Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xuất khẩu lao động của việt nam sang libya

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.23 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu,Việt Nam đã xây dựng
được nhiều mối quan hệ kinh doanh quốc tế. Một trong những mối quan hệ đó là việc hợp
tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, hay còn gọi là xuất khẩu lao
động. Có thể nói, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam đang ngày càng được mở
rộng đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, đáp ứng một phần nhu cầu
nhân lực của các nước, với đủ các loại hình lao động khác nhau. Đồng thời, hoạt động này,
đã góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm trong nước, giải quyết tình trạng thất
nghiệp, từ đó cải thiện tốt hơn đời sống cho cư dân Việt Nam.
Dịch vụ xuất khẩu lao động trong các doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các hoạt
động hỗ trợ liên quan đến quá trình đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài của doanh nghiệp. Những hoạt động dịch vụ đó bao gồm: nghiên cứu thị
trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng; tổ chức tuyển chọn lao động, đào tạo giáo dục
định hướng; tổ chức đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; quản lý và bảo vệ quyền lợi
của lao động ở nước ngoài và đưa lao động về nước khi hết hạn hợp đồng.
Dịch vụ xuất khẩu lao động còn có các đặc điểm cần chú ý như: Thể hiện rõ tính
chất xã hội và nhân văn; là một hoạt động kinh tế đối ngoại; kết hợp hài hòa giữa sự quản lý
vĩ mô của Nhà nước và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế thực hiện dịch vụ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Hoạt động của các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất
khẩu lao động chịu sự tác động mạnh mẽ của các biến động của thị trường sử dụng lao
động. Đặc biệt yếu tố chính trị-pháp luật của quốc gia nhận người xuất khẩu lao động là một
yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu lao động.
Để làm rõ hơn về hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam cũng như làm rõ
những ảnh hưởng của yếu tố Chính trị trong môi trường kinh doanh quốc gia, chúng ta sẽ
đến với quá trình xuất khẩu lao động của Việt Nam sang một đất nước khá giàu có nhờ dầu
mỏ ở Bắc Phi – Libya.

1
MỤC LỤC
Trang:
Lời mở đầu …………………………………………………………………………… 1


I. Thực trạng xuất khẩu lao động tại Việt Nam những năm gần đây…… 3
1.1.Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam…………………………… 3
1.2.Hoạt động xuất khẩu lao động sang Libya………………………… 7
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang Libya……………. 7
2.1. Mở rộng hoạt động xuất khẩu sang thị trường mới Libya…………… 7
2.2. Gia nhập thị trường và thành công bước đầu……………………………. 9
2.3. Khó khăn và hậu quả………………………………………………………… 13
2.4. Doanh nghiệp khắc phục khó khăn……………………………………… 17
2.5. Vai trò của chính phủ trong việc khắc phục khó khăn…………… 22
III. Bài học kinh nghiệm và định hướng thị trường Libya trong tương lai… 28
3.1. Bài học kinh nghiệm………………………………………………………… 28
3.2. Định hướng thị trường Libya trong tương lai……………………………. 30
Kết bài……………………………………………………………………………… 31


I. Thực trạng xuất khẩu lao động tại Việt Nam những năm gần đây.
1.1. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam
Hiện tại Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu lao động sang tổng số là trên 40 quốc
gia/vùng lãnh thổ tương đương với 21% thị phần của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu lao
động. Như vậy, ta có thể thấy lợi thế một nước đông dân chưa được khai thác triệt để.
Biểu đồ 1: Thị phần xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới
2

Nếu ta hình dung các quốc gia và vùng lãnh thổ là một thị phần lớn tương đương với
100% thì thị phần của Việt Nam chiếm lĩnh trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là 40 quốc
gia/vùng lãnh thổ, tương đương với 21%. Nhìn trên biểu đồ hình tròn có thể thấy thị phần
của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Điều này đồng nghĩa với việc 79% thị phần còn lại
hoặc là đã thuộc về quốc gia khác hoặc là còn để trống. Như vậy cơ hội cho chúng ta còn
rất nhiều. Vấn đề là làm thế nào chúng ta giành lại hoặc chiếm lĩnh được 79% thị phần còn
lại. Đây thực sự là một câu hỏi khó bởi vấn đề chính để giải quyết cho câu hỏi này lại nằm ở

nguồn nhân lực của chúng ta.
Bảng 1: Lượng xuất khẩu lao động tại các thị trường
Đơn vị: người
Nhật
Bản
Hàn
Quốc
Đài
Loan
Malaysia Cata UAE Ả Rập
xê út
CH
Séc
Ma
Cao
Khác Tổng
2006 5360 10577 14127 37941 3219 1760 98 423 869 5766 80140
2007 5517 12187 23640 26704 4685 2310 1620 1432 548 5982 84625
2008 6142 18141 31631 7810 10789 2845 2987 1871 1417 11355 94988
Tổng 17019 40905 69398 72455 18693 6915 4705 3726 2834 23103 259753
Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước
Năm 2008 tăng so với năm 2006 là 14848 người (tương đương với 119%), và so với
2007 tăng 10363 người (tương đương với 113%). Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ, nên tốc độ tăng của năm
2008 chậm hơn 5,6% so với tốc độ tăng của năm 2007. Cho đến nay, khủng hoảng kinh tế
vẫn còn đang là một rào cản đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thì ngành xuất
khẩu lao động vẫn vươn lên để hoàn thành chỉ tiêu năm 2009 xuất khẩu 90.000 người lao
động. Theo báo cáo 8 tháng năm 2009 của Cục quản lý lao động ngoài nước, tổng số lao
động đi xuất khẩu lao động đạt 45.634 người tương đương với 50,2% so với định mức đặt
ra của năm 2009.

Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, để đạt mục tiêu tăng số lượng lao
động đi làm việc ở nước ngoài đến năm 2010 là hơn 100.000 lao động, Cục sẽ thực
hiện một số giải pháp trọng tâm như đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người lao động
sang thị trường trọng điểm Malaysia; mở rộng các thị trường mới, thị trường có thu
nhập cao, khuyến khích XKLĐ có nghề, lao động kỹ thuật
3
Bảng 2: Lao động xuất khẩu trong 8 tháng năm 2009
Đơn vị: người
Nhật
Bản
Hàn
Quốc
Đài
Loan
Malaysia Nga UAE Li Bi Ma
Cao
Khác Tổng
Lao động 3793 5549 13202 1666 1484 3051 2660 2349 11880 45634
Lao động
nữ
999 785 4782 1015 658 2310 219 2144
Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước
Trên đây là những thành quả của quá trình nỗ lực không ngừng tìm đầu ra cho thị trường
lao động nước nhà. Nhưng trong cái được của ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam, ta
cũng thấy nhiều nhược điểm. Thứ nhất, thị trường lao động của chúng ta chủ yếu tập trung
vào một số thị trường cũ như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc…; trong đó một loạt các thị
trường tiềm năng có thu nhập cao khác như Mỹ, Anh, Pháp thì chúng ta vẫn chưa chạm tới
được. Nếu có thì cũng chỉ là một vài doanh nghiệp ký kết hợp đồng trực tiếp, còn thực tế thì
Việt Nam chưa có một cung chính thức nào. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta mới chỉ
đang tìm hiểu các thị trường đó một cách dè dặt, chưa có những chính sách mang tính

chiến lược, bứt phá… Thứ hai, lao động của chúng ta xuất khẩu chủ yếu là lao động thủ
công, tay nghề chưa cao. Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo xuất khẩu đi các nước của nước ta chỉ đạt 15%. Tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao động, nguồn thu cho ngân sách và
cho chính bản thân người lao động.
Bảng 3:Tổng hợp lao động và ngành nghề
Đơn vị: người
Thị trường Ngành nghề
Số LĐXK đã qua đào tạo Tổng
2006 2007 2008
Nhật Bản

Công nghiệp 3950 4158 4577 12685
Vận tải biển 1211 1130 1078 3419
Xây dựng 75 137 57 269
Ngành nghề khác 124 92 430 646
Lao động lành nghề (TDC) 4652 4373 5822 14847
Cộng 5360 5517 6142 17019
Hàn Quốc
Công nghiệp 8205 10462 14219 32886
Thuyền viên tàu cá 1219 1409 2380 5008
Vận tải biển 90 82 68 240
Xây dựng 1031 152 783 1966
Ngành nghề khác 32 82 691 805
Lao động lành nghề (TDC) 1255 1579 8428 11262
Cộng 10577 12187 18141 40905
4
Thị trường Ngành nghề
Số LĐXK đã qua đào tạo Tổng
2006 2007 2008

Đài Loan
Khán hộ công, giúp việc gia
đình
1419 8734 7430 17583
Công nghiệp 10980 12980 21492 45452
Vận tải biển 252 71 55 378
Thuyền viên tàu cá 1376 1812 1890 5078
Xây dựng 12 15 21 48
Ngành nghề khác 88 28 743 859
Lao động lành nghề (TDC) 4325 8033 9534 21892
Cộng 14127 23640 31631 69398
Malaysia
Công nghiệp 35237 26442 7337 69106
Giúp việc gia đình 0 0 245 245
Nông nghiệp và dịch vụ 2704 239 192 3135
Lao động lành nghề (TDC) 3915 4705 2467 11087
Cộng 37941 26704 7810 72455
Cata
Xây dựng 327 470 150 947
Công nghiệp (SXCT) 0 3 0 3
Dịch vụ (Nhà hàng, KS….) 27 20 0 47
Lao động lành nghề (TDC) 2885 3019 1135 7039
Cộng 3219 4685 2757 10661
UAE
Xây dựng 1420 1488 2341 5249
Công nghiệp (SXCT) 302 667 477 1146
Dịch vụ (Nhà hàng, KS….) 38 15 27 80
Lao động lành nghề (TDC) 1585 1554 2389 5528
Cộng 1760 2130 2845 6735
Ả rập xê út

Xây dựng 59 711 1232 2002
Công nghiệp (SXCT) 22 457 708 1187
Vận tải 17 41 61 119
Giúp việc gia đình 0 452 986 1438
Lao động lành nghề (TDC) 74 955 1293 2322
Cộng 98 1620 2987 4705
CH Séc
Công nghiệp 0 338 1370 1708
Dệt may 0 85 47 132
Xây dựng 0 0 15 15
Dịch vụ 7 0 0 7
Lao động lành nghề (TDC) 0 406 1127 1533
Cộng 7 423 1432 1862
Ma Cao Giúp việc gia đình 0 1169 2474 3643
Dịch vụ 0 836 446 1282
Công nghiệp 0 2 3 5
5
Thị trường Ngành nghề
Số LĐXK đã qua đào tạo Tổng
2006 2007 2008
Khác 7 125 102 234
Lao động lành nghề (TDC) 0 869 548 1417
Cộng 0 2132 3025 5157
Khác Cộng 5766 5982 11355 23103
Tổng cộng 57202 53268 42294 152764
Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước
Ngành nghề mà chúng ta có sử dụng nhiều lao động xuất khẩu cũng chỉ hạn chế
như ngành xây dựng, vận tải biển, khán hộ công và giúp việc gia đình, thuyền viên tàu cá,
dệt may…; trong khi đó các ngành nghề đòi hỏi tay nghề và trình độ như các ngành công
nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng…thì số lượng lao động của Việt Nam còn khiêm tốn.

