THPT (chiếm 18,3%) dạy kết hợp phân phối chương
trình và dạy tập trung.
Các trường trung cấp chuyên nghiệp tổ chức liên kết, thỉnh giảng với các
cơ quan quân sự địa phương, các trường có khoa giáo dục quốc phòng để bảo
đảm đủ thời gian và nội dung theo chương trình.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên được tăng cường. Các địa phương
chưa có hoặc còn thiếu giáo viên đã chủ động liên kết đào tạo ngắn hạn (6
tháng) giáo viên GDQP-AN từ các giáo viên thuộc biên chế. Đến nay có trên
1.000 giáo viên GDQP-AN đào tạo dài hạn ghép môn đã tốt nghiệp; trên 2.000
sinh viên đang tiếp tục được đào tạo, về cơ bản đã đủ về số lượng giáo viên cho

các trường THPT, tuy nhiên chủ yếu là giáo viên kiêm nhiệm, chưa đạt chuẩn về
chuyên môn.
Bộ đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác thiết bị dạy học GDQP-AN giai
đoạn 2006-2009, kiện toàn và ban hành danh mục thiết bị dạy học và danh mục bộ
mẫu thiết bị tối thiểu môn học GDQP-AN của các trường THPT, TCCN, ĐH, CĐ.
3.2.8. Công tác học sinh, sinh viên (HSSV)
Trong năm học 2009-2010, công tác giáo dục thể chất và y tế trường học
tiếp tục được tăng cường. Các hoạt động văn hoá, thể thao trong HSSV được tổ
chức thường xuyên, theo định kỳ đã thực sự là sân chơi bổ ích, giúp HSSV định
hướng, nâng cao thẩm mỹ và rèn luyện thân thể, thu hút sự tham gia tích cực của
các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cùng tham gia vào các hoạt động
giáo dục toàn diện HSSV. Bộ đã chỉ đạo, hướng dẫn các Sở, các trường trung
cấp chuyên nghiệp tổ chức tổng kết việc thực hiện Chỉ thị 17/CT-TW của Ban
Bí thư Trung ương Đảng về việc phát triển thể dục thể thao đến năm 2010;
thường xuyên tổ chức các hoạt động thể dục thể thao cho cán bộ giáo viên học
sinh, sinh viên tại các cơ sở trường học và tham gia các hoạt động thể thao cấp
tỉnh, khu vực và cấp toàn quốc như: Hội thao Điền kinh và Thể thao quốc
phòng; Hội thi Văn hoá - Thể thao các trường dân tộc nội trú toàn quốc; Hội thi
Thể thao học sinh khuyết tật lần thứ III; giải Bóng đá học sinh Tiểu học và
Trung học cơ sở Cúp Millo 2010; giải Cầu lông giáo viên và sinh viên. Tham
gia các hoạt động thể thao học sinh quốc tế như: tham dự Đại hội Olympic thể
thao học sinh Tiểu học Đông Nam Á lần thứ III tại Indonesia, xếp thứ 5 toàn
đoàn; Tham dự Đại hội thể thao học sinh Đông Nam Á lần thứ II, xếp thứ 4 toàn
đoàn với 11 huy chương Vàng. Theo định kỳ Bộ tổ chức tập huấn nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên TDTT và tổ chức Hội nghị
khoa học giáo dục thể chất và y tế trường học lần thứ V. Phối hợp với các Bộ
ngành, tổ chức quốc tế tổ chức các lớp tập huấn về bơi an toàn và chống đuối
nước; tổ chức các lớp dạy bơi thí điểm cho học sinh tiểu học như Hải Dương, Đà
Nẵng, TP Hồ Chí Minh.
14

