Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

giúp học sinh làm tốt bài văn biểu cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.09 KB, 11 trang )


Kính thưa quý đồng nghiệp
Trong bối cảnh đổi mới của đất
nước nói chung và của ngành giáo
dục nói riêng, chưa có bao giờ mà
giáo dục nhận được sự “ưu ái” của
toàn xã hội như trong gần hai năm
học vừa qua 2006-2007 và 2007-
2008. Chính vì thế người giáo viên
cần nỗ lực vượt bậc để bắt nhòp với
sự nghiệp đổi mới. Đó là nhiệm vụ
của mỗi giáo viên trong việc thực
hiện chương trình và sách giáo khoa
mới nhằm góp phần cải tiến phương
pháp giảng dạy theo quan điểm tích
hợp, tích cực.
Cuối cùng xin kính chúc Quý

A-ĐẶT VẤN ĐỀ:
1-Lý do chọn đề tài:
Năm học 2007-2008 là năm thứ sáu thực hiện chương
trình và thay sách giáo khoa mới cho học sinh lớp 7. Thay
sách đồng thời với việc dạy theo quan điểm tích hợp, tích cực.
Chính vì thế, người giáo viên cần nhận thức đầy đủ, chính
xác về tính tất yếu của chương trình và sách giáo khoa mới
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước nhà
và sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước để từ đó tích cực
học hỏi, nâng cao trình độ, kiên trì, bền bỉ tìm cách đổi mới
phương pháp qua mỗi phân môn giảng dạy. Đặc biệt là phân
môn Tập làm văn, một phân môn đóng vai trò quan trọng
trong việc cung cấp các tri thức cơ bản về các kiểu văn bản,


hình thành các kỹ năng nói, hiểu khái quát về văn bản và bố
cục chung của nó và đây cũng chính là phân môn mà nhiều
giáo viên băn khoăn, trăn trở nhất trước thực trạng học sinh
nhàm chán xem phân môn Làm văn như một môn kiểm tra, từ
đó biến phân môn Làm văn thành một môn học thuôc lòng,
học làm văn theo những đề bài cho sẵn dẫn đến tệ trạng học
tủ, chạy theo điểm số, thiếu tự tin, chủ động, sáng tạo. Vì tầm
quan trọng của phân môn Tập làm văn trong chương trình
2
Ngữ văn bậc Trung học cơ sở và từ thực trạng học sinh kém
Tập làm văn, tôi đã nghó và nghó nhiều hơn đến việc nâng cao
hiệu quả giảng dạy. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Giúp học sinh
làm tốt bài văn biểu cảm”
2-Phạm vi đề tài:
Xuất phát từ tầm quan trọng của phân môn Tập làm
văn trong việc rèn luyện, bồi dưỡng các kỹ năng tạo lập văn
bản, kỹ năng giao tiếp và tác dụng đặc biệt quan trọng đối với
kết quả học tập của học sinh qua các kỳ kiểm tra môn Ngữ
văn, bài viết chỉ xin mạn phép đưa ra một ý kiến nhỏ về cách
“Giúp học sinh làm tốt bài văn biểu cảm” với mong muốn góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy, từ đó khẳng đònh tầm
quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà
trường phổ thông.
3-Tài liệu tham khảo:
-Báo Giáo dục và thời đại
-Tạp chí “Thế giới trong ta”
-Sách giáo khoa Ngữ văn 7-tập 1
-Sách giáo viên Ngữ văn 7-tập 1.
-Sách Tiếng Việt nâng cao 7.
-Phương pháp làm văn biểu cảm-Hoàng Đức Huy.

