Áo dài
Việt Nam
LỊCH SỬ ÁO DÀI
Không có tài liệu ghi nhận xuất phát điểm của áo
dài nguyên thuỷ.Y phục xa xưa nhất của người Việt,
theo những hình khắc trên mặt chiếc
trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm
cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo
xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký
chép thì người Văn Lang xưa, mặc áo dài về bên tả.
thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận
Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu.
trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái,
về sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo
gài về tay phải".
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là
áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi
mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không
buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen,
thắt lưng mầu buông thả.
Vì phải làm việc chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại
thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa
trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt
nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy
xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng
vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê
quanh năm cần cù bươn chải.
Áo dài được cách tân thế nào đó để giảm nét dân
dã và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế
là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa
trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con;
thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước.
Mỗi vạt có hai thân nối sống, tượng trưng cho tứ
thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước
chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc
áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu
đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng
cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm
Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.
Bộ áo tứ thân
"Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất
nước Việt Nam cả mấy ngàn năm
trong khi bộ xiêm y lượt thượt của
người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất
hiện trong cung điện hoặc trong
những nhà quyền quý. Phụ nữ
Trung Hoa dưới thời vua Võ
Vương nhà Thanh năm 1774, mặc
kiểu áo xường xám không có
quần! Trong thời gian đó, truyền
thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt
Nam cho đến thế kỷ mười bảy như
đã ghi trong sách Lê Triều Thiên
Chính đời vua Lê Huyền Tông,
tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh
nhắc nhở: ” áo đàn bà con gái
không có thắt lưng, quần không có
hai ống từ xưa đến nay đã có tục
cũ ”
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có
công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến
thế kỷ 18 lối ăn mặc của người Việt Nam vẫn thường hay
bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời
các chúa Nguyễn khi xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá
khẩn hoang, đón nhận hàng vạn người Minh Hương (còn
gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất
mãn với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù
người Việt cũng có lối ăn mặc riêng. Trước làn sóng xâm
nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ
Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc
cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi
hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định
hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường
phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa
ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở
xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở.
Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay
hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép " (sách
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên
Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết "Chúa Nguyễn Phúc
Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo
dài như vậy".
Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng
định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời
và chính thức được công nhận là quốc phục
dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765).
Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng
chữ Hán hoặc chữ Nôm, áo dài viết bằng chữ
Nôm là 襖長.
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài
quốc phục là do những tham vọng riêng tư của chúa
Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách
rời Đàng Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ
về ăn mặc như trên cho khác đi (trong quy định này
đã có chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau
thấy quần hai ống khêu gợi quá, Vương mới giao cho
triều thần pha phối từ mẫu áo dài của người Chăm
(giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng
không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải
(chiếc sườn xám) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ
Việt Nam (Xem thêm Liên kết ngoài, bài Sự Tích Áo
Dài Việt Nam).
Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm
và có xẻ nách và quan điểm trên quá thiên nặng về
tính chống phong kiến nên vô hình chung đề cao vai
trò của Vũ Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại
đầu tiên".
Áo sườn xám
bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua
Gia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước đoán
này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ
không thể mặc váy.
Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra
chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc
quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca
dao than vãn:
Tháng Tám có chiếu vua ra (Bản chép khác:
Chiếu vua Minh Mạng ban ra)
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
Áo dài "Le Mur"
"Le Mur" chính là cách dịch sang
tiếng Pháp của tên Cát Tường, một
họa sĩ vào thập niên 1930 đã thực hiện
một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ
thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước
và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối
dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển
chuyển trong bước đi đồng thời thân trên
được may ôm sát theo những đường
cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu
kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng
thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước
được dịch chuyển sang một chỗ mở áo
dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên
sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều
biến cải như áo may ráp vai, ráp tay
phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa
áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với
quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay
cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm.
Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê
Phổ bỏ bớt những nét lai căng,
cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời
đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo
tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một
kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân
người, trong khi hai vạt dưới được
tự do bay lượn. Sự dung hợp này
quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và
cái cũ, được giới nữ thời đó hoan
nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài
Việt Nam đã tìm được hình hài
chuẩn mực của nó, và từ bấy đến
nay dù trải bao thăng trầm, bao lần
cách tân cách điệu, hình dạng chiếc
áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.
Áo dài với tay raglan (giác lăng)
Thập niên 1960 có nhà may
Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa
ra kiểu may áo dài với cách
ráp tay raglan. Với cách ráp
tay raglan làn vải được bo sít
sao theo thân hình người
mặc từ dưới nách đến lườn
eo, khiến chiếc áo dài ôm khít
từng đường cong của thân
hình người phụ nữ, tạo thêm
tính thẩm mỹ.
Áo dài miniraglan
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này,
áo dài tay miniraglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa
xòa phủ kín đôi chân, đồng thời khi bước đi thấy thấp thoáng ẩn hiện
mũi giầy dưới sóng lụa. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm
chất hồn nhiên, dễ thương, và đã làm xao xuyến lòng bao chàng trai.
Một biểu trưng mang đậm bản sắc Việt Nam
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của
Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống
lại cũng vừa hiện đại. Chiếc áo dài có cách riêng
để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân
nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống
quần rộng. Hai tà xẻ khiến cho cử chỉ người mặc
thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn bật nữ
tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa
mềm.
Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao:
mỗi chiếc chỉ sản xuất riêng cho một người, dành
cho riêng người đó; không thể có một công nghệ
"sản xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may
được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một
lần mặc thử để vi chỉnh nữa mới hoàn thiện
.
Áo dài nam phục
Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo
ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội
đầu cũng Đàn ông con trai chỉ dùng màu
đen, trắng, hoặc lam thẫm. Tuy nhiên theo
sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ
Vương thỉ sự quy định trang phục cho nam
giới ít gò bó và thoáng hơn, "Thường phục
thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn
tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện.
Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín
liền không cho xẻ mớ.
Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành
sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái
nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách trú.
Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và
mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng
(tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của
nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà
Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến
thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít
cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục. ^^
Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính
chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy
định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa
Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng
hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về
trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Áo dài
nữ ngày càng được hoàn thiện và duy trì đến ngày
nay
Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận
may mắn như áo dài nữ phục. Ngày nay ta ít có
dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một
ông cụ già Việt Nam, vận chiếc áo dài nam phục
truyền thống.
Áo dài nam phục chỉ
còn xuất hiện tại những
lễ hội mang đậm nét
truyền thống Việt Nam.
Đặc biệt tại tuần lễ cấp
cao APEC (2006) được
tổ chức tại Việt Nam,
trong lễ công bố Tuyên
bố chung, các nhà lãnh
đạo các nền kinh tế
APEC đều mặc trang
phục truyền thống của
nước chủ nhà
Một trong những vấn đề là việc xác định thế nào là Truyền thống Việt
nam, thế nào là Bản sắc văn hóa Việt nam. Tuy còn một vài nhận định
chưa thống nhất, nhưng chắc chắn, chiếc Áo Dài là một bản sắc Việt
Nam, và nó cũng đã phải trải qua những thăng trầm, biến đổi không
ngừng và ngày càng phát huy vẻ đẹp cho phụ nữ Việt Nam.