Các Sở GDĐT, các nhà trường đã tổ chức tổng kết Chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm và phòng chống ma tuý giai đoạn 2006-2010, chuẩn bị tổ
chức tổng kết toàn quốc vào tháng 11/2010. Hưởng ứng tháng hành động về
phòng chống tệ nạn ma tuý, Bộ GDĐT đã phối hợp với Bộ Công an tổ chức Lễ
ra quân, hội thảo về phòng chống ma tuý trong trường học, đồng thời tổ chức
cuộc gặp mặt điển hình “Chung tay giảm cầu ma tuý, HIV/AIDS trong thanh
thiếu niên và học sinh, sinh viên”.
Công tác giáo dục an toàn giao thông tiếp tục được coi trọng, Bộ đã ban
hành đề cương tuyên truyền, phổ biến Luật Giao thông đường bộ cho HSSV
(Quyết định số 3442/QĐ-BGDĐT ngày 12/5/2009); có văn bản hướng dẫn triển
khai giáo dục “Văn hoá giao thông”; tổ chức hội nghị sơ kết 02 năm thực hiện
cuộc vận động “Học sinh, sinh viên gương mẫu và vận động gia đình chấp hành
nghiêm túc luật giao thông”.
Công tác y tế trường học được quan tâm, chỉ đạo sát với thực tiễn. Bộ đã
xây dựng Kế hoạch hành động khẩn cấp của ngành Giáo dục về phòng chống đại
dịch cúm A(H1N1), xây dựng bộ tài liệu truyền thông phòng chống dịch cúm ở
người và triển khai nhiều giải pháp có hiệu quả để ngăn chặn sự lây lan của dịch
trong các trường học. Đã phối hợp với tổ chức Cứu trợ trẻ em biên soạn và thử
nghiệm chương trình giáo dục sức khoẻ sinh sản và phòng chống HIV/AIDS cho
học sinh trung học; thiết kế và cung cấp mẫu công trình vệ sinh nước sạch trong
các trường mầm non và phổ thông cho các Sở GDĐT, đồng thời thiết kế công
trình vệ sinh cho trường học có học sinh khuyết tật; tổ chức tiếp nhận và cung
cấp hàng cứu trợ khẩn cấp trị giá 100.000 USD do Unicef tài trợ cho 5 tỉnh:
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Định và Phú Yên.
4. Phát triển mạng lưới trường, lớp; huy động các nguồn lực phục vụ
phát triển giáo dục và tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục
4.1. Phát triển quy mô trường lớp (biểu 1- phụ lục 1)
Năm học 2009 - 2010, tổng số trường phổ thông là 28.407 (tăng so với
năm học trước là 323 trường), trong đó công lập 27.803, ngoài công lập 604.
Chia ra, tiểu học 15.172 trường, THCS 10.060 trường, PTCS 620 trường, Trung

học (Cấp 2-3) 319 trường, trung học phổ thông 2.236 trường. Tổng số trường
mầm non có 12.357 trường (tăng so với năm học trước 167 trường), trong đó
công lập 7.035 trường, ngoài công lập 5.322 trường.
Số trẻ đến trường mầm non là 3.405.194 cháu (tăng 99.493 cháu so với
năm học trước). Trong đó, số trẻ ngoài công lập là 1.525.805, chiếm tỷ lệ 44,8%
tổng số; số trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường là 1.293.921, đạt tỷ lệ 98,7% trẻ trong
độ tuổi. Tổng số học sinh phổ thông là 15.016.156 em (giảm so với năm 2009-
2010 là 195.864 em), trong đó ngoài công lập là 538.606 em (chiếm 3,59%), học
sinh tiểu học là 6.922.624, học sinh THCS 5.214.042, học sinh THPT là
2.879.490.
15
Các trường TCCN được củng cố và phát triển, mở rộng quy mô đào tạo,
cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, có
553 cơ sở có đào tạo TCCN, trong đó: 246 trường trung cấp chuyên nghiệp, 201
trường cao đẳng đào tạo TCCN, 74 trường đào tạo TCCN, 32 cơ sở, khác đào
tạo TCCN.
Mạng lưới cơ sở GDTX tiếp tục phát triển về số lượng và mở rộng ở các địa
bàn, cả nước có 69 Trung tâm GDTX cấp tỉnh (tăng 2 trung tâm), có 615 trung tâm
GDTX cấp huyện (tăng 13 trung tâm). Có 9.990 Trung tâm học tập cộng đồng (tăng
449 trung tâm) chiếm tỷ lệ 89,96% số xã phường thị trấn. Huy động được 30.171
học viên học chương trình Xoá mù chữ; 26.622 học viên học chương trình Giáo dục
tiếp tục sau khi biết chữ; 81.031 học viên học chương trình GDTX THCS; 286.077
học viên học chương trình THPT; 238.056 người học cấp chứng chỉ tin học, công
nghệ thông tin truyền thông; 215.525 người học cấp chứng chỉ ngoại ngữ;
13.937.784 lượt người học chuyên đề; 318.254 người học nghề ngắn hạn.
4.2. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia
Năm học 2009-2010, đã công nhận số trường đạt chuẩn là: 387 trường mầm
non, 213 trường tiểu học (trong đó có 45 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ
2), 339 trường THCS, 71 trường THPT. Nâng số lượng và tỷ lệ trường đạt chuẩn
quốc gia ở mỗi cấp học lên: 2014 trường mầm non (15,8%); 5469 trường tiểu học