B-GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I- Phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn:
Quá trình dạy một bài Tập làm văn được chia làm hai
bước: Cung cấp lý thuyết và truyền đạt phương pháp thực
hành. Hướng dẫn học sinh thực hành phải dựa trên cơ sở của
những lý thuyết đã dạy cho các em một cách rõ ràng, chính
xác. Dạy lý thuyết phải có tác dụng hướng dẫn học sinh thực
hành một cách chặt chẽ. Mối quan hệ giữa 2 bước này là mối
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành. Thực hiện
tốt các mối quan hệ đó sẽ có tác dụng giáo dục, rèn luyện học
sinh có thói quen của con người khoa học.
1-Dạy kiểu bài lý thuyết làm văn:
Mục đích của việc dạy một bài lý thuyết làm văn là
nhằm truyền thụ những hiểu biết cơ bản, cần thiết để học
sinh biết cách viết văn và làm bài về một loại văn nào đó:
phát hiện và đặt vấn đề, cách tìm ý, cách lập dàn bài và cách
3
diễn đạt. Chính vì thế, khi dạy phầncung cấp khái niệm giáo
viên chỉ cần nói những điều cần thiết một cách đơn giản, rõ
ràng, cụ thể, chính xác, tránh giờ giảng lý thuyết thành một
giờ lý luận văn học, trong đó giáo viên nói cho học sinh nghe
nhiều lý luận sách vở trừu tượng, trích dẫn nhiều ý kiến của
các nhà văn làm cho bài giảng có vẻ phong phú, sinh động,
uyên bác, học sinh nghe hay nhưng sau đó các em không hiểu
và không làm được bài. Tuy nhiên cũng cần tránh khuynh
hướng không chú ý cung cấp cho học sinh những nhận thức lý
luận cần thiết mà chỉ chú trọng truyền đạt phương pháp thực
hành, khuynh hướng này làm cho việc thực hành của học sinh
mất cơ sở khoa học.
Trong khi giảng lý thuyết Tập làm văn, giáo viên cần

phải chú ý phát huy tính tích cực tự giác, tính tích cực của học
sinh. Điều quan trọng nhất của việc phát huy tính tích cực của
học sinh là khêu gợi cho được ở học sinh hứng thú làm bài,
lòng tự tin và ý thức ham muốn sáng tạo.
2-Truyền đạt phương pháp thực hành:
Chương trình Tập làm văn đặt trọng tâm ở thực hành,
do đó điểm mới và khó trong chương trình Ngữ văn (Tập làm
văn) là phương pháp dạy thực hành: học sinh không nắm vững
lý thuyết làm văn, không biết ứng dụng lý thuyết để làm văn,
cho nên khi giảng phần truyền đạt phương pháp thực hành
giáo viên cần giải thích cho học sinh thấy được tính khoa học
của việc mình phải làm. Tại sao phải làm như vậy mà không
thể làm khác. Mỗi bài giảng về phần thực hành phải được sắp
xếp thành một hệ thống các thao tác, các công việc. Các khâu,
các bước trong hệ thống ấy phải móc xích với nhau, tuần tự
dẫn học sinh đạt đến một kết quả nhất đònh: làm được một
bài văn đúng qui cách và ở một mức độ cao hơn làm được một
bài văn hay (không nhất thiết bắt buộc tất cả học sinh phải
làm được văn hay, vì muốn làm được văn hay còn phải tùy
thuộc vào nhiều điều kiện phức tạp khác nữa. Nhưng nhất
đònh ta phải bắt buộc 100% học sinh làm bài đúng qui cách,
làm bài có phương pháp). Học sinh có nắm chắc được phương
pháp thực hành thì tự các em mới có thể độclập làm việc trước
bất kỳ đề bài nào khác nhau. Người giáo viên phải truyền đạt
cho các em nắm chắc phương pháp lập dàn bài, kỹ năng lập
4
dàn bài để khi đứng trước một đầu đề Tập làm văn các em
biết cách lập dàn bài hợp lý.
Phần truyền đạt phương pháp thực hành có tác dụng
trực tiếp chỉ đạo việc lao động sáng tạo và hình thành nếp tư