Bài toán nhằm giải quyết trình độ của người lao động đang là một vấn đề được đưa ra bàn
luận tại các cuộc họp của Quốc hội. Bởi Việt Nam xuất phát điểm từ một đất nước thuần
nông, mọi lối sống, tác phong của người Việt Nam đều bị ảnh hưởng mãnh mẽ bởi nền
nông nghiệp canh tác lúa nước. Đây là một trong những khó khăn mà chúng ta không thể
khắc phục trong một sớm một chiều; cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhân dân và
chính phủ.
1.2. Hoạt động xuất khẩu lao động sang Libya
Qua phân tích tình hình thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam những năm 2007 –
2010, chúng ta có thể thấy Libya là một thị trường tương đối mới và bắt đầu có xu hướng
nổi lên, đóng góp tỷ trọng ngày càng lớn trong xuất khẩu lao động của Việt Nam. Bắt đầu
tham gia vào năm 2007, nhưng đến năm 2011, một sự kiện lớn đã xảy ra tại Libya đã làm thị
trường này gần như sụp hẳn, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu lao động toàn
ngành và đến lực lượng lao động xuất khẩu của nước ta. Vậy tình hình hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam sang Libya như thế nào và điều gì đã khiến nó không còn tiếp tục, thực trạng
hoạt động xuất khẩu ngay sau đây sẽ cho chúng ta biết điều đó.
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang Libya.
2.1. Mở rộng hoạt động xuất khẩu sang thị trường mới - Libya
2.1.1. Yêu cầu trong nước.
Trong những năm gần đây chúng ta gặp rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu sang các
thị trường truyền thống ở các thị trường này nó đòi hỏi về chất lượng lao động khá cao, và
do tình trạng lao động nước ta thường xuyên phá bỏ hợp đồng ra ngoài làm, một phần nữa
là do sự cạnh tranh khá quyết liệt giữa lao động của ta và lao động của các nước trong khu
vực.
Do biến động của tình hình kinh tế thế giới trong những năm gần đây đã có những
tác động không tốt đến việc xuất khẩu lao động của chúng ta.
6
Do chính sách của nhà nước hướng việc xuất khẩu lao động sang thị trường các
nước trung đông và Libya vì trong những năm gần đây quan hệ hợp tác giữa nước ta và
các nước trung đông đặc biệt được nâng cao cán cân thương mại 2 chiều tăng mạnh.
Mặt khác việc ra tăng dân số quá nhanh mà việc đáp ứng nhu cầu việc làm vẫn là

một vấn đề nan giải nhiều người thất nghiệp cho nên việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động
cũng là một chính sách giải quyết tạm thời vấn đề đó.
2.1.2. Cơ hội từ thị trường Libya
Libya là một quốc gia nằm ở khu vực Bắc Phi, là một quốc gia khá rộng lớn, là nước
rộng thứ 17 trên thế giới, phía Bắc giáp Địa Trung Hải, phía Tây giáp với Tuynidi và An-giê-
ri, phía Tây nam với Ni-giê, phía nam với Tchad và Xu-dăng, phía đông giáp với Ai Cập. Với
đường bờ biển dài hơn 1770 km, Libya là quốc gia có đường bờ biển dài nhất ở Địa Trung
Hải. Khí hậu đa phần là khô và mang tính chất sa mạc.
Libya là một trong những quốc gia có GDP trên đầu người cao nhất Châu Phi. Là
một quốc gia có số dân rất ít nhưng lại sở hữu lượng tài nguyên khổng lồ, đặc biệt là dầu
mỏ. Nền kinh tế Libya phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn thu từ lĩnh vực dầu khí, trên thực tế
là chiếm toàn bộ nguồn thu từ xuất khẩu và khoảng ¼ GDP. Libya có một hệ thống an sinh
xã hội cao và rộng rãi một cách đáng kinh ngạc, đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở và giáo dục.
So sánh với các nước láng giềng xung quanh, Libya có mức nghèo tuyệt đối và tương đối
khá thấp.
Mặc dù có diện tích lớn như vậy, nhưng dân số của Libya chỉ có khoảng 5,8 triệu
người và phân bố chủ yếu ở 2 thành phố lớn, là Tripoli và Benghazi, mật độ dân số thuộc
hàng thấp nhất trên thế giới.
• Từ thực tế trên cho thấy:
- Libia là một quốc gia ít dân nhưng giàu tài nguyên,nhu cầu phát triển còn rất lớn.
- Libya thiếu lao động trầm trọng trong các lĩnh vực như xây dựng cơ bản, dịch vụ tư
gia, lao động nông nghiệp.
- Cái thiếu nay Libya không thể giải quyết được bằng cung lao động trong nước
=> Phải nhập khẩu lao động từ nước ngoài.
2.1.3. Quyết định tham gia.
Việt nam và Libya đã có mối quan hệ truyền thống từ rất lâu, đang ngày càng được
củng cố và phát triển, thông qua quan hệ hữu nghị và hợp tác song phương nhiều mặt ngày
càng được củng cố. Cùng với quan hệ chính trị tốt đẹp, các quan hệ kinh tế cũng không
ngừng được đẩy mạnh. Hai nước đã kí kết nhiều hiệp định quan trọng như: Hiệp định hợp
tác kinh tế, khoa học kỹ thuật (19/02/1976), Hiệp định thương mại(17/10/1983)…

7
Đó là do việc mở rộng quan hệ hợp tác giữa chúng ta và Libya ngày càng được
nâng cao, không chỉ trên phương diện chính trị mà còn trên cả phương diện kinh tế cán cân
thương mại hai chiều luôn tăng mạnh.
Không chỉ vậy thị trường lao động ở Libya đòi hỏi trình độ lao động cũng không cao
chủ yếu hoạt động trong các ngành xây dựng giao thông vận tải, đóng tàu, lắp giáp đường
ống cho lên lực lượng lao động nước ta hoàn toàn có thể đáp ứng được.
Thu nhập ổn định, người lao động không phải đóng thuế thu nhập cũng như bất kỳ
khoản thuế, phí nào khác cho chính phủ nước sở tại.
Trên cơ sở những mối quan hệ tốt đẹp đó, cùng với nhận định, Libya là một trong
những nước có tiềm năng kinh tế lớn nhất châu Phi, nền kinh tế của Libya đang phát triển
rất năng động, quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước này đang ngày càng được mở rộng.
Với tiềm lực tài chính dồi dào từ dầu mỏ, Libya đang ra sức xây dựng kinh tế, trên cơ sở tập
trung vào các ngành như: xây dựng, cơ sở hạ tầng công nghiệp…Đồng thời, cũng nhận
định rõ, nhu cầu về thuê lao động nước ngoài của libya là rất lớn. Đứng trước tình hình đó,
các doanh nghiệp việt nam đã quyết định chọn Libya làm điểm đến cho hoạt động xuất khẩu
lao động của mình.
2.2. Gia nhập thị trường
2.2.1. Vai trò của Chính phủ, Nhà nước
• Chính phủ đưa ra luật chung về xuất khẩu lao động:
Ngày 08/10/2007, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số
21/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP.
Theo đó, sau khi NLĐ trúng tuyển đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp dịch vụ
phải cam kết với NLĐ về thời gian chờ xuất cảnh. Trong thời gian này, nếu NLĐ không có
nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài nữa, doanh nghiệp dịch vụ phải trả lại hồ sơ cho NLĐ và
NLĐ phải chịu các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi (nếu có) để làm thủ tục cho người
lao động đi làm việc ở nước ngoài…
Nếu quá thời gian đã cam kết mà doanh nghiệp vẫn chưa đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài thì phải thông báo rõ lý do cho NLĐ. Nếu NLĐ không có nhu cầu đi làm việc ở

nước ngoài nữa thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày NLĐ thông báo không có nhu cầu,
doanh nghiệp phải hoàn trả cho NLĐ hồ sơ, các khoản chi phí mà NLĐ đã nộp cho doanh
nghiệp…
Doanh nghiệp dịch vụ ký hợp đồng với NLĐ ít nhất 5 ngày trước khi NLĐ xuất cảnh
và chịu trách nhiệm quản lý hồ sơ của NLĐ. Doanh nghiệp chỉ được thu tiền dịch vụ và tiền
môi giới của NLĐ sau khi ký hợp đồng với NLĐ và NLĐ được phía nước ngoài chấp nhận
vào làm việc hoặc cấp visa…
Trường hợp doanh nghiệp đơn phương thanh lý hợp đồng thì biên bản thanh lý hợp
đồng phải có các nội dung: lý do đơn phương thanh lý hợp đồng, việc thực hiện nghĩa vụ
của các bên, các khoản thanh toán giữa doanh nghiệp dịch vụ và người lao động, các nội
dung về bồi thường thiệt hại (nếu có) kèm theo chứng từ chứng minh nội dung thiệt hại…
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày NLĐ xuất cảnh, doanh nghiệp phải báo cáo danh
sách NLĐ làm việc ở nước ngoài với Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước
sở tại. Doanh nghiệp có trách nhiệm cử cán bộ quản lý tại các nước, khu vực doanh nghiệp
đưa nhiều NLĐ sang làm việc hoặc tại thị trường lao động đặc thù theo quy định. Đồng thời,
8
theo dõi, giám sát việc thực hiện Hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động và NLĐ,
giải quyết kịp thời các phát sinh vượt quá khả năng tự giải quyết của NLĐ hoặc khi NLĐ yêu
cầu trợ giúp…
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 7/11/2007.
• Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ra quyết định thành lập Ban quản lý
lao động thuộc Đại sứ quán Việt Nam tại Libya.
Ban quản lý lao động thuộc Đại sứ quán Việt Nam tại Libya có nhiệm vụ nghiên cứu,
tìm hiểu thị trường, chính sách và phương thức nhận lao động nước ngoài của Lybia để đề
xuất với Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về chủ
trương, chính sách, giải pháp và mô hình quản lý đưa người lao động Việt Nam sang làm
việc tại Lybia theo hợp đồng. Ngoài ra còn thẩm định các điều kiện và tính khả thi của hợp
đồng tiếp nhận lao động Việt Nam, thẩm định tư cách pháp nhân, giấy phép nhận lao động
nước ngoài của Libya; nghiên cứu, đề xuất những biện pháp thúc đẩy phát triển quan hệ và
triển khai các hoạt động hợp tác với Libya trong lĩnh vực lao động và xã hội.