(36,6%), 1.912 trường THCS (17,7%), 272 trường THPT (9,5%).
Tỉnh có tỷ lệ trường mầm non đạt chuẩn quốc gia cao là Vĩnh Phúc
(54,2%) và Bắc Ninh (54,1%); tỷ lệ đạt trường THCS chuẩn quốc gia cao là
Bình Định (50,7%), Hà Tĩnh (48,5%), Bắc Ninh (47,0%); tỷ lệ đạt trường
THPT chuẩn quốc gia cao là Hải Phòng (30%), Quảng Ninh (25,7%), Bà Rịa -
Vũng Tàu (25,8%), Khánh Hòa (25%).
4.3. Kết quả thực hiện Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ
cho giáo viên năm 2009 và tình hình thực hiện 3 tháng đầu năm 2010
Theo báo cáo sơ kết giữa kỳ thực hiện Đề án kiên cố hóa trường, lớp học
và nhà công vụ giáo viên giai đoạn 2008-2012, tổng số nguồn vốn đầu tư thực
hiện Đề án năm 2009 là 7.044,380 tỷ đồng, trong đó: Vốn Trái phiếu Chính phủ
giao cho các địa phương là 4.500 tỷ đồng; đã giải ngân là 4.250 tỷ đồng, đạt
94,5% so với số vốn được giao.
Các nguồn vốn từ ngân sách địa phương và huy động xã hội hóa là
2.544,380 tỷ đồng, trong đó ngân sách địa phương là 2.263,863 tỷ đồng và xã
hội hóa là 280,517 tỷ đồng.
Năm 2009, số phòng học hoàn thành đưa vào sử dụng là 22.078/33.434
phòng, đạt 66,0% kế hoạch. Số nhà công vụ giáo viên đã hoàn thành đưa vào sử
dụng là 6.664/9.476 nhà, đạt 70,3% kế hoạch.
Năm 2010, kế hoạch xây dựng phòng học là 27.888 phòng; Trong 4
tháng đầu, số phòng học đã triển khai xây dựng là 12.132 phòng, đạt 43,5% kế
hoạch; số phòng học đã hoàn thành đưa vào sử dụng là 1.132 phòng, đạt 4,1%
16
kế hoạch. Kế hoạch xây dựng nhà công vụ là 6.109, trong đó số phòng đã triển
khai xây dựng là 1.552 , đạt 25,4% kế hoạch; số nhà đã hoàn thành đưa vào sử
dụng là 477, đạt 7,8% kế hoạch. Số vốn trái phiếu Chính phủ giao đã giải ngân
là 2.256,703 tỷ đồng, đạt 50,2% so với số vốn được giao. Có 10 địa phương đã
giải ngân đạt trên 90% (An Giang, Hà Nam, Lạng Sơn, Cà Mau, Sóc Trăng, Hậu
Giang, Gia Lai, Cần Thơ, Vĩnh Phúc và Ninh Bình).
4.4. Công tác cung ứng sách giáo khoa, thiết bị, thư viện

Công tác thiết bị dạy học đã có nhiều tiến bộ, đã có khoảng 90% phòng
học, 66% phòng bộ môn và 71% phòng thiết bị dạy học đáp ứng tốt yêu cầu
phục vụ khai thác, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học. Vĩnh Phúc là đơn vị
tiêu biểu trong việc chủ động đầu tư các phòng học bộ môn (trường THPT Trần
Phú, tỉnh Vĩnh Phúc có 5 phòng học bộ môn Vật Lý, 4 phòng bộ môn Sinh, 4
phòng bộ môn Hóa, 1 phòng thực hành, 2 phòng máy tính và 2 phòng Lab). Công
tác bảo quản, khai thác sử dụng có nền nếp hơn, các trường đều có sổ sách theo dõi
số lượng và số lượt sử dụng thiết bị dạy học, các Sở đều đã tổ chức các lớp tập
huấn cho cán bộ, giáo viên và nhân viên.
Tuy nhiên, vẫn có nơi mua thiết bị muộn, không đúng thủ tục, chưa đảm
bảo chất lượng; đội ngũ giáo viên, viên chức làm công tác thiết bị chưa được
đào tạo chính quy; không được đảm bảo chế độ chính sách.
Sách giáo khoa được phát hành đầy đủ, kịp thời đến các địa phương ngay
trong dịp hè 2009. Với số lượng là 87,8 triệu bản. Đã tổ chức phát hành nhiều
xuất bản phẩm khác như tranh ảnh, bản đồ giáo khoa, băng, đĩa CD giáo khoa, sách
tham khảo các loại, các tạp chí, tập vở học sinh.
Tỷ lệ trường phổ thông có thư viện và tủ sách giáo khoa dùng chung trên
địa bàn cả nước là 24.746/27.541 trường (89,9%), trong đó có 49,3% thư viện
đạt tiêu chuẩn. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tiếp tục hỗ trợ kinh phí và cử
cán bộ giúp các địa phương tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên
thư viện, tặng sách, thiết bị thư viện trường học. Đến nay SGK và các sản phẩm
giáo dục phục vụ năm học 2010-2011 đã được tổ chức cung ứng đến tất cả các
tỉnh, thành phố.
4.5. Huy động các nguồn lực phục vụ phát triển giáo dục
Tháng 1 năm 2010, Bộ GDĐT đã tổ chức Lễ Tuyên dương các doanh
nghiệp, các nhà hảo tâm đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp GDĐT lần thứ hai,
biểu dương, tặng bằng khen của Chính phủ, kỷ niệm chương cho 408 tổ chức,
doanh nghiệp và nhà hảo tâm. Tổng nguồn lực do các doanh nghiệp và các nhà
hảo tâm trong và ngoài nước đóng góp trong vòng 2 năm là: 1.293 tỷ 572 triệu
đồng; 17,856 triệu USD; 276.828 EUR và 167.127 m