duy khoa học của học sinh. Trong khi dạy, giáo viên cần biết
cách khêu gợi óc sáng tạo và kích thích những tình cảm cao
quý của các em bằng phương pháp diễn giảng và đàm thoại có
tính chất gợi mở. Có làm đượcnhư vậy, chúng ta mới có thể
giúp học sinh phát triển tài năng của mình.
Tóm lại, nắm vững yêu cầu, đặc điểm của bài lý thuyết
Tập làm văn và biết cách vận dụng những nguyên tắc, phương
pháp giảng dạy thích hợp làm cho học sinh nắm chắc được lý
luận và phương pháp thựchành là yếu tố đầu tiên quyết đònh
việc làm bài của học sinh.
II-Minh họa:
1-Dạy lý thuyết:
Bài 5, tiết 20
TÌM HIỂU CHUNG VỀ VĂN BIỂU CẢM
Những đơn vò kiến thức cơ bản cần tập trung.
• Thế nào là văn biểu cảm ? (Văn trữ tình)
• Đặc tính :
-Cảm nghó, cảm xúc là chính.
-Sự vật, con người là phụ thuộc
• Mục đích của văn biểu cảm :
Nhằm làm cho người đọc thông cảm, đồng
cảm hoặc chỉ là trình bày chia sẻ với người đọc những ấn
tương, cảm xúc vài suy nghó đã diễn ra trong tâm tư người viết
• Cách thức biểu cảm :
5
BIỂU CẢM
CỤ THỂ-TRỪU TƯNG
TỰ SỰ
(CỤ THỂ)
NGHỊ LUẬN

TRỪU TƯNG
+Biểu cảm trực tiếp
+Biểu cảm gián tiếp
•Phong cách văn biểu cảm :
-Chú trọng phong cách trữ tình, biểu cảm, chú
trọng tính nhạc, chất thơ trong phong cách và hành văn.
-Văn biểu cảm thường sử dụng nhân tố miêu tả, tự
sự xen lẫn nhân tố suy tư, nghò luận giàu sắc thái cảm xúc,
tình cảm.
• Dùng từ trong văn biểu cảm :
+Từ ngữ:
-Sử dụng từ ngữ gợi cảm xúc, mang sắc thái
biểu cảm.
-Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh.
+Biện pháp tu từ về từ: So sánh, nhân hóa.
+Biện pháp tu từ về câu: Điệp ngữ, câu hỏi tu từ,
đảo ngữ, câu cảm thán.
Bài 6, tiết 23
ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BIỂU CẢM
Những đơn vò kiến thức cơ bản cần tập trung:
• Bố cục của bài văn biểu cảm (3 phần) và nội dung
từng phần.
• Phong cách văn biểu cảm (như tiết 20)
Bài 6, tiết 24
ĐỀ VĂN BIỂU CẢM VÀ CÁCH LÀM BÀI VĂN
BIỂU CẢM
Những đơn vò kiến thức cơ bản cần tập trung:
• Học sinh làm quen với kiểu đề: đề có lệnh và
đề không có lệnh.
• Học sinh xác đònh đối tượng biểu cảm và

tình cảm cần biểu hiện qua mỗi đề.
• Các bước làm 1 bài văn biểu cảm.
Tìm hiểu đề và tìm ý:
a) Tìm hiểu đề : Gồm những thao tác sau:
6
a
1
-Đọc kỹ đề bài: Đọc kỹ đề bài, không được bỏ sót một
chi tiết nào.
a
2
-Phân tích đề: Phải tìm ra cho được cái “tình huống có
vấn đề”, nghóa là phải phát hiện vấn đề cần giải quyết. Kết
cấu của 1 đề bài (dành cho học sinh Trung học cơ sở) thường
gồm 2 bộ phận.
+Bộ phận A: Chứa đựng những dữ kiện, những điều đề
bài cho biết trước.
+Bộ phận B: Chứa đựng những điều đề bài yêu cầu cần
phải thực hiện. Là cách thức giải quyết vấn đề. Trong phần
này, học sinh gạch dưới những từ ngữ then chốt để xác đònh.
• Vấn đề mà đề bài nêu ra.
• Thể loại của đề bài
b)Tìm ý:
Học sinh phải suy nghó thật nhiều. Sự vật nào
cũng có nhiều khía cạnh, phải nhìn thấy hết các khía cạnh ấy,
khai thác hết các khía cạnh để làm nảy sinh nhiều cảm nghó,
cảm xúc. Cảm nghó, cảm xúc dồi dào thì bài văn mới linh
động.
Lập dàn bài (dàn bài chung): Biểu cảm về sự vật.
• Mở bài :