Ngoài ra, Ban quản lý có nhiệm vụ hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận thị trường, ký
hợp đồng đưa lao động sang làm việc tại Libya theo đúng pháp luật của Việt Nam và của
Libya. Bên cạnh đó là hướng dẫn, kiểm tra đại diện các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại Libya, xử lý các
vấn đề phát sinh, giải quyết tranh chấp lao động liên quan đến việc đưa người lao động Việt
Nam sang làm việc tại Libya. Thực hiện biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động và doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
 Nhờ những chính sách và chủ trương này của chính phủ thì các doanh nghiệp
đã có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện đưa lao động sang thị trường Libya
làm việc.
2.2.2. Các doanh nghiệp tham gia thị trường Libya.
• Công ty Sovilaco
Đầu năm 2007, Cục Quản lý Lao động ngoài nước đã cho phép Công ty XKLĐ –
Thương mại và Du lịch Sovilaco thí điểm đưa lao động sang làm việc ở Libya trong lĩnh vực
xây dựng. Đơn hàng đầu tiên ở thị trường mới này với nhiều vị trí tuyển dụng như kỹ sư xây
dựng, bác sĩ, y tá, phiên dịch, đốc công, thợ lái máy xúc, xe nâng, xe lu, thợ xây, thợ ống
nước, đầu bếp Điều kiện tuyển chung là nam, từ 25-40 tuổi, sức khỏe tốt, ưu tiên có kinh
nghiệm, một số vị trí biết giao tiếp tiếng Anh.
Theo ông Vũ Hồng Oai, Trưởng Phòng XKLĐ 2 của Sovilaco, lương cơ bản (chưa
kể tiền làm thêm giờ) của người lao động theo hợp đồng đạt từ 265 USD đến 365
USD/tháng đối với thợ các loại. Các vị trí khác có mức lương tương đối khá như y tá 600
USD/tháng, phiên dịch 1.000 USD/tháng, bác sĩ 1.200 USD/tháng, kỹ sư 1.600 USD/tháng
Người lao động được chủ sử dụng lao động đài thọ ăn ở, thuế và bảo hiểm, vé máy bay
lượt đi. Tổng chi phí phải nộp từ 700 USD đến 1.600 USD/người, tùy vị trí.
• Công ty Vinaconec (Việt Nam)
Ngày 11/6/2007, sau một thời gian đàm phán, công ty đã ký được một hợp đồng
mới; đưa 3.873 lao động Việt Nam sang Libya làm việc trong thời gian tới. Ngay từ
12/6/2007, Trung tâm cùng phía bạn đã bắt đầu nhận hồ sơ dự tuyển số lao động này. Lao
động được tuyển sẽ làm việc tại các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng & dân dụng.
Cuối tháng 6 đầu tháng 7/2007 sẽ đi đợt đầu tiên, với khoảng 400 – 500 lao động

thuộc 71 ngành nghề; tiền lương cơ bản (mỗi ngày làm việc 8 giờ) có nhiều mức, trong đó
9
cao nhất 1.000 USD/tháng (với kỹ sư), thấp nhất 190 USD/tháng (với lao động phổ thông
làm nghề xây dựng, cơ khí)
Công ty thực hiện các thông báo rộng rãi, với hy vọng mọi lao động có nhu cầu đều
có cơ hội lựa chọn. Lao động cần tuyển đợt này là nam giới, tuổi 23 - 40, đạo đức và sức
khỏe tốt, tốt nghiệp PTCS trở lên; nếu là thợ thì tay nghề bậc 3/7 trở lên; có kinh nghiệm ít
nhất 5 năm (với kỹ sư và thợ), 3 năm (với lao động phổ thông làm nghề xây dựng, cơ khí).
Lao động theo hợp đồng 2 năm, sau đó sẽ được gia hạn. Tổng thu nhập bao gồm
lương cơ bản cộng với thu nhập từ làm thêm giờ và thưởng (nếu có). Ngoài tiền lương cơ
bản hằng tháng (như trên), nếu mỗi lao động có 2 giờ làm thêm mỗi ngày thì thu nhập cao
nhất (kỹ sư) sẽ là 1.375 USD/tháng; thấp nhất (lao động phổ thông làm nghề xây dựng, cơ
khí) 262 USD/tháng. Giờ làm việc cơ bản: 8giờ mỗi ngày, 6 ngày mỗi tuần. Sẽ được làm
thêm giờ, với mức 150% cho mỗi giờ làm thêm ngày thường, 200% cho mỗi giờ làm thêm
ngày nghỉ hằng tuần và ngày lễ theo quy định của Libya.
Người lao động sẽ được cấp vé máy bay lượt đi và về cho 2 năm hoàn thành hợp
đồng lao động. Chủ sử dụng lao động sẽ cung cấp nơi ăn, ở và chăm sóc y tế; riêng kỹ sư
sẽ được ở phòng riêng có điều hoà nhiệt độ. Mỗi lao động được hưởng thêm một tháng
lương cơ bản cho mỗi năm làm việc.Trước khi lên đường, mỗi lao động cần phải nộp từ
1.450 USD đến 1.550 USD (tuỳ theo mức lương cơ bản từng nghề); trong đó 700 USD đặt
cọc một lượt vé máy bay, phí dịch vụ XKLĐ một tháng lương cơ bản cho mỗi năm làm việc
ở nước ngoài theo quy định của Nhà nước. Kỹ sư được ưu tiên, chỉ nộp một tháng lương
cơ bản trước khi bay. Các chi phí trên chưa kể phí làm hộ chiếu, khám sức khoẻ, phí xin
visa theo quy định của Đại sứ quán Libya tại Việt Nam.
Và có rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động sang Liby, và có những doanh
nghiệp có thể kể đến:
• Công ty Cổ phần Nhân lực và Thương mại Vinaconex
• Cty Cổ phần Việt Thắng (VTC Corp)
• Chủ tịch Cty Sona: (thuộc Bộ LĐ-TB&XH)
• Công ty Cung ứng nhân lực quốc tế và Thương mại (SONA)

• Trung tâm Xuất khẩu Lao động và Thương mại Hàng không (Airserco)
• Trung tâm đào tạo XKLĐ INTRACO. Giấy phép XKLĐ số: 51/LĐTBXH-GP
• Công ty XKLĐ - TM và Du Lịch SOVILACO
• Công ty hợp tác đào tạo và XKLĐ (LETCO) - giấy phép XKLĐ số: 19/LĐTBXH-GP
• Công ty cổ phần SIMCO Sông Đà
• TT ĐT Nghề và XKLĐ, Công ty Vật tư công nghiệp Quốc phòng ( GAET)
• Công ty cổ phần Cung ứng nhân lực Việt- Nhật
• Công ty Đào tạo và Cung ứng Nhân lực-HaUI
• Công ty hợp tác đào tạo và XKLĐ (LETCO)
• Trung tâm Đào tạo XKLĐ và Du lịch Servico
• Công ty CP vận tải Biển Bắc, công ty TNHH 1 thành viên đào tạo và cung ứng nhân
lực QT Nosco.
• ………
Chưa kể đến mỗi công ty còn có rất nhiều các chi nhánh ở các tỉnh thành.
Trong đó: 3 công ty có lượng xuất khẩu sang Libya nhiều nhất:
Đầu tiên, Cty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thương mại Hợp tác nhân lực quốc tế đưa đi
(Vinaconemmec, Sjc): Đây là đơn vị có số lượng lao động làm việc tại Libya đông nhất với
hơn 2.920 lao động.
Thứ hai, Cty Sona: (thuộc Bộ LĐ-TB&XH) - đơn vị có số lao động làm việc đông thứ hai tại
Libya cho biết, đến thời điểm này, Sona chỉ mới TLHĐ cho hơn 400 lao động đủ điều kiện.
10
Đây là những lao động đã làm việc được hơn 2 năm tại Libya. Hiện, còn khoảng 800 lao
động (làm việc chưa được 1 năm tại Libya
Thứ ba, Cty Cổ phần Việt Thắng (VTC Corp) - đơn vị có số lượng lao động đông thứ ba tại
Libya (1.644 lao động)
2.2.3. Xuất khẩu lao động sang Libya – Thị trường mới cho người nghèo.
Không cần lao động có trình độ cao, chi phí ban đầu thấp, lương khá cao, theo luật
pháp Libya, người lao động nước ngoài đến làm việc sẽ không phải đóng thuế thu nhập
cũng như không phải đóng bất kỳ khoản thuế phí nào khác trong suốt thời gian làm việc
theo hợp đồng là 2 năm và có thể được gia hạn thêm 1 năm. Không những thế, chủ sử

