Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN AN TOÀN SINH HỌC “Khung an toàn sinh học tại Australia”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.6 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC
AN TOÀN SINH HỌC
“Khung an toàn sinh học tại Australia”
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Phương Thảo
Nhóm SV thực hiện: Nhóm 17
STT MSSV Họ và tên
1 550343 Nguyễn Văn Hinh
2 550344 Lê Thị Hoa
3 550345 Đào Văn Hoàng
4 550348 Đỗ Thành Huế
HÀ NỘI-04/2013
1
MỞ ĐẦU
Công nghệ sinh học là một thuật ngữ rộng bao gồm việc sử dụng thực
tế của hệ thống sinh học để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Tiến bộ trong công
nghệ sinh học đã cung cấp những cách giới thiệu rất chính xác cho phép thay
đổi vật liệu di truyền, lần đầu tiên, chuyển một gen đơn từ sinh vật này sang
sinh vật khác. Những kỹ thuật này thường được gọi là công nghệ gen, liên
quan đến việc sửa đổi các sinh vật bởi sự kết hợp trực tiếp, hoặc xóa một
hoặc nhiều gen để tạo ra hoặc thay đổi một đặc tính cụ thể. Các sinh vật được
tạo ra bằng cách sử dụng công nghệ gen được gọi là sinh vật biến đổi gen
(GMOs).
Với sự bắt đầu của cây trồng thương mại trong những năm 1990, diện
tích canh tác GM trên toàn cầu đã phát triển 58 700 000 ha vào năm 2002.
Trong số 4 loại cây trồng GM chính (đậu tương, bông, cải dầu, ngô), Australia
là nước chính trồng bông và cải dầu. Đến nay, chỉ có 5 giấy phép được cấp
cho việc phát hành thương mại GM của các nhà máy được cấp tại Úc (gồm 2
giống bông, 2 giống hoa cẩm chướng và cải dầu). 33% cây bông ở Úc là cây
GM. Một số lập luận phản đối việc tạo cây trồng GM đang tạo ra những tranh
cãi xung quanh vấn đề pháp lý cho GMOs tại Úc. Thực phẩm GM ở Úc phải


được dán nhãn biến đổi gen, nơi mà DNA mới và protein mới có mặt trong
thực phẩm cuối cùng. Có một số thỏa thuận quốc tế và các rào cản ảnh
hưởng đến thương mại của các loại thực phẩm GM. Không có tiêu chuẩn
quốc tế riêng biệt cho GMOs, các quốc gia đang đánh giá rủi ro của họ trên cơ
sở cá nhân và áp dụng một loạt các biện pháp khác nhau.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, Australia đang cố gắng hoàn thiện
những quy chế kiểm soát vấn đề GMOs của đất nước mình một cách tốt nhất.
2
NỘI DUNG
I. LUẬT CÔNG NGHỆ GEN 2000
Hiệp định liên chính phủ về công nghệ gen 2001 làm nền tảng cho hệ
thống điều chỉnh sinh vật biến đổi gen (GMO) tại Úc. Đạo luật này được chính
phủ Úc thông qua tháng 12/2000 và có hiệu lực ngày 21/6/2001. Nó là thành
phần trong 1 chương trình quốc gia của chính phủ Úc về quy chế đối với các
sinh vật biến đổi gen.
Mục tiêu của đạo luật là bảo vệ sức khỏe, an toàn của người dân và bảo
vệ môi trường bằng cách xác định những rủi ro của công nghệ gen và quản lý
những rủi ro đó.
Đạo luật này cấm tất cả các giao dịch (ví dụ cho việc nghiên cứu, chế
tạo, sản xuất, phát triển thương mại và nhập khẩu) với GMOs không phải là
kinh doanh. Nó tạo ra vị trí của công nghệ gen, một văn phòng luật định với
một mức độ độc lập cao và mở rộng thực thi quyền hạn. Điều chỉnh việc thực
hiện của tất cả các giao dịch với GMOs tại Úc, theo quy định của luật công
nghệ gen 2000 và đảm bảo phù hợp với điều kiện quốc gia là hội đồng bộ
trưởng về công nghệ gen.
Hội đồng bộ trưởng có thể đưa ra các nguyên tắc chính sách liên quan
đến những điều sau:
- Các vấn đề đạo đức liên quan đến giao dịch với GMOs
- Công nhận các khu vực, nếu có, được chỉ định theo pháp luật nhà nước
nhằm mục đích bảo quản một hoặc cả hai loại: cây trồng GM và cây