-Nêu sự vật vàlý do mà em yêu thích
• Thân bài :
a)Tả: Những đặc điểm gợi cảm của sự vật nêu cảm
nghó, cảm xúc.
b) Tác dụng của sự vật:
-Sự vật trong cuộc sống của con người  cảm nghó,
cảm xúc
• Kết bài: Tình cảm của em đối với sự vật
Viết thành văn
Đọc lại và sửa chữa
2-Dạy thực hành:
Bài 6, tiết 24
LUYỆN TẬP CÁCH LÀM BÀI VĂN BIỂU CẢM
- Giáo viên ghi đề lên bảng:
Đềø bài: Loài cây em yêu
7
- Giáo viên gọi học sinh tiến hành các bước làm 1 bài TLV
1) Tìm hiểu đề và tìm ý:
a) Tìm hiểu đề: (Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh)
PHÂN TÍCH ĐỀ
Từ ngữ then chốt Xác đònh đề bài
Bộ phận A
Loài cây
Vấn đề
Loài cây
Bộ phận B
Em yêu
Thể loại
Biểu cảm
b) Tìm y ù:

-Em yêu câu gì? Vì sao em yêu?
-Cây có những nét nổi bật nào? (Thân, lá, rễ, tán cây
như thế nào?) Qua đó, em có cảm nghó, cảm xúc gì?
-Em hãy nêu những đặc điểm, phẩm chất, tính chất của
cây. Em có cảm nghó, cảm xúc như thế nào trước phẩm chất,
tính chất của cây?
-Nêu ích lợi của cây trong cuộc sống của con người trong
cuộc sống của em và nói lên cảm nghó, cảm xúc của em trước
những ích lợi đó.
-Nêu mối quan hệ hoặc kỉ niệm của em với loài cây ấy.
Mối quan hệ hoặc kỉ niệm ấy gây cho em những cảm nghó,
cảm xúc như thế nào?
-Tình yêu của em đối với loài cây đó như thế nào?
2-Lập dàn ý: (Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh
lập dàn ý chi tiết vào dàn ý chung)
3-Viết thành văn: Giáo viên cho học sinh viết thành
đoạn mở bài, thân bài (từng đoạn)
Đoạn biểu cảm về “Cây tre”
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bà tre xanh”
(Nguyễn Duy-Tre Việt Nam)
Từ ngàn xưa, cây tre luôn gắn bó với dân tộc Việt Nam.
Mỗi làng, mỗi xóm suốt dọc từ Bắc chí Nam, đâu đâu cũng
thấy bóng tre. Tre không đứng riêng lẻ tre mọc thành bụi,
thành bờ. Dáng tre cao cao khẳng khiu nhưng sức dẻo dai thì
không một loại cây nào có thể sánh kòp. Tôi yêu tre không chỉ
8
vì tre gần gũi, giản dò mà còn vì tre là hồn quê, là hương sắc
Việt Nam”

(Nguyễn Quốc Tấn Trung- 7
5
)
Hay đoạn biểu cảm về cây bàng.
“Đứng dưới tàn lá cây xanh mát, lòng tôi thoáng
chút bâng khuâng. Ôi cả một vùng kỉ niệm tuổi thơ! Cứ đúng
hẹn lại đến. Khi trời chớm sang hè, những chiếc lá cây đan
xen vào nhau rợp mát cả khoảng sân. Những tán cây nâng đỡ
nhau mà sống. Khi lá bàng còn non nó mang một màu xanh
mơn mởn tươi ngon đến lạ kì. Và cứ mỗi khi nắng chiếu vào,
những chiếc lá lại mang màu xanh ngọc bích khẽ đong đưa
theo gió như đang nhảy múa, reo hò. Thời gian dần trôi, vậy
là một mùa thu đã sắp hết. Trời chuyển dần về cuối thu lá
bàng bắt đầu chuyển sang màu tía và lác đác rụng, tôi yêu cái
màu tía ấy vô cùng vì nó gắn liền với thời thơ ấu của tôi.
Trong những trò chơi tuổi thơ, nếu thiếu những chiếc lá ấy là
mất vui. Đố anh họa só nào có thể pha đượcmàu tía như màu lá
bàng cuối thu. Ôi, màu tía yêu thương!”
(Võ Phạm Kha My-7
7
)
Hoặc đoạn biểu cảm về cây phượng.
“Tôi không biết phượng có từ bao giờ và càng lại
không biết tự bao giờ phượng lại gắn bó với bọn học trò chúng
tôi đến như vậy. Mỗi khi hoa phượng nở, lòng học trò cứ nao
nao và gợi chút bâng khuâng khó tả. Phượng nở, hè sang và
mỗi chúng tôi được nghỉ học. Ôi, sung sướng lắm chứ, vui lắm
chứ, nhưng mỗi lần nghó đến việc phải xa bạn bè. Lòng tôi
buồn da diết, chẳng biết phượng có hiểu nỗi lòng của chúng tôi
không mà mỗi ngày nó càng đỏ rực cả một góc sân trường và