dụng còn cung cấp phương tiện đi lại cho người lao động.
Vì vậy mà năm 2009, Bộ LĐ-TB&XH đã trình Chính phủ phương án đưa lao động
huyện nghèo (thuộc diện hỗ trợ theo QĐ 71 của Thủ tướng Chính phủ) đi làm việc tại thị
trường này. Tiếp đó, cuối tháng 5/2010, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành quyết định
phê duyệt đề án tăng cường quản lý lao động Việt Nam làm việc tại Libya, nhằm ổn định và
phát triển thị trường. Đây được coi là thị trường mà Bộ LĐ-TB&XH triển khai rất thận trọng
khi qua 6 tháng thẩm định, đề án mới được ban hành, các doanh nghiệp triển khai đề án
cũng được chọn lọc kỹ lưỡng; đơn hàng cũng được cán bộ của Cục Quản lý lao động ngoài
nước (QLLĐNN) thẩm định tại Libya, đảm bảo mức lương tối thiểu và các điều kiện lao
động khác mới được tiến hành đưa lao động sang.
Theo đề án này, Việt Nam dự kiến sẽ đưa 5.000 đến 7.000 lao động sang Libya làm
việc mỗi năm, trong đó 80% là lao động có nghề. Các doanh nghiệp tham gia thị trường này
cũng phải cam kết tuyển chọn tối thiểu 30% lao động thuộc các huyện nghèo; đồng thời phải
đảm bảo rất nhiều quyền lợi và điều kiện làm việc cho người lao động, phải đảm bảo những
điều kiện tối thiểu như thời hạn hợp đồng, mức lương cơ bản tối thiểu (sau khi trừ thuế, bảo
hiểm và các khoản đóng góp khác). Đối với lao động phổ thông, mức lương tối thiểu phải
đạt 220USD/tháng; đối với lao động có nghề là 250USD/tháng.
Thực tế với mức chi phí xuất cảnh khoảng 1.600USD, đây được coi là thị trường dành
cho người nghèo bởi mức lương trong hợp đồng vào khoảng 250USD, cộng với làm thêm
giờ, người lao động có mức thu nhập thực tế khoảng 7 triệu đồng/tháng. Ông Nguyễn Xuân
Vui, Tổng giám đốc Công ty Airseco, một trong những doanh nghiệp đang cung ứng lao
động xây dựng cho đối tác là nhà thầu xây dựng tại Libya cho rằng "mức lương này cạnh
tranh hơn hẳn so với các thị trường ở khu vực Trung Đông như Dubai, Qatar, Arập Xêút, đó
là chưa kể chủ sử dụng tại Libya nếu là tập đoàn đa quốc gia thì quyền lợi của người lao
động sẽ luôn được đảm bảo". Vì vậy mà Airseco đã mạnh dạn cam kết với người lao động
nếu có rủi ro như lương không đúng hợp đồng hay không đủ việc làm thì Airseco sẽ chịu
trách nhiệm bồi thường cho người lao động.
2.3 Khó khăn và hậu quả
Hợp tác lao động giữa Việt Nam và Libya được bắt đầu từ những năm 90. Đến nay, Việt
Nam đã đưa được hơn 17.000 lượt lao động sang làm việc tại Libya. Tính tới đầu năm

2010 , có khoảng 8.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại đây. Theo Bộ LĐ-TB&XH, lao
động Việt Nam sang Libya chủ yếu làm việc ở lĩnh vực xây dựng cơ bản. Mức lương cơ bản
khoảng 220 USD/tháng đối với lao động phổ thông, 250 USD/tháng đối với lao động có
chuyên môn và khoảng 900 - 1.000 USD/tháng đối với kỹ sư. Nếu chịu khó làm thêm giờ,
thu nhập bình quân có thể đạt xấp xỉ 400 USD/tháng đối với lao động phổ thông và khoảng
1.300 - 1.500 USD/tháng đối với kỹ sư. Nhìn chung, mức thu nhập này là khá hấp dẫn so
với các thị trường truyền thống của Việt Nam
11
2.3.1 Khó khăn từ phía người lao động
Thị trường Libya được đánh giá là thị trường hấp dẫn với người lao động , vì vậy,
chính phủ nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo, ưu tiên xuất lao động cho những vùng
nghèo như Nghệ an, Hà tĩnh…. Tuy nhiên, vấn đề xuất khẩu lao động sang Libya gặp trở
ngại là tổng chi phí mà người lao động nộp trước khi sang Libya bình quân từ 35 triệu đồng
đến 40 triệu đồng/người, trong đó hai khoản lớn nhất là phí dịch vụ và phí môi giới,trong đó
chi phí chính thức (chiếm 80%) còn lại là chi phí không chính thức. Ngoài ra, còn một số các
chi phí khác cho học hành, làm visa, hộ chiếu Đa phần người lao động phải vay vượn để
có tiền đi XKLĐ, khoảng 2/3 vay mượn hoàn toàn. Nhìn chung, mức phí này không quá cao
so với chi phí để xuất khẩu lao động sang các thị trường khác, nhưng với đối tượng lao
động phổ thông , tập trung chủ yếu ở các vùng quê nghèo.
Người lao động đánh giá cao các chính sách, chương trình cho vay của ngân hàng
chính sách, tuy nhiên, thủ tục vay còn rất phức tạp, mức cho vay còn thấp, tối đa là 20 triệu
đồng . Phần chi phí còn thiếu, người lao động phải vay mượn rất khó khăn. Điều này dẫn
tới hạn chế cơ hội xuất ngoại của đa số người dân nghèo.
Do người lao động có rất ít thời gian để học tiếng trước khi đi nên nếu xảy ra tranh
chấp họ không biết tiếng nên không thể trao đổi, trình bày hay thương thảo bất cứ vấn đề
gì với chủ sử dụng lao động, gây ra bế tắc cho cả hai bên.
2.3.2.Khó khăn từ phía doanh nghiệp XKLĐ
Theo báo cáo của Bộ LĐ-TB-XH, trong tổng số 165 DN XKLĐ hiện nay, chỉ có
khoảng 30% hoạt động hiệu quả. Trong đợt khảo sát mới đây, Ủy ban Các Vấn đề xã hội
của Quốc hội khuyến cáo nhiều hạn chế của DN XKLĐ cần phải được khắc phục. Đó là, quy

mô DN quá nhỏ, thiếu kinh nghiệm và năng lực; nhiều hợp đồng tìm qua môi giới chất lượng
không bảo đảm, quyền và lợi ích của NLĐ quá thấp; một số DN khoán trắng cho chi nhánh,
trung tâm, tuyển chọn lao động qua môi giới, liên kết tràn lan; thiếu trách nhiệm trong quản
lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ Hơn nữa, trong khi tại các thị trường truyền
thống của VIỆT NAM, có thể đưa lao động trực tiếp sang làm việc thì tại Libya vẫn phải đưa
người lao động qua một nước trung gian ( các công ty của nước thứ ba trúng thầu tại LIBI),
lao động Việt Nam chủ yếu làm việc tại các công trình xây dựng của các công ty Hàn Quốc,
Brazin, Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này gây ra nhiều khó khăn trong thủ tục xuất nhập khẩu, làm tăng
thời gian chờ đợi, tăng chi phí của người lao động, hạn chế tính chủ động cho các công ty
môi giới khi đưa người lao động sang làm việc cũng như trách nhiệm giải quyết các vấn đề
khi có trục trặc xảy ra.
12
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động còn gặp phải một bài toán đau
đầu khác,nguyên nhân xuất phát từ chính phía người lao động đó là cầu lớn, tay nghề lao
động lại thấp. Tuy lao động Việt Nam chủ yếu là lao động phổ thông tham gia chủ yếu vào
các lĩnh vực như khai thác dầu mỏ, xây dựng…nhưng đối với những nghành nghề này cũng
đòi hỏi làm việc theo tổ, đội, dễ quản lý, đảm bảo chất lượng công việc cũng như có những
thông báo, thông tin kịp thời phản hồi tới người lao động, nhưng các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động không thể tuyển đủ số lượng đốc công làm việc tại thị trường này.Hơn nữa,
người lao động VIỆT NAM thiếu tính kỉ luật, khả năng ngoại ngữ còn nhiều hạn chế do chỉ
được học tiếng từ 4-6 tháng trước khi sang lao động trực tiếp tại nước ngoài, môi trường
sinh hoạt cũng như hiểu biết về phong tục tập quán của nước bạn rất hạn chế. Hàng năm,
số người lao động Việt nam bị trả về nước do vi pham kỉ luật lao động tương đối cao. Điều
này ảnh hưởng ít nhiều tới uy tín của các doanh nghiệp này, gây khó khăn trong việc tìm
kiếm các hợp đồng khác.
2.3.3. Khó khăn từ phía libya
Libya một lãnh thổ rộng lớn, đứng thứ 4 ở châu Phi và thứ 17 trên thế giới, có trữ
lượng dầu hàng đầu thế giới, khoảng 44,3 tỉ thùng, hoạt động xuất khẩu dầu đứng thứ 3
châu Phi. Mật độ dân số thấp khoảng 3 người trên kilômét vuông (8,5/mi²) ở thành phố lớn,
và chưa tới một người trên kilômét vuông (1,6/mi²) tại những nơi khác. Vì vậy, Lybia là một