trồng không GM cho mục đích thương mại
- Các vấn đề liên quan đến giao dịch với GMOs theo quy định của luật
định
Thành lập 3 ủy ban tư vấn:
- Ủy ban cố vấn kỹ thuật các công nghệ gen (GTTAC) – một nhóm chuyên
gia tư vấn về khoa học và ứng dụng kỹ thuật
- Ủy ban về đạo đức công nghệ gen (GTEC) – một nhóm các nhà tư vấn
về đạo đức, đặc biệt trong các lĩnh vực pháp luật, thực hành tôn giáo,
bảo tồn động vật và sức khỏe dân cư
3
Ủy ban tham vấn cộng đồng về công nghệ gen (GTCCC) – một nhóm
người đại diện cho lợi ích rộng lớn của cộng đồng Úc, bao gồm cả người tiêu
dùng, các nhà nghiên cứu, và môi trường.
1. Các cơ quan điều chỉnh sản phẩm GM tại Úc
- FSANZ: Tiêu chuẩn thực phẩm Australia New Zealand – quy định tiêu
chuẩn thực phẩm và ghi nhãn
- TGA: Cơ quan quản lý hàng dược phẩm – quy định hàng hóa trị liệu và
liệu pháp gen của con người
- APVMA: Cơ quan quản lý thuốc trừ sâu và thuốc thú y Úc – quy định
các hóa chất nông nghiệp, thú y
- NICNAS: Kết hợp đánh giá và thông báo về các hóa chất công nghiệp
quốc gia – quy định các hóa chất công nghiệp
- AQIS: Cơ quan kiểm dịch Úc – quy định nhập khẩu và xuất khẩu các sản
phẩm của GM và GMOs
- NHMRC: Hội đồng nghiên cứu y khoa quốc gia – giám sát các nghiên
cứu liên quan đến liệu pháp gen của người
Cơ quan thuốc thú y và thuốc trừ sâu là một cơ quan hoạt động độc lập
theo luật định, chịu trách nhiệm thẩm định và phê duyệt các sản phẩm hóa
chất sử dụng trong nông nghiệp và thú y. Do đó, cây trồng biến đổi gen
như bông có kết hợp hóa chất kháng sâu phải được đăng ký với cơ quan

này. Để được chấp thuận cho phát hành thương mại, sản phẩm khi sử
dụng theo hướng nhãn hiệu không được gây bất cứ nguy cơ đáng kể nào
cho:
- Người sử dụng
- Những người xử lý, ứng dụng, quản lý hóa chất
- Môi trường
- Cây trồng và động vật
- Thương mại với một hàng hóa nông nghiệp
Cơ quan này cũng cần thiết xem xét hiệu quả của sản phẩm chống lại
sâu hại, dịch bệnh hoặc điều kiện tuyên bố trên nhãn. Là một phần của quá
trình quản lý, bất kỳ về tồn dư hóa chất nông nghiệp, thú y trong thực
phẩm đều là chỉ tiêu để đánh giá.
2. Những vấn đề có liên quan đến GMO cần được xem xét
- Tiến hành thí nghiệm với các GMO
- Tạo ra, phát triển, sản xuất các GMO
- Chăn nuôi GMO
4
- Lan truyền GMO
- Sử dụng GMO trong quá trình sản xuất một sản phẩm không phải là
GMO
- Phát triển, nhân rộng hoặc nuôi cấy GMO
- Nhập khẩu GMO
- Vận chuyển GMO
- Loại bỏ các GMO
3. Chức năng của điều luật
- Thực hiện các chức năng liên quan đến giấy phép cho GMO
- Phát triển các nguyên tắc dự thảo chính sách và hướng dẫn chính sách
theo yêu cầu của hội đồng Bộ trưởng
- Phát triển việc thực hành quy phạm
- Ban hành hướng dẫn kỹ thuật và thủ tục lien quan đến GMO

- Cung cấp thong tin và tư vấn cho các cơ quan quản lý về các sản phẩm
từ GMO
- Cung cấp thông tin và tư vấn cho công chúng về các quy định của GMO
- Cung cấp tư vấn cho hội đồng bộ trưởng về: các hoạt động điều chỉnh
hoạt động của Gene Technology Technical Advisory Committee và các
hiệu quả của khuôn khổ pháp lý cho các quy định của GMO
- Nghiên cứu và đánh giá rủi ro và an toàn sinh học của GMOs
- Thúc đẩy hài hòa các đánh giá rủi ro liên quan đến GMO và sản phẩm
GM của các cơ quan quản lý
- Giám sát thống lệ quốc tế liên quan đến các quy định của GMOs
- Duy trì liên kết với các tổ chức quốc tế
II. HIỆP ĐỊNH WTO/SPS
Australia đã tham gia hiệp định WTO/SPS - hiệp định về biện pháp vệ
sinh và an toàn thực phẩm. Hiệp định này quan tâm đến việc áp dụng các
biện pháp vệ sinh động vật và thực vật hay nói một cách khác là các quy định
về an toàn thực phẩm và về thú y và bảo vệ thực vật. Hiệp định công nhận các
quốc gia có quyền đưa ra các biện pháp về vệ sinh và an toàn thực phẩm
nhưng nó được áp dụng chỉ trong phạm vi cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc
sức khoẻ con người, động vật hoặc thực vật và không được phân biệt đối xử
tuỳ tiện và vô lý giữa các thành viên khi có các điều kiện tương tự hoặc như
nhau.
Nhằm mục đích hài hoà hoá các biện pháp vệ sinh và an toàn thực
phẩm trên một diện rộng nhất có thể, các thành viên được khuyến khích căn
cứ các biện pháp của mình trên các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị
5
quốc tế nếu chúng đã ban hành. Tuy nhiên, các thành viên có thể duy trì hoặc
đưa ra các biện pháp mà đưa lại kết quả là các tiêu chuẩn cao hơn nếu có các
biện chứng khoa học hoặc như là hệ quả của một quyết định về rủi ro đồng
nhất dựa trên đánh giá rủi ro thích đáng. Hiệp định giải thích rõ ràng các thủ
tục và tiêu chuẩn đối với đánh giá rủi ro và xác định mức độ bảo vệ phù hợp