cứ đong đưa theo gió như muốn nói điều gì. Cứ như thế, một
vài cánh phượng lượn trong gió rồi cuối cùng thả mình xuống
đất. Thấy vậy, lũ chúng tôi vội nhặt những cánh phượng rơi
chơi đá gà, làm bướm ép vào tập để nhớ một thời học trò hồn
nhiên, thơ dại. Đã nhiều lần đứng dưới tán cây lồng lộng mát
rượi, tôi muốn hỏi rằng: Phượng ơi! Phượng có biết tôi yêu bạn
đến dường nào chăng? Tôi yêu phượng và cũng yêu biết bao
từng lớp học, từng bạn bè và từng thầy cô giáo. Đây là nơi tôi
không thể nào quên”
(Phạm Lữ Quốc An-7
18
)
9
Và còn rất nhiều đoạn biểu cảm khác như cây dừa của
em Mai Trâm- 7
5
hay đoạn Cây tre của em Diễm Trang -7
5
……
III-Kết quả:
Qua sự kết hợp chặt chẽ giữa việc dạy lý thuyết với
hướng dẫn thực hành (phần kiểu bài biểu cảm), tôi đã thu
đượckết quả rất khả quan. Cụ thể:
+Giúp học sinh “thoát khỏi” tình trạng nhàm chán khi
học phân môn Làm văn trái lại các em rất thích học phân
môn Tập làm văn, rất thích làm văn, vì theo các em đây là
môn kiểm tra không cần học bài.
+Phát huy được tính tự giác, tích cực của học sinh, khêu
gợi ở các em hứng thú khi làm bài, lòng tự tin và ý thức ham
muốn sáng tạo.

+Kết quả học tập đạt hiệu quả cao.
Qua kết quả bài viết số 2 của các em và kết quả kiểm tra
chất lượng giữa học kỳ I tôi nhận thấy 100% các em đã làm
bài đúng qui cách, làm bài có phương pháp (mặc dù bài văn
chưa hay).
C-KẾT LUẬN:
Dạy Văn là dạy người! Đó là một chân lý, cho nên để
thực hiện tốt việc này, người giáo viên phải có lòng yêu nghề,
yêu bộ môn, lòng quan tâm sâu sắc đến chất lượng học tập của
học sinh, biết trân trọng những ý kiến, suy nghó vốn hiểu biết
của các em. Muốn đạt được kết quả cao, điều quan trọng là
người giáo viên phải biết kết hợp chặt chẽ việc dạy lý thuyết
với hướng dẫn thực hành, lấy việc hướng dẫn thực hành làm
khâu cơ bản nhưng thực hành phải dựa trên cơ sở lý thuyết
khoa học vững chắc và phải có tác dụng củng cố nhận thức lý
thuyết. Trong quá trình giảng dạy, nhờ kết hợp chặt chẽ việc
phát huy những cảm xúc tự nhiên, tinh thần độc lập sáng tạo
của học sinh với việc hướng dẫn các em thực hiện rèn luyện
nghiêm túc các kỹ năng làm văn theo đúng qui tắc có tính
khoa học, tôi đã phát huy được tính tích cực của học sinh, khêu
gợi ở các em hứng thú khi làm bài, tự tin và ý thức ham muốn
sáng tạo. Đây cũng là đáp ứng yêu cầu quan trọng của giờ Ngữ
văn (phân môn Tập làm văn).
10

11

×