trong những quốc gia có số dân trên diện tích thấp nhất trên thế giới. 90% dân số sống trên
một vùng chiếm chưa tới 10% lãnh thổ .Kinh tế Libya phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn thu
từ lĩnh vực dầu khí, trên thực tế chiếm toàn bộ nguồn thu từ xuất khẩu và khoảng một phần
tư GDP. Các nguồn thu từ dầu khí đó cộng với số lượng dân chúng nhỏ khiến Libya trở
thành một trong những quốc gia có GDP trên đầu người cao nhất châu Phi và cho phép
nước này cung cấp cho người dân một hệ thống an sinh xã hội cao và rộng rãi đáng kinh
ngạc, đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở và giáo dục. Theo Worldbank, GDP bình quân đầu
người khoảng 14400 USD. So sánh với các nước láng giềng theo định hướng thị trường,
Libya có mức nghèo tuyệt đối và tương đối khá thấp. Trong ba thập kỷ qua, các nhà lãnh
đạo Libya đã có những nỗ lực thực hiện quá trình cải cách kinh tế như một phần của chiến
dịch rộng lớn hơn nhằm tái hòa nhập cộng đồng quốc tế. Đây được đánh giá là một thị
trường có tiềm năng lớn về kinh tế đối với lao động Việt Nam. Bởi với hoạt động xuất khẩu
dầu mỏ là chủ yếu thì mức lương trung bình cho lao động phổ thông là tương đối cao,người
lao động có điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm y tế, trợ cấp rủi ro tương đối . Bên cạnh đó,
Libya đang trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước nên đầu tư mạnh cho các hoat
động xây dựng công trình có quy mô lớn như sân bay TRIPOLI, đường vành đai, trường
học …… công việc rất phù hợp với lao động chủ yếu là lao động phổ thông của Việt Nam.
13
Tuy nhiên, điều kiện khí hậu khắc nghiệt cũng như sự khác biệt về văn hóa so với Việt NAM
là rất lớn, người lao động phải mất ít nhất là 3 tháng mới thích nghi được điều kiện sống.
Libya có nhà lãnh đạo phục vụ lâu năm nhất thế giới là ông Moammar Gadhafi. Quốc
gia giàu tài nguyên dầu khí này tuy có một mức sống bình đẳng hơn so với các nước láng
giềng, nhưng với hệ thống chính trị đàn áp, đôi khi độc đoán đã kéo dài hơn 41 năm là điều
mà người biểu tình muốn thay đổi. Các cuộc biểu tình bắt đầu vào ngày 15/2/2011 tại thành
phố Benghazi ở miền đông và đã lan tới thủ đô Tripoli. Các cuộc biểu tình này được khích lệ
bởi những cuộc nổi dậy lật đổ các nhà lãnh đạo ở Tunisia và Ai Cập.Libya chính thức rơi
vào một cuộc nội chiến đẫm máu và dường như những cuộc biểu tình đã không được ngăn
chặn kịp thời trước khi nó biến thành những cuộc bạo loạn mang màu sắc chiến tranh.
Cuộc chiến ở Libya, cũng như bạo động ở Trung Đông và Bắc Phi cũng không ngoài
nằm ngoài quy luật bất thành văn tồn tại nhiều thập kỷ qua: nơi nào nhiều dầu mỏ nhất, nơi

ấy nhiều biến động nhất. Hay nói cách khác, ở những giếng dầu, chiến tranh luôn gắn liền
với đồng tiền
Bất ổn chính trị tại Libya làm kinh tế thế giới chao đảo. Giá dầu tăng mạnh khi hàng
ngàn công nhân các hãng dầu khí vội vã sơ tán. Lao động Việt Nam chủ yếu tham gia các
công trình xây dựng như cầu, đường, sân bay, nhà máy điện, trường học, bệnh viện, cảng
biển và các công trình nhà ở dân dụng… Khi bất ổn xảy ra ở khu vực nào thì các công trình,
dự án đó ngừng thi công để đảm bảo an toàn cho người lao động. Lao động làm ở công
trường, dự án bị đốt phá phải chạy nương trú ở sân vận động, trong nhà thờ, trường học.
Số này và một số người lao động ở công ty có chủ là người nước ngoài đã sơ tán về nước
đang gặp khó khăn, thiếu thốn trong việc ăn, ở. Nhìn chung, người lao động phải đối mặt
với cuộc sống bị xáo trộn, mất việc làm, phải về nước khi hợp đồng chưa kết thúc, sợ hãi và
không biết tính mạng sẽ ra sao.
- Xét về khía cạnh các doanh nghiệp XKLĐ thì rủi ro chính trị tại Libya gây ra những
thiệt hại nặng nề về mọi mặt.
Được biết, tới thời điểm này nhiều công ty cho người lao động nợ tiền phí xuất cảnh như
công ty cổ phần Việt Thắng khoảng 4,5 tỷ đồng, công ty SONA khoảng 3 tỷ đồng, công ty cổ
phần Việt Nhật khoảng 5 tỷ đồng…Lý do chính là thời điểm cuối năm 2010 khi việc đưa lao
động sang Libya bình thường trở lại, người lao động lại khó vay vốn ngân hàng để xuất
cảnh. Doanh nghiệp xuất khẩu lao động xử lý linh hoạt bằng cách cho lao động vay và trừ
dần vào lương. Tới nay lao động mới sang chưa có lương thì chắc chắn doanh nghiệp khó
có thể đòi khoản nợ này. Đó là còn chưa kể tới các khoản chi phí khác để đảm bảo an toàn
và đưa lao động rời khỏi Libya về nước như tiền vé máy bay…Thủ tướng Chính phủ đã
cho phép sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước để hỗ trợ các doanh nghiệp được
phép đưa lao động đi làm việc ở Libya 50% khoản tiền môi giới doanh nghiệp phải
14
hoàn trả cho người lao động. 50% còn lại các doanh nghiệp sẽ phải tự bỏ tiền túi trả
lao động nếu như không đòi được từ chủ sử dụng hoặc công ty môi giới.
- Người lao động chịu thiệt hại.
Theo thống kê, khoảng 50% lao động Việt Nam sang Libya đã làm việc hơn 1/2 thời
hạn hợp đồng (3 năm). Phần còn lại làm việc dưới 1/2 thời hạn hợp đồng, trong đó phần

nhiều chỉ mới làm việc từ 1 – 6 tháng. Đây là số lao động bị thiệt hại lớn nhất do thời gian
làm việc quá ít, chưa tích lũy được bao nhiêu, không đủ để bù đắp chi phí. Sau niềm vui về
nước là nỗi lo về khoản nợ nần. Đó là thực tế của nhiều lao động Việt Nam làm việc ở Libya
phải về nước sớm vì 90% trong số này là lao động nghèo ở nông thôn, phải vay tiền làm chi
phí đi xuất khẩu lao động
Theo ông Nguyễn Lương Trào - Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam: “Chưa bao giờ
XKLĐ bị thiệt hại nặng nề như năm 2011, khi phải cấp tốc đưa hơn 10.000 người
đang làm việc về nước do bất ổn chính trị tại Libya. Bao công sức gây dựng thị
trường này đã mất hết, ảnh hưởng tới cả tình hình chung của kế hoạch XKLĐ”
Với hơn 10 ngàn lao động về nước, gánh nặng không chỉ trên vai các doanh nghiệp
đưa đi mà còn là gánh nặng của nhà nước. Hỗ trợ khoảng 50 tỷ đồng lấy chủ yếu từ Quỹ
Hỗ trợ việc làm ngoài nước đối với người lao động ở 62 huyện nghèo từ Libya về nước
trước thời hạn. Doanh nghiệp cũng sẽ được nhà nước hỗ trợ một phần phí môi giới chưa
hoàn trả. Bên cạnh đó con số lao động thất nghiệp, thiếu việc làm vì thế cũng gia tăng, đặt
ra bài toán về giải quyết việc làm?
2.4. Nỗ lực khắc phục hậu quả của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
sang Libya.
2.4.1. Giai đoạn trước năm 2011.
Thị trường xuất khẩu lao động Libya là một thị trương đầy tiềm năng, tuy nhiên đã có
không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc đảm bảo về người lao động trước các
đối tác khi đưa người sang đây.
Để giữ thị trường nhiều tiềm năng này, thực hiện công văn yêu cầu của Cục
QLLĐNN về việc tham gia xuất khẩu lao động sang thị trường Libya, các doanh nghiệp đã
thực hiện tăng cường quản lý lao động.
Khi thẩm định hợp đồng thực hiện chứng minh tư cách pháp nhân của công ty sử
dụng lao động và được cơ quan có thẩm quyền của Libya cho phép thực hiện.
Doanh nghiệp cung cấp phương án thực hiện hợp đồng một cách cụ thể từ tuyển
chọn đến đào tạo, đưa lao động đi cũng như quản lý lao động tại Libya.
Thành lập các tổ, đội lao động và cử điều phối viên, đốc công, kỹ sư để hướng dẫn
người lao động trong công việc chuyên môn cũng như kịp thời nắm tình hình và giải quyết

các vấn đề phát sinh.
15
2.4.2. Giai đoạn năm 2011 – Khủng hoảng chính trị tại Libya.
Cuộc khủng hoảng chính trị ở Libya nổ ra đã làm các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động hết sức lao đao, gặp rất nhiều khó khắn từ công tác sơ tán người lao động khỏi vòng
nguy hiểm đến thanh lý hợp đồng và hỗ trợ người lao động tìm việc mới. Cùng với sự hỗ trợ
và giúp đỡ kịp thời của chính phủ, các doanh nghiệp đã tìm ra được những giải pháp hợp lý
để khắc phục những khó khăn đó. Sau đây chúng ta sẽ phân tích một số doanh nghiệp
trong rất nhiều doanh nghiệp rơi vào hoàn cảnh này.
• Sơ tán, bảo vệ, trợ giúp, đưa lao động về nước an toàn.
Những ngày giữa tháng 2 năm 2011, khi cuộc nội chiến nổ ra tại Libya, sau các cuộc
biểu tình, bạo đồng rồi các cuộc đàn áp đãm máu, đã làm các nhà máy, các công trình phải
tạm dừng hoạt đông, những người lao động nước ngoài phải nghỉ việc và được đưa vào
các hầm trú ẩn để tránh chiến tranh. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp có người lao
động đang làm việc tại đây đã có những biện pháp kịp thời, cập nhật tin tức thường xuyên,
phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước để sơ tán và bảo vệ an toàn cho người lao động.
Có 10 doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã đưa lao động sang làm việc tại Libya
trong các công trình xây dựng. Các doanh nghiệp này đã nhanh chóng có sự chuẩn bị để
ứng phó với tình hình.
+ Công ty Airseco tuy đưa lao động sang Libya không nhiều, chỉ có khoảng 200 lao
động nhưng công ty đã nhanh chóng thực hiện chỉ đạo của cơ quan chức năng, chủ động
làm việc với các đối tác, chủ sử dụng lao động trong việc bảo đảm an toàn cho người lao
động, bảo đảm các quyền lợi và phối hợp giải quyết rủi ro nếu có.
+ Công ty Cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại (Sona) là doanh nghiệp đầu
tiên
đã đưa được lao động di tản an toàn. Ngày 23.2, doanh nghiệp này đã đưa được 100 lao
động VN bằng xe buýt tới biên giới Ai Cập và nỗ lực đưa 2.000 lao động còn lại bằng các
phương tiện có thể (xe buýt, tàu thủy…). Doanh nghiệp này đã thuê 2 chuyên cơ tới TP.
Tripoli rồi quá cảnh qua Thái Lan để chở lao động về nước.
+ Vinaconex Mec có gần 3.800 lao động đang làm việc tại Libya, công ty thường