về vệ sinh động thực vật.
Hiệp định này hy vọng các thành viên chấp nhận các phương pháp vệ
sinh và an toàn thực phẩm của các quốc gia khác là tương đương nếu nước
xuất khẩu chứng minh được cho nước nhập khẩu rằng các biện pháp của
mình đã đạt được cấp độ bảo vệ phù hợp về sức khoẻ tại nước nhập khẩu.
Hiệp định bao gồm các quy định về các thủ tục kiểm soát, thanh tra và chấp
thuận.
III. KHUNG PHÂN TÍCH RỦI RO CỦA AUSTRALIA
Ban hành từ năm 2002 và điều chỉnh tái bản nhiều lần (lần gần đây
nhất là năm 2009), được xây dựng nhằm thực hiện các quy định pháp luật về
công nghệ gen tại quốc gia này. Đặc biệt trong lĩnh vực quản lý sinh vật biến
đổi gen và sản phẩm của chúng, Luật pháp Australia quy định áp dụng phân
tích rủi ro trong quá trình ra quyết định thông qua việc chuẩn bị một kế
hoạch đánh giá và phân tích rủi ro đối với sinh vật biến đổi gen.
Về cơ bản, quy trình phân tích rủi ro của Australia được xây dựng dựa
trên khung tiêu chuẩn chung của quốc tế, bao gồm các nội dung chính sau:
(1) Mô tả bối cảnh của nguy cơ
(2) Xác định nguy cơ
(3) Đánh giá hậu quả và khả năng xảy ra đối với các nguy cơ đã được xác
định
(4) Quản lý rủi ro nhằm hạn chế các nguy cơ đã được xác định, có cân nhắc
tới các biện pháp quản lý và việc ra quyết định
IV. CÁC CÂY TRỒNG GM CHỦ YẾU Ở AUSTRALIA
1. Bông
Việc áp dụng công nghệ sinh học đã góp phần đáng kể trong việc giảm
lượng thuốc trừ sâu sử dụng cho mỗi ha trồng bông ở Úc trong thập kỷ qua.
Các ngành công nghiệp bông sử dụng chủ yếu 3 loại bông biến đổi gen là:
Bollgard ® II (từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis (Bt)); Roundup Ready ® (từ
vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens) và Liberty Link Cotton ®
Giống bông chịu thuốc diệt cỏ (Roundup Ready ® và Liberty Link

Cotton ®) có thể giảm số lượng canh tác đất và thuốc diệt cỏ cần thiết để
6
kiểm soát cỏ dại, tạo điều kiện cho đất tốt hơn và giảm chất diệt cỏ còn sót
lại.
Bollgard ® II đã được giới thiệu trong năm 2004-2005 tại Úc, là thế hệ
thứ 2 có nhiều biến đổi gen để chống chịu với loài sâu bướm Heliothis. Giống
bông này yêu cầu ít hơn tới 85% cho mỗi loại thuốc trừ sâu so với bông thong
thường.
Trong thập kỷ qua, giống bông mới phát triển có chưa các tính năng
mới như: cải thiện chất lượng sợi, khả năng kháng bệnh, sinh trưởng và thích
ứng với từng khu vực.
2. Cải dầu
Từ khi được đưa vào Australia hơn 20 năm trước đây, cây cải dầu đã
trở thành loại cây trồng lớn thứ 3 cung cấp hạt để lấy dầu, và là một trong
bốn cây vụ đông lớn nhất. Diện tích cải dầu thu hoạch đã tăng từ khoảng
400000 ha vào giữa những năm 1990 đến 1.9 triệu ha trong năm 1999-2000,
sản xuất khoảng 2.4 triệu tấn cải dầu mỗi năm. Cải dầu là cây trồng thứ 3
được biến đổi gen sau ngô và khoai tây, những biến đổi này tập trung vào
thuốc diệt cỏ và chất lượng sản phẩm.
25/7/2003, Office of the Gene Technology Regulator đã phê duyệt cho
thương mại hóa cải dầu biến đổi gen InVigor ®. InVigor ® có thể chịu được
thuốc diệt cỏ glufosinate ammonium. Nó được sử dụng như dầu trong thực
phẩm của con người, trong thức ăn động vật, với các cách chế biến thông
thường như cải dầu không chuyển gen. Sau nhiều đánh giá cho thấy rằng cải
dầu GM là an toàn cho con người và môi trường như cải dầu thông thường:
• Cải dầu GM không gây độc hoặc dị ứng cho con người
• Cải dầu GM sẽ không trở thành cỏ dại và có thể quản lý hiệu quả với
nhiều loại thuốc diệt cỏ
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN KHÁC
1. An toàn thực phẩm