2
đất.
Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực GDĐT,
tranh thủ hợp tác quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập với giáo dục quốc tế. Đổi
mới hoạt động của các Ban quản lý dự án ODA nhằm tăng cường gắn kết hoạt
động của các dự án với việc triển khai các nhiệm vụ của ngành.
17
Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn sửa chữa các
phòng học cho 23 tỉnh tham gia dự án với tổng kinh phí 180 tỷ đồng tại 536 điểm
trường bao gồm 2.933 phòng học, 134 phòng giáo viên, 286 nhà vệ sinh và 145
công trình nước; đã phân bổ 46 tỷ đồng cho 8 tỉnh để nâng cấp trường học cho các
dân tộc đặc biệt ít người; tổ chức tập huấn, in ấn tài liệu, làm đĩa CD phục vụ thí
điểm dạy tăng cường Tiếng Việt, dạy học hòa nhập cho trẻ khó khăn.
Dự án Phát triển Giáo dục THCS II đã tập huấn về đổi mới phương pháp
dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, tập huấn
triển khai chuẩn hiệu trưởng và chuẩn nghề nghiệp giáo viên; tổ chức phong trào
thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực": tổ chức cuộc thi
“Sáng tạo giáo dục", tập huấn về "Câu lạc bộ học sinh", giáo dục kỹ năng sống,
dạy hát dân ca, tổ chức giao lưu các điển hình tiên tiến của phong trào.
Dự án Giáo dục THCS vùng khó khăn nhất đã tập huấn nghiệp vụ quản lý
và lập kế hoạch cho 1.415 cán bộ quản lý giáo dục. Tập huấn phương pháp học
tích cực, hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng, hướng dẫn phụ đạo học
sinh yếu, kém cho giáo viên cốt cán khu vực miền Trung, Tây nguyên, cho 200
giáo viên thuộc 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Dự án Phát triển GDTHPT đã tập huấn về năng lực quản lý cho hiệu
trưởng các trường THPT trong toàn quốc; cung cấp 46.286 cuốn Sổ tay tư vấn
hướng nghiệp và chọn nghề cho tất cả các trường THPT; tập hợp được 12.000
câu hỏi và bài tập 10 môn THPT cho việc xây dựng thư viện câu hỏi và bài tập;
đưa vào sử dụng 345 phòng học mới; đã cung cấp thiết bị dạy học cho 64 trường
chuẩn quốc gia, 17 trung tâm giáo dục kĩ thuật tổng hợp hướng nghiệp và 28

trường xây mới
Dự án Phát triển Giáo viên THPT&TCCN đã hoàn thành việc xây dựng
chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học và chuẩn hiệu trưởng trường trung học;
hoàn thành 54 bộ tài liệu cho giáo viên và cán bộ quản lý; bồi dưỡng 1.471 giáo
viên THPT và TCCN; bồi dưỡng 4.831 cán bộ quản lý giáo dục. Cấp 2.340 suất
học bổng cho sinh viên người dân tộc thiểu số được đào tạo thành giáo viên
THPT và TCCN.
Dự án Hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục (SREM) đã hoàn thành việc biên
tập 6 cuốn sách của Bộ Tài liệu dùng cho cán bộ quản lý trường phổ thông in và
phát hành tới 15.000 hiệu trưởng, tập huấn 350 giảng viên cốt cán của 63
tỉnh/thành phố. Các tỉnh đã tập huấn cho 12.928 hiệu trưởng, phó hiệu trưởng,
nâng cao năng lực quản lý của cán bộ quản lý trên cơ sở thực hiện phương châm
“làm đúng ngay từ đầu”. Dự án đã xây dựng các phần mềm quản lý dùng chung, 63
Sở GDĐT đã được sử dụng 2 phần mềm nâng cấp (PMIS và EMIS).
Dự án Việt - Bỉ mở rộng bồi dưỡng về phương pháp dạy học tích cực,
nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ra các trường sư phạm và các Sở GDĐT
trong toàn quốc.
18
5. Chăm lo và đầu tư cho phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục
Một số địa phương đã chủ động triển khai thực hiện đánh giá, xếp loại
hiệu trưởng, giáo viên theo chuẩn quy định (Lâm Đồng). Hiện nay, dự thảo
Chuẩn nghiệp vụ sư phạm giáo viên TCCN, Chuẩn giám đốc trung tâm giáo dục
thường xuyên, Chuẩn hiệu trưởng trường mầm non, Chuẩn hiệu trưởng trường
tiểu học đang xin ý kiến góp ý, dự kiến ban hành cuối năm 2010.
Quy mô tuyển sinh vào hệ chính quy đại học sư phạm hằng năm từ 22.500
đến 23.000 sinh viên; cao đẳng sư phạm từ 24.500 đến 26.000 sinh viên, đã góp
phần quan trọng trong việc giải quyết tình trạng thiếu giáo viên mầm non, phổ
thông ở các cơ sở giáo dục. Một số tỉnh thực hiện tốt việc tuyển dụng giáo viên
theo Quyết định số 62/2007/QĐ-BGDĐT là Hải Dương, Nghệ An, Quảng Trị.

Tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ ở
các tỉnh đều đạt trên 90%. Trên 30.000 lượt nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
của các cấp đã được tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng do Bộ tổ chức hay trực
tiếp chỉ đạo (chưa kể các khóa bồi dưỡng do địa phương tổ chức). Nổi bật là các
khóa bồi dưỡng hiệu trưởng phổ thông theo chương trình liên kết Việt Nam -
Singapore cho trên 13.000 hiệu trưởng các trường phổ thông. Chương trình bước
đầu đã phát huy tác dụng tích cực trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán
bộ quản lý cơ sở giáo dục tiểu học, THCS, THPT.
Bộ đã ban hành Thông tư 28/2009/TT-BGDĐT ngày 22/10/2009 về chế độ
công tác của giáo viên phổ thông thay thế Thông tư số 49TT/GD ban hành từ năm
1979, góp phần giải quyết các bất cập tồn tại từ nhiều năm nay đối với đội ngũ giáo
viên phổ thông. Hiện nay, Bộ đang tiếp tục rà soát, chỉnh sửa Thông tư
71/2007/TTLT/BG ĐT-BNV về định mức, biên chế của giáo viên mầm non và
đang xây dựng Thông tư về định mức biên chế, chế độ làm việc của giáo viên,
nhân viên trong các Trung tâm giáo dục thường xuyên.
Tuy nhiên, công tác đào tạo giáo viên chưa thực sự gắn kết với nhu cầu sử
dụng của từng địa phương, vùng miền; đội ngũ nhà giáo vẫn còn thiếu so với
quy định, đặc biệt ở các vùng dân tộc, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt
khó khăn; cơ cấu đội ngũ chưa đồng bộ; chất lượng đội ngũ chưa tương xúng
với tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn đào tạo; vẫn còn tình trạng vi phạm đạo đức nhà
giáo. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chưa đồng đều và chưa đáp ứng yêu cầu đặt
ra. Công tác xây dựng quy hoạch, phát triển đội ngũ chưa được các cấp quản lý
quan tâm đúng mức.
III. Kết quả công tác Thi đua – Khen thưởng năm học 2009-2010
Nhìn chung, công tác thi đua khen thưởng của ngành đã đi vào nền nếp.
Cụm thi đua theo vùng miền tiếp tục triển khai và đánh giá các hoạt động thi đua
một cách độc lập qua ký giao ước, kiểm tra và suy tôn của vùng. Căn cứ kết quả
đánh giá thi đua của các vùng và theo dõi đánh giá của các Vụ, Cục, Hội đồng
19
Thi đua - Khen thưởng của ngành đã xem xét và đánh giá khen thưởng về công

tác thi đua năm học 2009- 2010, cụ thể như sau:
- Tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Cờ thi đua của Bộ GDĐT
cho 10 Sở GDĐT đạt thành tích xuất sắc dẫn đầu các vùng thi đua trong năm học;
- Tặng Cờ thi đua của Bộ GDĐT cho 18 Sở GDĐT đạt thành tích xuất
sắc, đứng thứ nhì các vùng thi đua trong năm học;
- Tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ GDĐT cho 26 Sở GDĐT về thành
tích xuất sắc trong các mặt công tác;
- Khen thưởng 368 lĩnh vực công tác thuộc Sở GDĐT đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ.
IV. Đánh giá chung
1. Kết quả nổi bật năm học 2009-2010
1.1. Các cuộc vận động và phong trào thi đua của ngành ngày càng đi
vào chiều sâu và có hiệu quả rõ rệt: năm thứ 4 thực hiện Chỉ thị số 33 của Thủ
tướng Chính phủ tiếp tục được cụ thể hóa với những công việc cụ thể, thiết thực;
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” sau 2
năm triển khai đã có sức lan tỏa mạnh mẽ với sự huy động sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng xã hội, cùng chung tay phối hợp thực hiện giáo dục toàn diện
học sinh; các cơ sở giáo dục đã vận dụng sáng tạo nội dung cuộc vận động "Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; cuộc vận động “Mỗi thầy
giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” tiếp tục được triển
khai với nhiều hình thức và phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả, mỗi giáo
viên có một đổi mới dạy học, mỗi cán bộ quản lý có một đổi mới trong công tác
quản lý của mình đã bước đầu được triển khai.
1.2. Trong năm qua, Quốc hội, Chính phủ và Bộ GDĐT đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về giáo dục. Những văn bản này
phát huy tác dụng điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, thể chế hoá
các quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục trong tình hình mới;
có tác động sâu sắc, nhanh chóng tới việc nâng cao chất lượng tổ chức, hoạt
động giáo dục và đổi mới quản lý giáo dục, tạo hành lang pháp lý căn bản,
không thể thiếu cho việc đẩy mạnh đổi mới quản lý để nâng cao chất lượng giáo