xuyên báo cáo với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Ngoại giao về tình hình người
lao động của Vinaconex gửi sang Libya; phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Libya và các
cơ quan chức năng của Việt Nam để để bảo đảm an toàn cho người lao động của
Vinaconex còn đang ở Libya và đưa người lao động sang những khu vực an toàn trước khi
trở về nước. Bước đầu, ngày 25/02, gần 179 lao động đã được chở về nước do công ty đối
tác của Vinaconex Mec ở Bồ Đào Nha thuê máy bay để di tản lao động về Việt Nam. Sau
16
khi rời sân bay, công ty Vinaconex Mec đã thực hiện chở toàn bộ lao động về Trung tâm dạy
nghề tại xã Phú Mĩ (Sóc Sơn – Hà Nội) để cho lao động nghỉ ngơi, nhận tiền hỗ trợ 1 triệu
đồng/người. Sau đó, công ty bố trí xe đưa các lao động ra bến xe để về quê trong ngày 26/2
• Thanh lý hợp đồng và giải quyết việc làm cho người lao động
Các doanh nghiệp cũng chịu thiệt hai lớn nên để có thể thanh lý đầy đủ hợp đồng
cho người lao động thì đều phải đợi hướng dẫn và hỗ trợ của chính phủ. Trong khi chờ đợi
thì một số doanh nghiệp cũng đã thanh lý hợp đồng cho những người lao dộng thuộc diện
hộ nghèo và đưa ra các chương trình xuất khẩu sang một số thị trường khác để người lao
động nhanh chóng có việc và doanh nghiệp cũng đi vào hoạt động bình thường trở lại.
+ Theo quan điểm của mình, công ty Việt Thắng vừa thực hiện thanh lý hợp động
với người lao động, vừa tích cực tìm mọi nguồn việc làm cả ở trong nước và thị trường
nước ngoài để có thể hoán chuyển miễn phí công ăn việc làm khác cho số lao động từ Libya
về nước như thị trường Malaysia, Ả rập xê út và Oman.
+ Một số doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam đã làm việc với các doanh nghiệp của Thổ
Nhĩ Kỳ. Phía đối tác đã đồng ý tiếp nhận lại lao động ở Libya sang làm việc tại các công
trình của họ tại Tanzania - một quốc gia ở phía Đông của Châu Phi. Một số doanh nghiệp
của Hàn Quốc cũng đề nghị tuyển dụng lao động đã từng làm việc ở Libya làm nghề hàn
nóng theo công nghệ mới với điều kiện làm việc và mức lương cao ổn định. Theo các doanh
nghiệp thì mức lương mà lao động Việt Nam sang làm việc tại các nước trên vẫn được giữ
nguyên mức như khi làm việc tại Libya, chẳng hạn với trình độ lao động phổ thông giản đơn,
mức lương từ 7 đến 8 triệu đồng/tháng.
+ Trong ngày 17/8/2011, tại huyện Mường Khương (Lào Cai) 47 người đi xuất khẩu
lao động đã được Công ty Nhân lực và Thương mại Vinaconex thanh lý hợp đồng lao động

từ Libya trở về theo khoản kinh phí tại Quyết định của Bộ Lao động Thương binh và xã hội,
từ 11-31 triệu đồng (tuỳ theo thời gian lao động tại nước ngoài).
Các khoản kinh phí bao gồm các khoản tiền thanh lý hợp đồng đối với đơn vị sử
dụng lao động, hoàn phí môi giới, bảo hiểm tai nạn của Công ty Bảo hiểm Pijico, mức hỗ trợ
theo cam kết của Tổng công ty Ximăng Việt Nam.
Cũng trong buổi thanh lý hợp đồng lao động, Công ty Vinaconex đã thông báo
thông tin về thị trường lao động xuất khẩu mới là Malaysia, Arập Xêút và đề nghị sẽ hỗ trợ
mức kinh phí cao nhất là 8 triệu đồng cho mỗi lao động đã từng đi xuất khẩu lao động sang
Libya nếu họ tiếp tục tham gia đi xuất khẩu lao động tại các nước này.
Trong hai ngày 18-19/8, Công ty Vinaconex sẽ tổ chức thanh lý hợp đồng với 46
lao động tại huyện Bắc Hà và 15 lao động tại huyện Si Ma Cai.
Tổng mức hỗ trợ của Công ty Vinaconex cho các lao động từ Libya trong đợt này
tại 3 huyện là gần 2,2 tỷ đồng.
17
+ Công ty Sona thì thực hiện chia số lao động đi Libya phải về nước sớm của công
ty làm hai đối tượng để tiến hành giải quyết quyền lợi cho người lao động.
Với những lao động đi được trên 1 năm, công ty sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng
theo luật lao động, đối tượng này sau khi thanh lý nếu nhà nước có chính sách hỗ trợ, công
ty sẽ tiến hành mời lao động lên để hỗ trợ theo chế độ của nhà nước. Còn với lao động mới
đi có thời gian chưa được 1 năm thì phải chờ chính sách hỗ trợ của nhà nước thì công ty
mới tiến hành thanh lý được.
Do hầu hết lao động đi Libya phải về nước, đa số đều có mong muốn đi tiếp và công
ty phải tiến hành thanh lý hợp đồng cũ theo luật định rồi mới đưa lao động đi được, công ty
đã đưa được một số lao động sang Ả rập xê út để làm việc ổn định”.
+ Là doanh nghiệp có gần 100 lao động Libya về nước, đa số lao động đi có thời
gian từ 1 năm trở lên nên dù chưa có chính sách hỗ trợ của nhà nước, Công ty Airseco
cũng đã tiến hành thanh lý xong cho số lao động và đưa người lao động sang thị trường
Nga làm việc. Llao động làm việc bên Nga lương và thu nhập dao động từ 275 USD đến
600 USD nếu lao động chịu khó làm thêm. So với các thị trường bình dân thì đây là mức thu
nhập chấp nhận được nên trong số lao động Libya của công ty phải về nước trước hạn đã

có hơn một nửa đăng ký làm thủ tục đi XKLĐ tại Nga.
 Kết quả: Việc thanh lý hợp đồng được các DN nỗ lực thực hiện khá tốt.
Tính đến đầu tháng 7 đã tiến hành thanh lý số lượng lớn. Cụ thể: Công ty Cung ứng nhân
lực quốc tế và thương mại (SONA) thanh lý được gần 90% trong tổng số 2.112 lao động đi
Libya; Công ty CP Nhân lực và Thương mại Vinaconex (Vinaconex Mec) đã thanh lý được
hơn 1.300 lao động; Công ty CP Việt Thắng thanh lý được hơn 500 lao động…, một số công
ty đưa lao động đi với số lượng ít hơn cũng đã tiến hành thanh lý xong hợp đồng.
• Chuyển hướng thị trường xuất khẩu lao động sau sự cố tại Libya.
Trong khi chờ Libya bình ổn trở lại, cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động đã quay trở lại khai thác thị trường trong khu vực. "Cầu" lớn, đòi hỏi tay
nghề thấp là những lợi thế để ngành xuất khẩu lao động có cửa ra trong thế "bí".
Cơ hội từ Malaysia
Các năm trước thị trường Malaysia luôn chiếm lượng lớn trong tổng số lao động
xuất ngoại của Việt Nam. Năm 2007 thị trường này tiếp nhận hơn 33.000 lao động Việt
Nam. Năm 2008-2009, do khủng hoảng tài chính, lao động sang Malaysia sụt giảm chỉ bằng
1/10 năm 2007. Năm 2010, các doanh nghiệp đã đưa tổng cộng 11.000 lao động sang
Malaysia. Khi thị trường Libya bị biến động thì một trong những thị trường truyền thống
đang có nhu cầu lao động lớn đang được Cục QLLDNN hướng tới chính là Malaysia.
18
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước (QLLĐNN), Bộ LĐ,TB&XH, đầu ra cho người
lao động có nhu cầu xuất ngoại vẫn được đảm bảo sau sự cố tại Libya. Hướng thị trường
trong thời gian tới vẫn là thị trường truyền thống, tập trung vào những vùng đang có sự
phục hồi sau khủng hoảng kinh tế và có chính trị ổn định. Một điển hình như thị trường
Malayxia hiện đang có nhu cầu lao động rất lớn. Trong đó, công việc cần lao động tập trung
ở các ngành nghề như công nghiệp điện tử, sản xuất chế tạo phụ tùng ô tô, nhựa, da dày,
may mặc.
Theo dự kiến, đến tháng 4/2011 sẽ có cuộc hội thảo giữa Việt Nam và Malaysia về
xuất khẩu lao động. Phía bạn chỉ có 28 triệu dân, rất thiếu nhân lực, môi trường tốt, thu
nhập cao hơn Việt Nam. Qua khảo sát lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia trong
các ngành như dệt may, giày da đều nhận được các thông tin tốt về thu nhập, điều kiện ăn

ở, làm việc
Về mức lương, ngành may mặc thấp nhất cũng khoảng từ 3,5 - 4 triệu đồng/tháng,
ngành cơ khí chế tạo lương tháng từ 5-6 triệu đồng/tháng.
Lãnh đạo Cục QLLĐNN cũng khẳng định, lợi thế của hơn 10.000 lao động về từ
Libya là đã có tay nghề, có kinh nghiệm làm việc với chủ thầu nước ngoài. Nếu sang
Malaysia số tiền đầu tư thấp, chỉ hơn 20 triệu đồng, lại được doanh nghiệp tạo điều kiện cho
vay. Năm 2010, Việt Nam đưa được 5.000 lao động sang Libya, số này chỉ bằng số lẻ đưa
sang Malaysia. Như vậy, với nhu cầu hiện tại của nước bạn, Việt Nam hoàn toàn có thể giải
quyết được. Bởi vậy, Cục QLLĐNNN cho rằng, việc tiếp tục đưa lao động sang không khó
về mặt tài chính, cơ chế.

