Tải bản đầy đủ (.ppt) (26 trang)

Văn 8-Tiết 92-Thuyết minh về Văn miếu-Quốc tử giám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.41 MB, 26 trang )




YÊU CẦU:
- Đối tượng: danh lam thắng cảnh Văn
Miếu
- Kiểu loại văn bản: thuyết minh
- Phương thức biểu đạt: thuyết minh có sử
dụng các yếu tố miêu tả, biểu cảm

ĐỀ BÀI:
THUYẾT MINH VỀ DANH LAM THẮNG
CẢNH VĂN MIẾU
I. ĐỀ BÀI VÀ YÊU CẦU:

II. GIỚI THIỆU
1.Lịch sử
Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 tức năm
Thần Vũ thứ hai đời Lí Thánh Tông:"Mùa thu
tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử,
Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị
hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy
học.“ ( đại Việt sử kí toàn thư). Như vậy Văn
miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh,
Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của
một trường học Hoàng gia.

Năm 1076, Lí Nhân Tông cho lập trường Quốc
Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là
trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu,
trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc


đại quyền quý. Năm 1156, Lí Anh Tông cho sửa lại
Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử
Giám thành Quốc học viện cho mở rộng và thu nhận
cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc.
Tháng 6 lập Quốc Học Viện tô tượng Khổng Tử,
Chu Công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để
thờ Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước
đến Quốc học viện giảng học Tứ thư, lục kinh “.


Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm
quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy
dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất,
được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên
cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, 1484, Lê Thánh Tông cho
dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ
khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442
nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia
đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức
được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460 -
1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng
12 khoa thi.

Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử
Giám - cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều
đình.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm
1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu - Hà

Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Như vậy vào
đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần
được sửa sang, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội.
Đầu năm 1947, thực dân pháp nã đạn đại bác làm
đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4
nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây
dựng với diện tích 1530m2 được mô phỏng theo kiến
trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử
Giám.

Văn Miếu-Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành
Thăng Long, xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu
Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc làng
Thịnh Hào, tổng Yên Hạ, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà
Đông. Nay thuộc thành phố Hà Nội. Bốn mặt đều là
phố, cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam),
phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố
Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần
thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m2 bao
gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn
Giám mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ
Khổng Tử và Quốc Tử Giám, trường học cao cấp đầu
tiên của Việt Nam
2.Vị trí địa lí:

3.Kiến trúc
Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám được bố cục
đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng
tổng thể quy hoạch khu Văn miếu thờ Khổng Tử ở quê hương
ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô

ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương
thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương,
tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây
có lầu để ngắm cảnh.
Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”,
xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn
Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu
chữ Hán cổ xưa.

Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu
vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với
nhau :
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn
đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là
Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn
Các. Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không
đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4
trụ gạch vuông (85 cm x 85 cm) bên dưới đỡ tầng gác
phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4
cửa hình tròn. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công
trình 8 mái. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên
tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng.
Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng
trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm
nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay.
Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc
Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.


Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là
giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu
nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên
các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa,
Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện
còn 82 tấm bia về các khoa thi từ năm 1442 đến năm
1779.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ
yếu của văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục
song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái
đường, toà trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ
Khổng Tử, liên hệ với khu vực thứ 4 qua Khải Thành
môn. Khu này mới được xây dựng lại.

4. Những tu sửa sau năm 1954
Năm 1954 sau ngày tiếp quản Thủ đô, cơ quan chủ quản
ngành văn hoá Hà Nội trùng tu lại hai dãy Đông vu, Tây
vu ở hai bên sân Đại bái.
Ngày 25 - 4 - 1988, thành lập Trung tâm hoạt động văn
hoá khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám có chức năng
quản lý tu bổ, tôn tạo di tích
Năm 1991: Tu bổ điện Đại Thành và cải tạo toàn bộ hệ
thống thoát nước.
Năm 1994: Xây dựng lại 8 nhà che bia, sắp xếp bia Tiến
sĩ, mỗi bên 4 dãy, mỗi dãy 10 bia. Đặt bia của 2 khoa thi
1442 và 1448 vào giữa hai toà đình bia, đồng thời sửa
chữa toàn bộ đường đi trong khu di tích, nạo vét giếng
Thiên Quang
Năm 1995: Lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng, tu bổ