dục Việt Nam trong thời gian tới.
1.3. Công tác đổi mới quản lý giáo dục được đẩy mạnh và có chuyển biến
tích cực trong việc tập trung đổi mới nội dung bồi dưỡng hiệu trưởng trường phổ
thông theo hướng gắn hoạt động với tầm nhìn lãnh đạo, bồi dưỡng năng lực
quản lý thích ứng trong điều kiện có nhiều thay đổi với vai trò tự chủ của nhà
trường; thực hiện 3 công khai đã bước đầu nhận được sự đồng thuận của các cơ
sở giáo dục và xã hội; công tác quy hoạch được chú trọng, quản lý nhà nước về
giáo dục đã có tiến bộ, trong đó quản lý chất lượng giáo dục được thực hiện
20
ngày một thực chất hơn và được triển khai ở tất cả các tỉnh, thành; việc thực hiện
phối hợp công tác của ngành với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng 3 đoàn thể
(Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Khuyến học
Việt Nam) ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả cụ thể.
1.4. Triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện như: Thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới. Giáo dục phổ
thông tiếp tục đánh giá sâu và điều chỉnh chương trình ở một số môn học; thực
hiện tích hợp một số nội dung trong giảng dạy; hướng dẫn dạy học dựa trên
chuẩn kiến thức, kĩ năng; chú trọng phụ đạo cho học sinh yếu kém, tỉ lệ học sinh
bỏ học giảm; kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2010 được thực hiện nghiêm túc, an
toàn, khách quan và công bằng; tất cả các tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo
dục trung học cơ sở, hoàn thành trước 6 tháng so với kế hoạch. Giáo dục thường
xuyên, giáo dục chuyên nghiệp thực hiện đa dạng nội dung chương trình. Giáo
dục dân tộc được quan tâm đầu tư và nâng cao chất lượng.
1.5. Quy mô phát triển trường lớp của các cấp học, loại hình học tập đều
tăng; các trường trung cấp chuyên nghiệp được củng cố và phát triển, mở rộng
quy mô và ngành nghề đào tạo; tăng số lượng các trung tâm giáo dục thường
xuyên cấp tỉnh, huyện và trung tâm học tập cộng đồng. Chương trình kiên cố
hóa trường lớp và xây nhà công vụ giáo viên được đẩy nhanh và đã hoàn thành
trên 50% chỉ tiêu kế hoạch, hạ tầng công nghệ thông tin được cải thiện. Các
nguồn lực từ ngân sách nhà nước, từ hợp tác quốc tế cho giáo dục tiếp tục được

tăng cường.
2. Hạn chế, yếu kém
2.1. Chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; ở
các vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn học sinh yếu kém còn
chiếm tỷ lệ khá cao, việc huy động học sinh ra lớp và duy trì tỷ lệ đi học chuyên
cần vẫn còn nhiều khó khăn; việc phân luồng học sinh THCS và giáo dục hướng
nghiệp chưa hiệu quả.
2.2. Công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có tiến bộ lớn nhưng
vẫn còn chậm so với kế hoạch và thiếu đồng bộ. Một số địa phương chưa chủ
động trong việc góp ý cho các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hoặc nghiên
cứu triển khai các văn bản quy phạm pháp luật mới; chưa thực hiện tốt chế độ
báo cáo, thông tin. Công tác cải cách hành chính, ứng dụng CNTT vào quản lý
còn chậm.
2.3. Đa số các địa phương còn thiếu giáo viên tiểu học để đáp ứng yêu cầu
dạy học 2 buổi / ngày. Các vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế xã
hội đặc biệt khó khăn đội ngũ nhà giáo vẫn còn thiếu, cơ cấu đội ngũ chưa đồng
bộ; chất lượng đội ngũ chưa tương xứng với tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn đào tạo;
vẫn còn tình trạng vi phạm đạo đức nhà giáo. Công tác xây dựng quy hoạch,
phát triển đội ngũ chưa được các cấp quản lý quan tâm đúng mức.
21
Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập
vẫn còn nhiều hạn chế; việc ứng dụng CNTT trong dạy học chưa linh hoạt, nhất
là ở vùng sâu, vùng xa việc khắc phục tình trạng dạy học theo cách "đọc chép"
chưa được tích cực chỉ đạo ở nhiều nơi.
2.4. Nhiều trường học chưa đảm bảo vệ sinh, thiếu nước sạch; thư viện
còn nghèo nàn, phòng học bộ môn còn hạn chế về số lượng, chất lượng và hiệu
quả sử dụng còn thấp.
3. Bài học kinh nghiệm
3.1. Để phát triển giáo dục một cách hiệu quả cần nắm vững và vận dụng các
quan điểm: Phát triển giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân từ đó