Hiện nay, ngoài thị trường Malaysia thì thị trường Đài Loan vẫn được đánh giá có
sức hút với lao động Việt Nam. Các ngành nghề cần lao động phổ thông gồm lắp ráp điện
tử, cơ khí. Thời hạn hợp đồng 2 năm đối với cả lao động phổ thông và lao động có tay
nghề. Đặc biệt, với lao động có tay nghề cao sẽ được hưởng mức lương từ 20,5 - 25,5 triệu
đồng/tháng. Thời gian làm việc 10 giờ/ngày, 4 ngày/tuần. Người lao động được chủ sử dụng
bố trí nơi ăn, ở sau đó trừ vào lương khoảng 1,7 triệu đồng/tháng.
 Việc chủ động có những giải pháp kịp thời trước tình hình bất ổn leo thang ở Libya
đã cho thây các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam đã hoạt động thực
sự và có hiệu quả cao. Trước tình hình rủi ro chính trị, thì việc phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan ban nganh của chính phủ là một sự lựa chọn đúng đắn. Điều đó đac
giúp các doanh nghiệp phần nào giảm được thiệt hại cho mình cũng như cho người
lao động.

2.5. Vai trò của chính phủ Việt Nam trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp và
người lao động trong hoạt động xuất khẩu sang Libya.
2.5.1. Giai đoạn trước năm 2011.
19
Thị trường xuất khẩu lao động Libya là một thị trương đầy tiềm năng, tuy nhiên đã có
không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc đảm bảo về người lao động trước các

đối tác khi đưa người sang đây.
Từ ngày 8 đến 13 tháng 11 năm 2009, Đoàn công tác của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội do Thứ trưởng Nguyễn Thanh Hoà dẫn đầu đã thăm và làm việc tại Libya để
trao đổi các giải pháp để tăng cường hơn nữa hợp tác giữa Việt Nam và Libya trong lĩnh
vực lao động, trao đổi và thống nhất việc ký kết Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực này
Để giữ thị trường nhiều tiềm năng này, Cục QLLĐNN đã có công văn yêu cầu các
doanh nghiệp tham gia thị trường Libya tăng cường quản lý lao động.
Theo đó Cục yêu cầu doanh nghiệp khi thẩm định hợp đồng phải chứng minh tư
cách pháp nhân của công ty sử dụng lao động và được cơ quan có thẩm quyền của Libya
cho phép thực hiện.
Doanh nghiệp còn phải cung cấp phương án thực hiện hợp đồng một cách cụ thể từ
tuyển chọn đến đào tạo, đưa lao động đi cũng như quản lý lao động tại Libya. Tại Libya,
doanh nghiệp phải cử cán bộ quản lý lao động có đủ trình độ, nghiệp vụ, hoạt động dưới ba
chức danh: điều phối viên hoặc kỹ sư, đốc công.
2.5.2. Giai đoạn năm 2011 – Hỗ trợ trong và sau khủng hoảng chính trị
tại Libya năm 2011.
Trước tình hình khủng hoảng chính trị ở Libya, hơn 10000 lao động Việt Nam cần
nhanh chóng trở về nước để được đảm bảo an toàn về tính mạng và của cải. Chính phủ
Việt Nam đã kịp thời đưa ra những giải pháp tức thời và lâu dài để hỗ trợ người lao động và
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
• Giải pháp tức thời:
Ngay khi tình hình chính trị ở Libya có những biến động bất thường làm các nhà máy
ở đây phải đóng cửa, hầu hết các công trường đều phải tạm dừng hoạt động. Lao động Việt
Nam đã được chủ sử dụng yêu cầu ở trong trại hoặc sơ tán đến nơi an toàn và được cung
cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên họ vẫn luôn trong tình trạng lo ngại về những
mối nguy hiểm đang đe dọa do chiến tranh.
Từ đó, các cơ quan ban ngành liên quan đã nhanh chóng có những biện pháp tức
thời để giảm những thiệt hai có thể xảy ra
- Cục quản lý lao động ngoài nước là cơ quan trực tiếp tham gia chỉ đạo
việc ổn định

tình hình lao động đang làm việc tại Libya:
+ Do tình hình Libya diễn biến phức tạp, Cục Quản lý lao động ngoài nước
quyết định tạm dừng đưa lao động sang nước này. đối với những lao động đã hoàn tất các
thủ tục, DN thông báo và tạm thời đưa họ trở lại địa phương, đến khi tình hình ổn định mới
tập trung cho xuất cảnh trở lại. Riêng những lao động đã tuyển chọn, DN vẫn có thể duy trì
20
các hoạt động đào tạo nghề, học ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết trước khi đi như
bình thường.
+ Ra công văn yêu cầu các doanh nghiệp đang có lao động làm việc tại Libya
chỉ đạo các cán bộ đại diện tại Libya theo dõi sát tình hình xung đột vũ trang ở đất nước
này, báo cáo kịp thời với Ban Quản lý lao động, Đại sứ quán Việt Nam tại Libya để được
hướng dẫn và hỗ trợ xử lý, nếu lao động Việt Nam bị ảnh hưởng đến tính mạng, công việc,
thu nhập.
+ Cục khuyến cáo người lao động cần tránh những địa điểm có biểu tình,
tránh tụ tập nơi đông người.
+ Tổ chức cuộc họp với đại diện các doanh nghiệp có lao động đang làm việc
tại Libya; Cục Lãnh sự và Vụ Tây Á – Châu Phi (Bộ Ngoại giao) bàn biện pháp xử lý. Cục đã
yêu các doanh nghiệp tiếp tục phối hợp chặt chẽ với đối tác để đảm bảo an toàn và đời
sống cho người lao động.
- Đại sứ quán Việt Nam ở Libya cũng đã nhanh chóng đưa ra các biện
pháp:
+ Họp với đại diện các công ty Việt Nam xuất khẩu lao động tại Libi để thông
báo tình hình, nắm các vấn đề liên quan đến người lao động. Hai bên thường xuyên duy trì
liên lạc.
+ Làm việc với các cơ quan chức năng nước sở tại và lãnh đạo các công ty
sử dụng lao động Việt Nam, đề nghị họ có biện pháp bảo đảm an toàn cho người lao động;
đảm bảo việc cung cấp nhu yếu phẩm và sơ tán người lao động đến nơi an toàn khi cần
thiết.
+ Khi tình hình bất ổn lan rộng ra khắp các khu vực của Libi, Đại sứ quán đã
kịp thời báo cáo các cơ quan chức năng trong nước để chỉ đạo các công ty xuất khẩu lao

động Việt Nam ngừng đưa lao động sang, phối hợp chặt chẽ với với các công ty nhận lao
động Việt Nam trong việc sơ tán, giải quyết quyền lợi cho người lao động.
+ Theo chỉ đạo ở trong nước, Đại sứ quán cũng đã dự kiến các phương án
đưa người lao động ra khỏi Libi, đồng thời tích cực phối hợp với các công ty nước ngoài
nhằm giải quyết các thủ tục cần thiết để họ có thể đưa lao động Việt Nam về nước.
- Ngay trong chiều 24/2, Bộ Lao Động – Thương Binh & Xã Hội đã
họp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Tổng Công ty Hàng không Vietnam Airlines và các cơ
quan có liên quan để đề các phương án, kịp thời đưa người lao động Việt Nam về nước.
Các bộ, ngành, cơ quan có liên quan đều thống nhất rất cao với mục tiêu bảo đảm an toàn
cho người lao động Việt Nam trong bất cứ tình huống nào
+ Cử một số nhóm công tác sang các quốc gia láng giềng của Libi - nơi mà
21
lao động Việt Nam có thể đi bằng đường bộ, đường biển sang, để hỗ trợ, giúp đỡ, bảo đảm
an toàn cho họ. Sau đó mới tính phương án đón người lao động về nước.
+ Phương án liên kết với các hãng hàng không của các quốc gia khác để
đưa người lao động Việt Nam về nước.
Với sự kịp thời này thì trong đến ngày 24/2, tình hình bất ổn mới xảy ra thì tất cả lao
động Việt Nam tại Libi vẫn đang được đảm bảo an toàn, hầu hết đều đã nghỉ việc (nhất là ở
những nơi phức tạp như Tripôli, Banghazi), được cung cấp thức ăn, nước uống đầy đủ và
được khuyến cáo không được đi ra ngoài Đến thời điểm này, đã có khoảng 2.000 lao động
Việt Nam được đưa sang các nước lân cận. Đã có một số đoàn, nhóm lao động Việt Nam
được một số công ty Hàn Quốc, Braxin, Thổ Nhĩ Kỳ đưa ra khỏi Libi bằng đường bộ, đường
hàng không và đường thủy để sau đó về nước.
• Di chuyển toàn bộ người lao động Việt Nam về nước an toàn
Trước tình hình bất ổn tại Libya ngày càng gia tăng, tình hình thông tin liên lạc gặp
nhiều khó khăn, phương tiện vận tải hầu như tê liệt. Về lâu dài, vấn đề cung cấp lương
thực, thực phẩm cho ngay cả người dân sở tại cũng khó khăn.Việc đưa người lao động về
nước ngày càng trở nên cấp bách. Chiều 25/2, Thủ tướng Chính phủ đã họp với Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông
Vận tải, Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam, và các cơ quan truyền thông chỉ đạo việc sơ