Sự an toàn của thực phẩm GM được đánh giá và quy định bởi cơ quan
thuộc chính phủ liên bang – Tiêu chuẩn thực phẩm Australia New Zealand
(FSANZ), dưới sự chỉ đạo của hội đồng bộ trưởng FSANZ. Trách nhiệm chứng
minh sự an toàn của thực phẩm mới liên quan đến các nhà phát triển thực
phẩm đó. Vì vậy, khi nộp đơn tìm kiếm sự chấp thuận cho một thực phẩm GM
mới từ FSANZ, họ phải cung cấp cho cơ quan các bằng chứng để hỗ trợ sự an
7
toàn của sản phẩm. Một đánh giá an toàn của FSANZ cho một thực phẩm
chuyển gen dựa trên việc so sánh phân tử, độc tính, giá trị dinh dưỡng và các
thành phần với các mẫu thực phẩm không biến đổi gen.
Đánh giá này có được do một phân tích so sánh bằng cách sử dụng
thực phẩm tiêu thụ thông thường như là tiêu chuẩn cho mức độ an toàn.
Đến nay, có 21 loại thực phẩm biến đổi gen được phép bán tại Australia.
2. Việc ghi nhãn thực phẩm biến đổi gen ở Australia
28/7/2000, Hội đồng tiêu chuẩn thực phẩm của Australia New
Zealand (ANZFSC – bao gồm các bộ trưởng bộ y tế từ các bang, các quốc
gia và vùng lãnh thổ của Australia New Zealand) chính thức đồng ý mở
rộng các quy định ghi nhãn trong tiêu chuẩn để bắt buộc ghi nhãn đối với
tất cả các thực phẩm biến đổi gen. Quyết định này được thực hiện để đảm
bảo rằng người tiêu dùng có thể được cung cấp các thông tin cần thiết để
lựa chọn sản phẩm cho mình.
Từ ngày 7/12/2001, yêu cầu ghi nhãn thực phẩm bắt đầu có hiệu
lực, thành phần DNA và protein mới hiện diện trong sản phẩm cuối cùng
đều được công khai. Trừ một số trường hợp như:
- Thực phẩm tinh chế cao, chẳng hạn như đường và các loại dầu, nơi mà
ảnh hưởng của quá trình tinh chế đã loại bỏ vật liệu di truyền mới hoặc
protein mới
- Chất hỗ trợ chế biến và phụ gia thực phẩm, trừ trường hợp vật liệu di
truyền mới hoặc protein mới có trong thực phẩm cuối cùng. Chất hỗ
trợ chế biến thường là những chất được tinh khiết sử dụng trong chế

biến nguyên liệu thực phẩm, nó thường không có mặt hoặc hoạt động
trong thực phẩm cuối cùng. Ví dụ như việc sử dụng enzyme chymosin
trong việc đông lạnh sữa để sản xuất phomat. Chymosin thường được
vô hiệu hóa trong giai đoạn cuối của sản xuất phomat. Phụ gia thực
phẩm nói chung là những chất tinh khiết thêm vào thức ăn, thường là
với số lượng rất nhỏ, để cải thiện mùi vị, hình dạng, kết cấu, bảo quản
và phẩm chất khác. Ví dụ như việc bổ sung acid ascorbic (vitamin C)
như một chất chống oxy hóa trong nước trái cây
- Mùi hương có mặt ở một nồng độ nhỏ hơn hoặc bằng 0.1% trong thực
phẩm cuối cùng
8
- Thực phẩm đã chuẩn bị tại điểm bán hàng (ví dụ như nhà hàng, khách
sạn…)
Food Standards Australia gần đây đã tiến hành một cuộc khảo sát thí
điểm để xác định xem thực phẩm GM có được nhà sản xuất ghi nhãn chính
xác hay không. Mẫu của 51 sản phẩm có chứa đậu nành hoặc ngô như sữa
đậu nành, bánh mỳ… đã được kiểm tra. Kết quả điều tra cho thấy rằng tất
cả các mẫu được xét nghiệm đều tuân thủ các tiêu chuẩn ghi nhãn GM.
3. Hiệp định quốc tế và rào cản ảnh hưởng tới thương mại thực
phẩm GM
Có một số thỏa thuận của hiệp định ảnh hưởng đến các mô hình
thương mại hóa sản phẩm GM. Theo thỏa thuận của WTO, bao gồm:
- Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật: một quốc gia
có thể từ chối việc tiếp cận thị trường trong nước trên các căn cứ rủi ro
đối với môi trường và sức khỏe con người và động vật.
- Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại: đảm bảo rằng các
quy định kỹ thuật không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với
thương mại
- An toàn thực phẩm quốc tế và tiêu chuẩn ghi nhãn được dựa trên
những phát triển của Codex Alimentarius Commission. Ủy ban này

được thành lập năm 1963 bởi FAO và WTO để phát triển và tiêu chuẩn
hóa thực phẩm quốc tế, hướng dẫn và các văn bản liên quan như quy
phạm thực hành
4. Nguyên tắc đánh giá rủi ro đối với thực phẩm có nguồn gốc từ
công nghệ sinh học hiện đại
- Thẩm định an toàn phải được tiến hành trước khi đưa ra thị trường
- Biện pháp quản lý rủi ro có thể bao gồm: ghi nhãn thực phẩm, điều kiện
phê duyệt, và giám sát sau khi đưa ra thị trường
- Các công cụ cần thiết để tạo điều kiện quản lý rủi ro
5. Hướng dẫn cách đánh giá an toàn thực phẩm có nguồn gốc từ
DNA tái tổ hợp
- Các tiêu chí cơ bản tương đương với thực phẩm không biến đổi gen
- Tác dụng ngoài ý muốn cũng có thể phát sinh, đánh giá an toàn nên
giảm khả năng một thực phẩm có nguồn gốc từ DNA tái tổ hợp sẽ có
thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người
9
- Mục tiêu của mỗi đánh giá là cung cấp thông tin đảm bảo, rõ ràng,
chính xác rằng thực phẩm không gây hại khi được sử dụng theo mục
đích của nó
- Thông tin phải được cung cấp để đảm bảo đó là gen mã hóa cho những
độc chất hoặc chất không có dinh dưỡng hiện diện trong các sinh vật
không phải là sinh vật chuyển gen
- Gen chuyển không mã hóa chất gây dị ứng hoặc một loại protein có liên
quan
- Gen kháng kháng sinh không nên có trong thực phẩm
Liên quan đến nghị định thư Cartagena “Chính phủ Úc không có thời
gian biểu để xem xét việc gia nhập nghị định thư”.
6. Australia có nên trồng cây lương thực biến đổi gen???
Việc phân tích một cây trồng biến đổi gen để đưa ra phát triển thương
mại là một quá trình phức tạp và cần được đánh giá kỹ càng. Việc đánh giá