ngành Giáo dục phải tích cực tham mưu cho Đảng, chính quyền các cấp, chủ động
phối hợp với các ngành, các tổ chức đoàn thể thực hiện các chương trình, kế hoạch
cụ thể và chiến lược phát triển lâu dài của Giáo dục và Đào tạo.
3.2. Việc đổi mới quản lý là điều kiện tiên quyết trong việc nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục. Muốn đổi mới quản lý thành công đòi hỏi các cấp quản
lý giáo dục phải đổi mới nhận thức về nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, thường xuyên là
quản lý chất lượng giáo dục. Triển khai việc đổi mới được tiến hành kiên quyết và
đồng bộ từ việc hình thành khung luật pháp, tăng cường năng lực đội ngũ quản lý,
tổ chức bộ máy và các điều kiện cần thiết về tài chính, nguồn lực và thông tin để
đổi mới hiệu quả.
3.3. Các cấp quản lý giáo dục phải chủ động, tích cực đề xuất với các cấp có
thẩm quyền những vấn đề có tính chiến lược cho phát triển giáo dục. Phải bám sát
thực tiễn, bám sát cơ sở; có ý thức tìm tòi, phát hiện và nhân rộng mô hình tốt; giải
quyết kịp thời dứt điểm những vướng mắc, phát sinh.
3.4. Đẩy mạnh các cuộc vận động và phong trào thi đua trong ngành với
những giải pháp sáng tạo, linh hoạt phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh là giải
pháp tích cực, chủ động để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện
của mỗi địa phương, mỗi đơn vị trường học.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM HỌC 2010-2011
Quán triệt Kết luận số 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), phương hướng phát
triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020; căn cứ các nghị quyết của Quốc hội về
phổ cập giáo dục trung học cơ sở và đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ
thông, Nghị quyết 35/2009/QH12 của Quốc hội XII về chủ trương, định hướng
đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 -
2011 đến năm học 2014 - 2015;
22
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị
về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tiếp tục

phát huy các kết quả đạt được sau 4 năm thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg
ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh
thành tích trong giáo dục; trên cơ sở phát huy những kết quả đã đạt được trong giai
đoạn 2 của Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010, kết quả năm học 2009 -
2010 và căn cứ tình hình thực tế phát triển giáo dục và đào tạo;
Toàn ngành Giáo dục và Đào tạo xác định chủ đề năm học 2010-2011 là
“Năm học tiếp tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”, tập trung
thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau đây:
1. Tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục
1.1. Thực hiện tốt hơn quyền chủ động của cơ sở trong phân cấp quản lý
giáo dục và phối hợp quản lý hệ thống giáo dục quốc dân:
- Trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định trách nhiệm của các cấp
quản lý giáo dục nhằm tạo sự phối hợp đồng bộ giữa Bộ GDĐT với UBND các
tỉnh, thành phố và với các bộ ngành khác trong quản lý hệ thống giáo dục quốc
dân, nhất là quản lý các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp.
- Tiếp tục triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 35/2008/TTLT-
BGDĐT-BNV ngày 14/7/2008 của Bộ GDĐT và Bộ Nội vụ trong đó tập trung
thực hiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Sở Giáo dục và Đào tạo. Tăng cường về tổ chức và năng lực của các Sở
GDĐT để giúp UBND tỉnh, thành phố quản lý các trường đại học, cao đẳng trên
địa bàn.
- Các Sở GDĐT nhận xét góp ý công tác chỉ đạo của Bộ trong triển khai
các nhiệm vụ của giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên và
trung cấp chuyên nghiệp. Xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện vào năm học
2011-2012.
1.2. Rút kinh nghiệm và triển khai tốt hơn Thông tư liên tịch số
07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15/4/2009 về hướng dẫn thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế đối với
đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo để thực hiện Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ; Thông tư số 09/2009/TT-

BGDĐT ngày 07/5/2009 về Quy chế thực hiện công khai đối với các cơ sở giáo
dục của hệ thống giáo dục quốc dân từ bậc mầm non đến đại học.
1.3. Hoàn thành việc chuyển đổi loại hình trường theo Thông tư số
11/2009/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định
về trình tự thủ tục chuyển đổi các loại hình trường.
1.4. Bộ GDĐT tổ chức tổng kết Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn
2001-2010. Hoàn thiện và triển khai Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam
23
giai đoạn 2011-2020. Tham gia xây dựng Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI về
lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
1.5. Các Sở GDĐT hoàn thành xây dựng "Quy hoạch phát triển giáo dục
của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến 2020" để trình Hội đồng nhân
dân và UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt. Trên cơ sở quy hoạch của các địa
phương, Bộ GDĐT xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ
quản lý của cả nước.
1.6. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về công tác thông tin cho xã hội, lắng
nghe ý kiến xã hội thông qua trang thông tin điện tử của Bộ, Báo điện tử Giáo
dục và Thời đại của ngành và các phương tiện thông tin đại chúng. Tiếp tục thực
hiện chương trình phối hợp tuyên truyền về công tác giáo dục và đào tạo với Đài
Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam.
1.7. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục. Thống nhất quản lý nhà
nước về ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo. Tích cực áp dụng hình thức
tổ chức hội nghị, hội thảo, tập huấn, họp, trao đổi công tác qua mạng Internet.
Tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong ngành.
Triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển nhân lực CNTT đến năm 2015 và
định hướng đến năm 2020 (Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ
tướng Chính phủ). Tuyển chọn, cung cấp miễn phí các phần mềm quản lý học sinh,
quản lý giáo viên, hỗ trợ sắp xếp thời khoá biểu, quản lý thư viện trường học, quản
lý phổ cập giáo dục; hướng dẫn mua hoặc cung cấp phần mềm ứng dụng.
1.8. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, triển khai rà soát và đơn giản hóa