tường bao từ khu thứ nhất đến khu thứ tư của Văn
Miếu, Tu sửa nhà Bái đường, Cổng Đại Trung,
cổng Đại Thành, Khuê Văn Các, cổng Thái Học

II. Dàn bài:
1. Mở bài: giới thiệu chung về di tích Văn Miếu: là
biểu tượng cho văn hoá và lịch sử Việt Nam, là
trường đại học đầu tiên của nước ta.
2. Thân bài:
a) Lịch sử: Được xây từ thời nhà Lí, được dùng để
thờ các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho
b) Vị trí địa lí; nằm ở phía Nam thành Thăng Long,
xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm,
huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc làng Thịnh
Hào, tổng Yên Hạ, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà
Đông. Nay thuộc thành phố Hà Nội

c) Cấu trúc: 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường
ngăn cách và cồng thông
- Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn
đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành
Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn
Các. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn
Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia
Tiến sỹ.
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh có
hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi
tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ
Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp,

Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82
tấm bia về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu
của văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song
song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường,
toà trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ
Khổng Tử, liên hệ với khu vực thứ 4 qua Khải
Thành môn. Khu này mới được xây dựng lại.

d) Giá trị và ý nghĩa của Văn Miếu:
- Là trường đại học đầu tiên của nước ta
- Là nơi dạy dỗ, nuôi dưỡng nhân tài cho đất nước
=)) Phải luôn bảo vệ và phát huy di tích
Thân bàiThân bài
Dàn bài:
3. Kết bài:
-
Khẳng định giá trị của Văn Miếu trong đời sống
hiện nay
-
Luôn có ý thức giữ gìn và bảo vệ
Một góc Văn Miếu nhìn từ trên cao
Khu nhà bia tiến sỹ

IV. BÀI VIẾT:
Trong s hàng nghìn di tích l ch s c a ố ị ử ủ
Hà N i, h n 500 di tích đã đ c x p ộ ơ ượ ế
h ng, thì Văn Mi u - Qu c T Giám là ạ ế ố ử
m t di tích g n li n v i s thành l p c a ộ ắ ề ớ ự ậ ủ

kinh đô Thăng Long d i tri u Lý, đã có ướ ề
l ch s g n nghìn năm, v i quy mô khang ị ử ầ ớ
trang b th nh t, tiêu bi u nh t cho ề ế ấ ể ấ
Hà N i và cũng là n i đ c coi là bi u ộ ơ ượ ể
t ng cho văn hóa, l ch s Vi t Namượ ị ử ệ .

Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất -
1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng
Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc
nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử -
người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư
nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu
biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam.
Sáu năm sau - năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết
định khởi xây Quốc Tử Giám - một trường Nho học
cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho
đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng
đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong
kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người
Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á.

Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá,
trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ
tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ giữa năm 1484 và 1780.
Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ
tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử
Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người trẻ nhất
là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu
trạng nguyên năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng
Chính bình thứ 16 ( tức năm 1247) dưới triều

Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó Văn
Miếu cùng Quốc Tử Giám - được coi là trường đại
học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỷ
19.

Văn Miếu-Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng
Long, xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện
Thọ Xương; thời Pháp thuộc làng Thịnh Hào, tổng Yên Hạ,
huyện Hoàng Long, tỉnh Hà Đông. Nay thuộc thành phố Hà
Nội. Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn
Miếu - Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở
đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường
Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía
Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường vây bốn phía, bên
trong chia làm 5 khu vực.

Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn
Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng
có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng
trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai,
từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại
Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên
phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn
Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Khu vực 3
là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có
nghĩa là giếng trời trong sáng). Tại khu vực này
có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia
quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị

Qua c a Đ i Thành là vào khu v c th ử ạ ự ứ

4, c a Đ i Thành cũng m đ u cho nh ng ử ạ ở ầ ữ
ki n trúc chính nh hai dãy T Vu và H u ế ư ả ữ
Vu, chính gi a là Toà Đ i Bái đ ng, t o ữ ạ ườ ạ
thành m t c m ki n trúc hình ch U c kính ộ ụ ế ữ ổ
và truy n th ng. X a, đây là n i th nh ng ề ố ư ơ ờ ữ
v T đ o Nho. Khu trong cùng là n i gi ng ị ổ ạ ơ ả
d y c a tr ng Qu c T Giám th i Lê, ạ ủ ườ ố ử ờ
nhi u th h nhân tài "nguyên khí c a n c ề ế ệ ủ ướ
nhà" đã đ c rèn giũa t i đây. Khi nhà ượ ạ
Nguy n d i tr ng Qu c h c vào Hu , n i ễ ờ ườ ố ọ ế ơ
đây dùng làm đ n th Khi Thánh (cha m ề ờ ẹ
Kh ng T ), nh ng ngôi đ n này đã b h ổ ử ư ề ị ư
h ng hoàn toàn trong chi n tranh ỏ ế

Về mặt di tích mà nói thì 2 nhà bia Tiến sĩ ở 2 bên
giếng Thiên Quang là nơi bảo tồn những di tích quý nhất
của cả khu di tích lịch sử này. 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn
có giá trị về nhiều mặt. Đây là những tư liệu văn tự quý
giá: Nhà sử học có thể tìm thấy ở đây những tư liệu về
lịch sử giáo dục. Nhà nghiên cứu triết học có thể tìm ở đây
những chứng cứ để xác định vai trò của Nho giáo ở Việt
Nam .Những người Việt Nam ở khắp nơi cũng tới đây tìm
tên họ một vị tổ nào đó thuộc dòng họ nhà mình xưa đã có
tên trong khoa bảng. Đây còn là những tư liệu có hệ thống
liên tục, ít nhất cũng trong vòng 3 thế kỷ (từ 1484 tới
1780) về kỹ thuật điêu khắc đá. Đã có nhiều bài nghiên
cứu viết về bia Tiến sĩ, song việc khai thác tư liệu của 2
nhà bia vẫn còn tiếp tục

Trong nǎm 2000, Chính phủ Việt Nam đã

quyết định khởi công xây dựng Thái học đường
với giá trị 22 tỷ đồng · hoàn thành vào năm
2003 nhằm làm cho khu di tích Vǎn Miếu -
Quốc Tử Giám ngày càng hoàn chỉnh hơn,
đúng với tầm cỡ và vị trí của di tích. Công
trình này mang tính yêu cầu của thời đại, đó là
công trình mới nhằm tôn vinh nền văn hoá của
dân tộc. Những người đời sau đến đây có được
những giây phút tưởng niệm những người đã
có công sáng lập và xây dựng nền giáo dục Việt
Nam.

Trải qua bao thăng trầm và những biến
cố của lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám
không còn nguyên vẹn như xưa. Những
công trình thời Lý, thời Lê hầu như không
còn nữa. Song Văn Miếu - Quốc Tử Giám
vẫn giữ nguyên được những nét tôn nghiêm
cổ kính của một trường đại học có từ gần
1000 năm trước của Hà Nội, xứng đáng là
khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là niềm
tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến
truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng
Long - Đông Đô - Hà Nội.

Đại Trung Môn
M t s hình nh v Văn Mi u:ộ ố ả ề ế
Văn Miếu
Khổng Tử Chu Văn An


Bái đường Văn Miếu
Bia tiến sĩ
Vườn bia trước khi tu sửa
Khuê Văn Các

×