an toàn cho môi trường và cộng đồng được thực hiện bởi Office of Gene
Technology Regulator. Bên cạnh các thong số cần được đánh giá trước khi
quyết định phát triển một loại cây trồng thực phẩm biến đổi gen thì các phân
tích thương mại cũng là một vấn đề đầy khó khăn.
Việc sản xuất nông nghiệp và thương mại thực phẩm GM phải có sự
giám sát của chính phủ, hỗ trợ cho ngành công nghiệp, thực hiện chính sách
cùng tồn tại của cây trồng GM, cây trồng truyền thống và cây trồng hữu cơ.
Chính phủ Úc nhận định rằng “Về lâu dài, các sản phẩm với những đặc điểm
mới (bao gồm cả GM) dự kiến sẽ thu hút được nhu cầu của người tiêu dùng,
và như vậy, Australia phải có khả năng thực hiện thành công những cơ hội
này”.
7.Chiến lược phát triển
Xu hướng về vấn đề an toàn thực phẩm là có nhiều thông tin hơn về:
nguồn gốc, phương pháp sản xuất, thành phần của thực phẩm chế biến. Tính
chất toàn cầu hóa của việc cung cấp thực phẩm đã gây nhiều áp lực lên chính
phủ để tăng cường và hài hòa các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Những tiêu
chuẩn khắt khe hơn và tốn kém hơn được áp dụng.
Ngành công nghiệp hạt ở Úc đã phát triển chiến lược cùng tồn tại của
các loại cây trồng nhằm đáp ứng các mục tiêu:
10
- Các nhà cung ứng sản phẩm cạnh tranh để đáp ứng yêu cầu của thị
trường, các yêu cầu này được xác định bởi sở thích của người tiêu
dùng và các yêu cầu về pháp lý
- Cho phép phát hành các loại cây trồng biến đổi gen vào môi trường
nằm trong việc duy trì hoặc tăng cường các cơ sở tài nguyên thiên
nhiên và giảm thiểu tác động của nông nghiệp và các hoạt động liên
quan
- Sử dụng công nghệ sản xuất thích hợp nhất cho việc chọn hệ thống sản
xuất nông nghiệp
- Đưa cây trồng biến đổi gen vào hệ thống canh tác cá nhân, sử dụng kỹ

thuật quản lý đó, tối đa hóa hiệu quả cuộc sống
Những sáng kiến cho việc phát triển chung tuân theo các nguyên
tắc:
- Minh bạch và dựa trên sự tham khảo ý kiến
- Tự do lựa chọn: theo đó, nhà sản xuất có thể lựa chọn hệ thống sản
xuất để thực hiện, người tiêu dùng có thể tìm đến sản phẩm mà họ ưa
thích
- Các biện pháp hợp lý: các biện pháp thực hiện dựa trên khách hàng và
yêu cầu quy định; linh hoạt, thiết thực và hiệu quả; dựa trên khoa học
và hỗ trợ đánh giá rủi ro, kết hợp và tham khảo các ngành công nghiệp
liên quan, quy định của chính phủ và các sáng kiến nghiên cứu
- Giám sát và đánh giá
- Kế hoạch cụ thể: kết hợp các yếu tố hoặc yêu cầu sau:
+ Chính phủ, ngành công nghiệp hoặc tiêu chuẩn hợp lý
+ Quản lý kế hoạch có kết hợp các chiến lược quản lý rủi ro
+ Hệ thống cung cấp thông tin cho truy xuất nguồn gốc
+ Lấy mẫu và kiểm tra
+ Đánh giá thị trường
+ Khắc phục hậu quả
+ Giáo dục nhận thức của cộng đồng
VI. THÁI ĐỘ QUẦN CHÚNG ĐỐI VỚI THỰC PHẨM GM
Thái độ chung đối với thực phẩm GM là quan trọng bởi chúng ảnh
hưởng mạnh mẽ đến chế độ quy định. Stone và cộng sự đã ghi nhận rằng thái
độ của người tiêu dùng đối với sản phẩm biến đổi gen khác nhau đáng kể
giữa các vùng, và thái độ bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố:
11
• Thông tin có sẵn cho người tiêu dùng về thực phẩm GM, trong đó có
khả năng thay đổi theo y tế và mối quan tâm an toàn môi trường và cộng
đồng , hiểu biết về công nghệ
• Người tiêu dùng quan tâm lựa chọn