các thủ tục hành chính trong lĩnh vực giáo dục; xây dựng và triển khai thực hiện tin
học hoá công tác quản lý ở các cấp quản lý giáo dục và ở các cơ sở giáo dục và đào
tạo. Đưa vào nền nếp chế độ báo cáo của các cấp quản lý giáo dục từ Bộ tới Sở,
Phòng và cơ sở giáo dục nhằm quản lý thông tin chính xác, kịp thời và đẩy đủ.
Nghiên cứu để thống nhất bộ tiêu chí đánh giá nhà trường đáp ứng đồng thời
các yêu cầu về kiểm định chất lượng, xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích
cực, trường học đạt chuẩn quốc gia, thanh tra toàn diện nhà trường.
1.9. Tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh công tác thanh tra. Tăng cường bồi
dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ và thanh tra viên.
Tăng cường các hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành ở các
cấp học, ngành học. Tăng cường kiểm tra, quản lý các cơ sở giáo dục và đào tạo
ngoài công lập và có đầu tư nước ngoài. Thực hiện nghiêm túc chương trình của
Bộ về công tác phòng chống tham nhũng theo Đối thợi với các nhà tài trợ quốc
tế lần thứ 7.
1.10. Đổi mới công tác thi đua và đánh giá các lĩnh vực công tác của
ngành theo hướng các Cục, Vụ chức năng của Bộ phải theo dõi, đánh giá các
lĩnh vực công tác phụ trách và là cơ sở quan trọng để các vùng bình xét thi đua.
24
Sửa đổi, bổ sung Thông tư 21/20087/TT-BGDĐT ngày 22/4/2008 về công tác
thi đua, khen thưởng trong ngành. Tiếp tục xây dựng, phát hiện và bồi dưỡng
các nhân tố mới, tuyên truyền và nhân rộng các điển hình tiên tiến; chuẩn bị chu
đáo về mọi mặt để tổ chức thành công Đại hội thi đua yêu nước của ngành vào
tháng 11/2010.
1.11. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác pháp chế, đẩy nhanh
tiến độ hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục. Kiện
toàn, củng cố và phát triển tổ chức pháp chế của ngành từ Bộ đến địa phương;
Triển khai Đề án nâng cao chất lượng công tác phổ biến giáo dục pháp luật
trong nhà trường (Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ
tướng Chính phủ).
2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục

2.1. Các giải pháp chung cho các cấp học
2.1.1. Tiếp tục triển khai cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh" theo Chỉ thị 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính
trị gắn với đặc thù của ngành là thực hiện cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô
giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Thực hiện nghiêm túc Quy
định về đạo đức nhà giáo (Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008).
Trong năm học 2010 - 2011, mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mỗi cơ sở
giáo dục đều có đổi mới trong phương pháp dạy học và quản lý. Triển khai bộ
tài liệu hướng dẫn lồng ghép nội dung cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" vào nội dung giảng dạy một số môn học chính
khoá và các hoạt động ngoại khoá ở các cấp học, trình độ đào tạo.
2.1.2. Tổ chức Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-
TTg của Thủ tướng Chính phủ thông qua cuộc vận động "Hai không" của ngành:
“Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục“. Khắc phục
hiện tượng học sinh ngồi sai lớp. Giảm tỷ lệ học sinh yếu kém, học sinh bỏ học. Tổ
chức nghiêm túc, an toàn kỳ thi tốt nghiệp THPT, thi học sinh giỏi quốc gia và kỳ
thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2011. Tích cực chuẩn bị các điều kiện để tổ
chức kỳ thi Olympic Hóa học quốc tế năm 2014 tại Việt Nam.
Rút kinh nghiệm và tiếp tục tổ chức các hình thức giao lưu học tập:
Violimpic Toán trên mạng, Toán tuổi thơ, tiếng Anh tiểu học…
2.1.3. Đẩy mạnh phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực" đối với các trường phổ thông và mầm non:
- Tiếp tục cải thiện cơ sở vật chất và cảnh quan các trường học. Phấn đấu
100% trường học có công trình vệ sinh đạt chuẩn.
- Phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, các đoàn thể ở địa phương tổ
chức tháng “Khuyến học“ (từ 2/9 đến 2/10), thực hiện "3 đủ" (đủ ăn, đủ mặc, đủ
sách vở) đối với học sinh, phối hợp với các lực lượng triển khai nội dung "đi học
25

×