tán người lao động Việt Nam tại Libya về nước. Ngay trong buổi họp đầu tiên Thủ tướng
đưa ra 2 yêu cầu: Một là, đảm bảo về tính mạng, tài sản của người lao động Việt Nam tại
Libya. Hai là, khẩn trương đưa người lao động về nước một cách an toàn, trật tự. Đồng thời
chỉ đạo 7 biện pháp để thực hiện các yêu cầu trên.
Thực hiện sự chỉ đạo của chính phủ theo thống báo số 29/TB-VPCP, các cơ quan
ban ngành và các doanh nghiệp đã thực hiện đưa hơn 10000 lao động Việt Nam ở Libya về
nước an toàn.
+ Ban chỉ đạo sơ tán công dân Việt Nam tại Trung Đông và Bắc Phi đã được thành
lập do đồng chí Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao làm
Trưởng ban và đồng chí Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm Phó trưởng
ban.
+ Sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước để hỗ trợ người lao động về nước với
mức 01 triệu đồng/người. Sau khi người lao động về nước, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội căn cứ các quy định liên quan và tình hình thực tế để giải quyết hỗ trợ cho người lao
động.
22
+ Ngay sáng ngày 26/2, Ban chỉ đạo đã họp và quyết định cử Đoàn công tác tiền
phương do đồng chí Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đoàn Xuân Hưng làm Trưởng đoàn, đóng
tại Tunisia và đưa cán bộ tăng cường tới 5 địa bàn có người lao động Việt Nam di tản từ
Libya sang, gồm: Tunisia, Ai Cập, Malta, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ để hỗ trợ công dân ta thực
hiện các thủ tục lãnh sự, can thiệp với các nước nhằm tạo điều kiện tốt nhất có thể cho
công dân ta từ Libya sang.
+ Ban chỉ đạo đã làm việc với các tổ chức quốc tế trong đó có Tổ chức Di trú quốc tế
(IOM) và các công ty sử dụng lao động Việt Nam để họ chia sẻ trách nhiệm với Chính phủ
ta trong việc đưa người lao động ta về nước.
+ Tính đến hết ngày 6/3/2011, toàn bộ số lao động Việt Nam làm việc tại Libya đã
được sơ tán khỏi nước này để về Việt Nam, chủ yếu được đưa qua các nước thứ ba bằng
đường hàng không, bao gồm khoảng 2.100 người sang Tuynidi, khoảng 2.500 người sang
Thổ Nhĩ Kỳ, hơn 2.400 người sang Malta, khoảng 900 người sang Ai Cập, 229 người sang
Hy Lạp và 292 người sang Algeria. Khoảng 1.079 người đi bằng tàu biển trực tiếp từ Libya

(cảng Benghazi) về Việt Nam.
+ Tính đến ngày 9/3/2011, có 8.728 lao động Việt Nam đã trở về nước an toàn, hơn
1.000 lao động đang trở về bằng đường thủy và sẽ về đến Việt Nam vào ngày 21/3, 292 lao
động đã sang Algeria.
Chiến dịch đưa lao động từ Libya về nước đã thành công với sự nỗ lực hết sức của
chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế. góp phần giúp người lao động được
trở về quê hương an toàn, giảm thiểu được những tổn thất ở một nước đang rơi vào chiến
tranh nghiêm trọng như Libya.
• Giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động ở Libya sau khi
trở về nước.
Sau khi người lao động được đưa về nước an toàn thì một vấn đề quan trọng đặt ra
là việc giải quyết việc làm cho người lao động và trợ giúp các doanh nghiệp nhằm ổn định
tình hình lao động việc làm và xuất khẩu lao động nhanh chóng, hạn chế những rủi ro có thể
lan sang các lĩnh vực, ngành nghề khác.
- Ban hành Quyết định 940/QĐ-LĐTBXH ngày 29 tháng 07 năm 2011
về việc hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải đưa lao động làm
việc tại Libya về nước trước hạn do khủng hoảng chính trị.
Theo đó, đối với lao động Việt Nam làm việc tại Libya phải về nước trước hạn trong
năm 2011 do khủng hoảng chính trị được hỗ trợ ban đầu ngay khi về nước với mức 1 triệu
đồng/người từ Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước theo Thông báo số 29/TB-VPCP ngày
25/2/2011 của Văn phòng Chính phủ.
Ngoài ra, sẽ hỗ trợ thêm đối với người lao động có thời gian làm việc tại Libya từ đủ
23
6 tháng trở xuống (tính đến ngày 15/02/2011) như sau:
- Đối với người lao động.
Người lao động nếu tham gia đóng góp Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước được hỗ trợ
từ Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước và nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân với mức:
8.000.000 đồng/người (trong đó 4.000.000 đồng từ nguồn tài trợ) đối với lao động có thời
gian làm việc từ đủ 1 tháng trở xuống; 6.000.000 đồng/người (trong đó: 3.000.000 đồng từ
nguồn tài trợ) đối với lao động có thời gian làm việc từ trên 1 tháng đến đủ 2 tháng;

4.000.000 đồng/người (trong đó: 2.000.000 đồng từ nguồn tài trợ) đối với lao động có thời
gian làm việc từ trên 2 tháng đến đủ 4 tháng; 2.000.000 đồng/người (trong đó: 1.000.000
đồng từ nguồn tài trợ) đối với lao động có thời gian làm việc từ trên 4 tháng đến đủ 6 tháng.
Những người lao động không tham gia đóng góp Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước
cũng được hỗ trợ từ nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân theo mức quy định nêu trên
Người lao động thuộc các đối tượng trên đi làm việc theo “Đề án hỗ trợ các huyện
nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020”
theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ được hỗ trợ
thêm 50% so với mức quy định đã nêu. Nguồn kinh phí hỗ trợ từ Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài
nước…
Người lao động vay tín dụng tại Ngân hàng Chính sách xã hội được gia hạn nợ,
khoanh nợ đối với khoản vay tín dụng trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo Quyết định
số 50/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành cơ chế xử lý nợ bị rủi ro tại
Ngân hàng Chính sách xã hội; nếu có nhu cầu được tiếp tục vay vốn để đi làm việc ở nước
ngoài theo quy định hiện hành.
- Đối với doanh nghiệp.
Xét đề nghị của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Chính phủ đã cho phép sử
dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước để hỗ trợ các doanh nghiệp được phép đưa lao động
đi làm việc ở Libya 50% khoản tiền môi giới doanh nghiệp phải hoàn trả cho người lao động.
Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp các chi phí đưa người lao động về nước, trong trường hợp
doanh nghiệp đã chi trực tiếp.
Hỗ trợ các doanh nghiệp được phép đưa lao động đi làm việc ở Libya chi phí đưa
người lao động về nơi cư trú mức 300.000 đồng/người lao động. Trường hợp doanh nghiệp
đã chi phí cao hơn mức trên thì được hỗ trợ theo hóa đơn, chứng từ chi thực tế.
- Hỗ trợ người lao động tìm việc làm và ổn định cuộc sống
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) đã có văn bản số 751/LĐTBXH-VL
đề nghị UBND các địa phương chỉ đạo các cơ quan chức năng, các cấp ở địa phương tổ
chức thống kê, khảo sát nắm khả năng, nhu cầu và nguyện vọng cụ thể của từng người lao
24
động đi làm việc tại Libya phải về nước trước hạn và nhu cầu tuyển lao động của các doanh

nghiệp, tổ chức để tư vấn, giới thiệu và cung ứng lao động.
Tăng cường công tác thông tin về thị trường lao động, tổ chức sàn giao dịch việc
làm, tư vấn, giới thiệu việc làm tại Trung tâm giới thiệu việc làm để tạo điều kiện cho người
lao động sớm tìm được việc làm.
Bên cạnh đó, Bộ cũng đề nghị tăng cường các hoạt động dạy nghề và hỗ trợ người
lao động học nghề để người lao động có điều kiện học nghề phù hợp. Ưu tiên cho người lao
động được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm; có các biện pháp để khuyến khích người lao động tự tạo việc làm;
Bộ LĐTBXH đề nghị các địa phương khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức tuyển
dụng người lao động vào làm việc lâu dài tại doanh nghiệp, tổ chức.
Đối với những người lao động có nhu cầu đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài, cần
ưu tiên tuyển, giới thiệu đi làm việc tại các thị trường lao động phù hợp, nhất là lao động ở
các huyện nghèo.
Đồng thời, thường xuyên theo dõi, hỗ trợ và có giải pháp thiết thực để hỗ trợ người
lao động gặp khó khăn về việc làm và đời sống.

Qua đó, nhà nước ta đã kip thời trong giải quyết rủi ro, nhất là một rủi ro chính trị ở
một nước nằm tận châu Phi như Libya là một sự nỗ lực thực sự. Sự có mặt của chính
phủ là thực sự cần thiết để tham gia trợ giúp cho doanh nghiệp và người lao động vượt
qua những khủng hoảng xuất khẩu như thế này. Tuy nhiên, sau khi phân tích các hành
động mà Việt Nam đã làm thì vẫn còn thấy nhiều bất cập, như thời gian đưa ra chính
sách hỗ trợ chưa thực sự kịp thời, một số đề nghị hay kiến nghị thì chưa thực sự được
thực hiện trên thực tế.
III. Bài học kinh nghiệm và xu hướng trong tương lai
3.1. Bài học rút ra.
Tuy công tác giải cứu lao động của Việt Nam khỏi đất nước đang bị khủng hoảng
chính trị như Libya diễn ra khá nhanh chóng và có hiệu quả nhưng vấn đề quan trọng hơn
đặt ra chính là giải quyết hậu khủng hoảng, chúng ta cần phải làm gì để không rơi vào tình
thế bị động khi gặp phải những trường hợp như thế này trong tương lai.
3.1.1. Cần phải xây dựng được một cơ chế giải quyết rủi ro hợp lý và hiệu quả mà

nền tảng là sự chỉ đạo kịp thời của chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành,
doanh nghiệp…có thể linh hoạt áp dụng đối với nhiều trường hợp sau này
Phản ứng kịp thời và quyết liệt của Chính phủ đối với tính mạng của người lao động
tại Libya đã làm nức lòng người dân. Thành công của chiến dịch ngoài việc nhờ vào sự hỗ
trợ của Chính phủ Tunisia, các tổ chức quốc tế, đáng kể nhất chính là vào sự tận tâm và nỗ
lực, trong đó có cơ chế giải quyết rủi ro phù hợp, việc chủ động quản lý lao động, nắm bắt
vụ việc, phối hợp với các cơ quan liên quan để kịp thời xử lý, sự theo sát, đánh giá đúng
25

×