• Người tiêu dùng tin tưởng vào các cơ quan về an toàn thực phẩm
• Mức thu nhập
Cơ quan chính phủ Liên bang Úc về công nghệ sinh học thường xuyên
khảo sát thái độ công chúng đối với GMC.
Kết quả cuộc khảo sát từ 2001 đến 5/2003:
Đối với rủi ro của thực phẩm biến đổi gen và lợi ích của cây trồng tăng
năng suất:
• 54% tin rằng rủi ro cao hơn lợi ích (so với 51% năm 2002, và 49% năm
2001)
• 27% tin rằng lợi ích cao hơn rủi ro(32% năm 2002 và 20% năm 2001)
• 19% không chắc chắn(17% năm 2002 và 31% năm 2001)
Cuộc khảo sát cũng đưa ra lợi ích và rủi ro chính của thực phẩm biến dổi gen,
với nhận thức cao nhất lợi ích như sau:
• Sử dụng hiệu quả hơn đất nông nghiệp - 55%
• Giảm sử dụng thuốc trừ sâu và hoá chất - 54%
• Tăng năng suất cây trồng dẫn đến thực phẩm rẻ tiền hơn - 44%
• Cải thiện giá trị dinh dưỡng của thực phẩm - 41%
Trong khi đó, rủi ro cao nhất nhận thức được:
• Khả năng gây dị ứng trong thực phẩm - 65%
• Kiểm soát đa quốc gia cung cấp thực phẩm - 59%
• Không biết tác dụng lâu dài về môi trường - 55%
• Không biết lâu dài sức khỏe hiệu quả - 45%
Các khảo sát cho thấy 90% tổng số người được hỏi cho rằng công nghệ
sinh học đóng vai trò quan trọng đối với tương lai của quốc gia và 86% cho
rằng Australia cần phải tích cực tham gia phát triển CNSH nếu nó giúp cải
tiến chất lượng cuộc sống. Bộ Nông nghiệp khảo sát thái độ của người tiêu
dùng Queensland với một loạt các vấn đề thực phẩm GM 5/2000 và 2002. Kết
quả cho thấy trong 6 yếu tố quyết định mua thực phẩm:
12
• 9% người được hỏi cho rằng “không biến đổi gen” là quan trọng năm

2000 và giảm xuống 5% năm 2002- tương đương với môi trường (9%
và 7%) và hữu cơ (4 và 5%)
• “Được sản xuất tại Úc” (33 - 34%), “giá” (24 - 26%), “lợi ích sức khỏe”
(21 - 22%) được xem là quan trọng nhất trong 6 thuộc tính
• Khi được hỏi các yếu tố quan trọng khác nhau như thế nào trong việc
quyết định có nên mua thực phẩm GM hay không, thì:
“lợi ích sức khỏe lớn”, “tốt cho môi trường” và “hương vị tốt hơn” được
xem là quan trọng nhất
• Giá và mẫu mã, ít lợi ích sức khỏe, thương hiệu nổi tiếng là yếu tố ít
quan trọng trong quyết định mua thực phẩm
• Những người được khảo sát cho thấy mức độ nhầm lẫn về ý nghĩa của
thuật ngữ "Thực phẩm biến đổi gen” với một loạt các câu trả lời được
và 10 % người tiêu dùng không nghe nói về các thuật ngữ này
Các đánh giá của Queensland Department of Primary Industries lưu ý
rằng lợi ích người tiêu dùng ảnh hưởng đến sự chấp nhận các sản phẩm GM.
Những lợi ích bao gồm các yếu tố như chất lượng, giá cả và sự tinh khiết. Các
yếu tố khác như quảng cáo sản phẩm, tính sẵn có và thuận tiện cũng ảnh
hưởng đến hành vi tiêu dùng đối với sản phẩm.
Queensland Department of Primary Industries báo cáo:
• Trường hợp người tiêu dùng chủ yếu là không chắc chắn về công nghệ
sinh học, và nơi mà thực phẩm GM có thể có các vấn đề tiêu cực, giải
quyết các mối quan tâm trực tiếp là rất cần thiết
• Ghi nhãn bắt buộc là ủng hộ mạnh mẽ của tất cả người tiêu dùng
nhưng nhãn cần phải được rõ ràng và chính xác. Tuy nhiên, không có
người tiêu dùng đảm bảo sẽ đọc chúng hoặc phản ứng tốt với thông tin
được cung cấp
• Có thể có nhiều lợi ích của sản phẩm GM như giá cả và sức khỏe. Tuy
nhiên, người tiêu dùng muốn tự do lựa chọn. Dây chuyền cung cấp
riêng biệt có thể được yêu cầu cung cấp sự lựa chọn này. Đây là trung
tâm của cuộc tranh luận về vùng không GM, và sản phẩm GM và không

GM không có sự khác biệt
• Một số công ty và quốc gia đã xác định những khu vực không có cây
GM. Tuy nhiên hiệu quả của phương pháp này và các lợi ích kinh tế và
những hậu quả không lường trước của hạn chế thương mại vẫn chưa
biết.
• Nó đang trở nên ngày càng quan trọng để xem xét những tác động về
tiếp cận thương mại khi đặt ra các chính sách để xử lý các vấn đề thực
phẩm biến đổi gen.
VII. TÌNH HÌNH QUY ĐỊNH CỦA ÚC VỀ GMOs TẠI CÁC
TIỂU BANG
13
1. New South Wales
3/3/2003, Thủ tướng đã công bố lệnh cấm 3 năm về thương mại hóa
cây lương thực GM. Luật công nghệ gen (Cấm cây lương thực GM), đạo luật
2003 thực hiện cam kết của thủ tướng. Trong phát biểu của mình, Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp cho biết “khoa học chuyển động quá nhanh, như là tình hình
thế giới liên quan tới việc nhập khẩu các loại cây trồng biến đổi gen và các
sản phẩm thực phẩm và chế độ ghi nhãn thực phẩm, 3 năm là thời gian đủ để
dừng lại. Một lệnh cấm kéo dài sẽ gây rủi ro lớn cho New South Wales và
nông dân, người tiêu dùng có khả năng bỏ lỡ những lợi ích kinh tế và những
lợi ích khác bởi công nghệ này”.
Đến nay, Bộ trưởng đã ban hành 1 lệnh cấm cho cải dầu GM.
2. Tasmania
Chính quyền Tasmania phát hành “Chính sách công nghệ gen” liên
quan đến việc sử dụng công nghệ gen trong công nghiệp vào 6/2001. Chính
sách này dựa trên khuyến nghị của Parliamentary Joint Select Committee về
công nghệ gen, trong đó bao gồm việc thiết lập một lệnh cấm 2 năm về việc
phát hành thương mại cây trồng GM tại Tasmania. Chính sách này được xem
xét trước 7/2003.Theo kết quả xem xét, chính phủ Tasmania quyết định mở
rộng lệnh cấm việc thương mại hóa động vật GM và cây trồng GM hiện hành

theo quy định theo Luật kiểm dịch thực vật Tasmania năm 1997 cho đến
6/2008.
Quy định hiện hành để nghiên cứu GM thử nghiệm bằng cách sử dụng
cây trồng phi lương thực sẽ tiếp tục được thi hành. Các khuyến nghị từ năm
2001 xem xét lại Chính sách công nghệ gen, và phân tích các vấn đề công
nghệ gen đang nổi lên, bao gồm:
1. Các lệnh cấm phát hành thương mại của các sinh vật nông nghiệp
biến đổi gen (GMO) sẽ được tiếp tục trong 5 năm, để củng cố cho danh tiếng
của Tasmania "sản phẩm sạch, xanh và chất lượng”. Lệnh cấm này sẽ được
xem xét lại vào ngày 30 tháng 6 năm 2008.
2. Sẽ có khả năng đánh giá lại các khía cạnh của chính sách này trước
30/6/2008
3. Cho phép thử nghiệm trên cây trồng GM không dùng làm thực phẩm
4. Cấm thử nghiệm trên cây trồng GM làm thực phẩm.
5. Thử nghiệm trên cây trồng GM làm thực phẩm và động vật GM chỉ
được phép trong phạm vi thích hợp được công nhận cơ sở nghiên cứu.
6. Khuyến khích nghiên cứu cung cấp thông tin về GMOs
7. Chính phủ Tasmania sẽ vẫn phản đối việc sử dụng sử dụng thức ăn
chăn nuôi GM.
8. Cả nhà nước và liên bang sẽ tiến hành việc thực thi các lệnh cấm.
9. Ban liên ngành về công nghệ gen sẽ tiếp tục đảm bảo rằng chính phủ
Tasmania được thông tin về vấn đề công nghệ gen.
14
10. Ủy ban tư vấn công nghệ khoa học và kỹ thuật gen ( STAC) sẽ tiếp
tục thực hiện đánh giá các vấn đề công nghệ gen.
11. Các nhóm chuyên gia về công nghệ gen sẽ được đưa vào STAC.
12. Hỗ trợ quản lý và thực thi của hệ thống quy chế của Tasmania
13.DPIWE sẽ tiếp tục giám sát việc quản lý các vị trí thử nghiệm trước
đây của GM bởi các công ty tham gia vào những thử nghiệm, và các hoạt
động của luật công nghệ gen trong giám sát các hoạt động của các công ty

quản lý
3. Victoria
8/5/2003 , Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp bang Victoria đã công bố 1 năm
tạm ngừng việc sản xuất thương mại cải dầu GM. Bộ trưởng cho biết : “quyết
định này là bước tiếp theo trong cách tiếp cận thận trọng của chúng tôi để
giải quyết tiếp thị các vấn đề liên quan đến cải dầu GM. Một đánh giá đầy đủ
các tác động đến sản xuất ở Victoria sẽ được thực hiện vào 2004. Đã có
những lo ngại về tác động của việc thương mại GM trên thị trường xuất khẩu
cải dầu. Những vấn đề này cần được giải quyết thỏa đáng trước khi chúng tôi
có thể tự tin tiến lên phía trước”.
4. Tây Úc
5/2001, Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp Tây Úc công bố 1 lệnh cấm 5 năm
(nghĩa là đến 5/2006) về vệc phát triển cây trồng GM ở Tây Úc.
Bộ trưởng lưu ý rằng lệnh cấm này dự kiến sẽ được giới thiệu vào cuối
năm 2001. Bộ trưởng còn cho biết, lệnh cấm là quan trọng đối với người tiêu
dùng ở Tây Úc và cho danh tiếng của khu vực trên thế giới cho việc sản xuất
xanh và sạch và nêu rõ : "Chính phủ và ngành công nghiệp không muốn chỉ
là nâng cao danh tiếng mà còn nhằm bảo vệ môi trường độc đáo của chúng
tôi cho các thế hệ tương lai . Chúng tôi sẽ sử dụng quyền hạn của chúng tôi để
đảm bảo rằng những rủi ro cho thị trường và các trang trại kinh doanh
dựa vào các thị trường này sẽ được giải quyết trước khi xem xét thay đổi các
lệnh cấm”
5. Nam Úc
8/2002, Chính phủ Nam Úc thành lập ủy ban để kiểm tra xem có nên
trồng cây GM hay không. Ủy ban báo cáo ngày 17/7/2003 và đề nghị ban
hành các luật định để ngăn chặn việc phát hành các loại cây GM và sản xuất
nông nghiệp ở Nam Úc cho đến khi vấn đề về bảo vệ vị trí thị trường của Nhà
nước được giải quyết. Chủ tịch của ủy ban cho biết: Đối với ngành công
nghiệp để đáp ứng điều kiện của sự tồn tại hợp tác thành công, toàn bộ dây
chuyền sản xuất và cung ứng, từ sản xuất giống để tiếp thị, sẽ cần phải làm

việc với nhau để giải quyết một số lượng đáng kể vấn đề. Nông nghiệp Nam
Úc vẫn cạnh tranh do khả năng ứng dụng nhanh chóng , đổi mới công nghệ,
bao gồm cả giống cây trồng mới.
6. Cái nhìn của chính phủ liên bang
15
Báo cáo về việc tiếp cận thị trường cho các sản phẩm GMO: Một báo
cáo chưa công khai của Úc vào tháng 7/2003, Bộ trưởng Nông nghiệp Liên
bang Hon Warren Truss MP cho biết: “Việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho
các nông phẩm GM là một tin tốt lành cho nông dân Úc”. Ngày 25/7, cấp giấy
phép đầu tiên để thương mại cây cải dầu biến đổi gen. Một trong những mối
quan tâm lớn của nông dân trong việc quyết định có nên sử dụng cây trồng
biến đổi gen hay không là thị trường tiềm năng và ích lợi đối với môi trường.
Trong trường hợp cây cải dầu, cần xem xét lại các kế hoạch, bổ sung các quy
định để đảm bảo sẽ bảo vệ được thị trường .
7. Cái nhìn của tổ chức phi chính phủ
- Nông dân phải nắm được thời cơ để chọn các phương pháp sản xuất phù
hợp nhất với nhu cầu của thị trường
- Việc thương mại cây trồng biến đổi gen phải có định hướng
- Các quyết định sản xuất của một nông dân không nên vượt quá khả năng
- NFF khuyến khích các thử nghiệm và kiểm soát các loại cây trồng GM
- NFF phản đối bất kỳ biện pháp nào từ chính phủ mà áp đặt các rào cản cho
việc thương mại các cây trồng biến đổi gen, được Office of Gene Technology
Regulator cho là phù hợp để phát hành
Liên bang kết luận rằng sự xuất hiện của công nghệ sinh học nông
nghiệp sẽ cung cấp cơ hội đáng kể cho nông dân Úc, giúp các nhà sản xuất có
tính cạnh tranh thị trường toàn cầu.
Hội nông dân NSW đã phát triển các chính sách về GMO. Hiệp hội này
hỗ trợ việc phát hành các sản phẩm GMO với điều kiện:
• Các cơ quan quản lý thích hợp đã đánh giá tất cả các rủi ro
• Điều này cung cấp lợi ích đáng kể cho ngành nông nghiệp của quốc gia

Hiệp hội kêu gọi hoãn việc phát hành cây cải dầu GM cho đến khi tất cả
các vấn đề ảnh hưởng đến thị trường và thương mại được giải quyết đầy đủ,
và hỗ trợ một thử nghiệm ba năm của cây cải dầu GM lên đến 5.000 ha / năm
trồng) trước khi phát hành thương mại được chấp thuận.
16
KẾT LUẬN
Các lập luận đưa ra để bác bỏ việc trông cây GM đều dựa trên hai tiêu
chí cơ bản là: môi trường và thị trường thương mại. các cộng đồng nông
nghiệp phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc sử dụng các cây lương
thực biến đổi gen bao gồm: bảo tồn cây trồng truyền thống, xác minh nguồn
gốc, môi trường pháp lý khác nhau trên toàn thế giới, nhu cầu của thị trường
đối với sản phẩm GM và sản phẩm không GM, trách nhiệm pháp lý đối với các
rủi ro về môi trường…
Chính phủ Australia rất thận trọng trong việc phát triển cây trồng GM.
Hầu hết các tiểu bang đều ngừng việc trồng cây GM cho đến khi có kết luận
17
rằng loài cây đó không nguy hiểm. Hơn nữa, những quy định pháp lý liên
quan đến GMO cũng được thảo luận rất kỹ càng, nhằm đảm bảo một môi
trường pháp lý toàn diện, khách quan, đáp ứng mục tiêu đảm bảo an toàn
cho sức khỏe con người, bảo tồn động thực vật, thân thiện với môi trường.
18

×