Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

LUẬN VĂN ĐỊA KỸ THUẬT TÍNH TOÁN THIẾT KẾ XỬ LÝ NỀN ĐẤT YẾU BẰNG HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC THẲNG ĐỨNG CHO DỰ ÁN ĐƯỜNG NỐI LIÊN TỈNH LỘ 25 – ĐƯỜNG TÂN LẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.5 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KỸ THUẬT ĐỊA CHẤT VÀ DẦU KHÍ
BỘ MÔN ĐỊA KỸ THUẬT
˜—&–™







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

TÍNH TOÁN THIẾT KẾ XỬ LÝ NỀN ĐẤT YẾU
BẰNG HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC THẲNG ĐỨNG
CHO DỰ ÁN ĐƯỜNG NỐI LIÊN TỈNH LỘ 25 –
ĐƯỜNG TÂN LẬP


SVTH: TRẦN MẠNH TÌNH
MSSV: 30404636
GVHD: TS. NGUYỄN MẠNH THỦY











TP. Hồ Chí Minh, tháng 01/2008.

ii
MỞ ĐẦU


1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn nhất của nước ta, có nền
kinh tế phát triển mạnh. Song song với quá trình phát triển đó là quá trình đô thị hóa, xây
dựng các khu công nghiệp, các nhà cao tầng và các đường giao thông. Một trong những khu
vực đang phát triển là khu vực quận 2, quận 7, quận Thủ Đức, nơi mà các dự án kinh tế lớn,
các khu dân cư đang được thực hiện. Cùng với sự phát triển đó thì việc phát triển cơ sở hạ
tầng giao thông là một vấn đề cần thiết hiện nay. Với mục tiêu ban đầu là phục vụ cho việc
đầu tư xây dựng khu dân cư Nam Rạch Chiếc (Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh), Ủy ban
nhân dân thành phố đã duyệt dự án xây dựng đường nối Liên Tỉnh Lộ 25 – đường Tân Lập,
tuyến đường này đều nằm trên nền đất yếu với bề dày thay đổi vì vậy cần phải tiến hành xử
lý đất nền trước khi xây dựng tuyến đường này.
Với mong muốn vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và kiến thiết đất nước. Do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Tính toán thiết kế xử
lý nền đất yếu bằng hệ thống thoát nước thẳng đứng cho dự án đường nối Liên Tỉnh Lộ 25 –
đường Tân Lập”.
2. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá tổng quan điều kiện địa chất – địa chất công trình khu vực Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Tìm hiểu đặc điểm địa chất công trình khu vực tuyến đường nối Liên Tỉnh Lộ 25 –
đường Tân Lập.
- Xác định các chỉ tiêu tính toán của công trình và của đất nền.
- Đưa ra giải pháp xử lý để cải tạo nền đường bằng hệ thống thoát nước thẳng đứng

theo tiêu chuẩn 22TCN 262 - 2000.



iii

3. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Tổng hợp kiến thức đã học vào thực tế, đề tài có phạm vi áp dụng rộng rãi không chỉ
cho công trình đang nghiên cứu mà còn có thể áp dụng cho các công trình có điều kiện địa
chất tương tự. Ngoài ra còn có thể áp dụng cho các công trình đắp, nền đường đắp, mở rộng
nền đường khi qua khu vực đất yếu.























iv
LỜI CẢM ƠN


Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thày TS. Nguyễn mạnh thủy, người đã tận tâm
hướng dẫn và truyền đạt nhưng kiến thức, kinh nghiệm quý báu giúp em hoàn thành luận
văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Quý Thầy Cô trong khoa kỹ thuật Địa Chất và Dầu
Khí nói chung và Quý Thầy Cô trong bộ môn Địa Kỹ Thuật nói riêng, những người đã cung
cấp cho em những kiến thức quý báu giúp em có những kiến thức làm hành trang trong cuộc
sống.
Con xin gửi lòng biết ơn tới Gia Đình đã nuôi con ăn học, động viên con rất nhiều
trong quá trình làm luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới Trung tâm nghiên cứu công nghệ và thiết bị công nghiệp đã
cung cấp tài liệu địa chất. Cảm ơn tập thể lớp 304KT đã động viên giúp đỡ tôi rất nhiều
trong quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 2008.
Sinh viên
Trần Mạnh Tình










v
TÓM TẮT

Tên đề tài luận văn: “Tính toán thiết kế hệ thống thoát nước thẳng đứng
cho dự án đường nối Liên Tỉnh Lộ 25 – đường Tân Lập”.
Hiện nay, việc xây dựng nền đường đắp trên đất yếu đang



Đại Học Quốc Gia Tp.HCM CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Số: ______ /BKĐT

KHOA: ĐỊA CHẤT – DẦU KHÍ NHIỆM VỤ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
BỘ MÔN: ĐỊA KỸ THUẬT
HỌ VÀ TÊN: _____________________________ MSSV: _____________
NGÀNH: ______________________________ LỚP: ______________
1. Đầu đề luận văn:
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
2. Nhiệm vụ (yêu cầu về nội dung và số liệu ban đầu):
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________

3. Ngày giao nhiệm vụ luận văn: __________________________________________
4. Ngày hoàn thành nhiệm vụ: __________________________________________
5. Họ tên người hướng dẫn: Phần hướng dẫn:
____________________________ __________________________________
____________________________ __________________________________
Nội dung và yêu cầu LVTN đã được thông qua Bộ Môn
Ngày tháng năm
CHỦ NHIỆM BỘ MÔN NGƯỜI HƯỚNG DẪN CHÍNH
(Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên)





PHẦN DÀNH CHO KHOA, BỘ MÔN:
Người duyệt (chấm sơ bộ): _________________
Đơn vò: _________________________________
Ngày bảo vệ: ____________________________
Điểm tổng kết: ___________________________
Nơi lưu trữ luận văn: ______________________

i
MỞ ĐẦU


1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn nhất của nước ta, có
nền kinh tế phát triển mạnh. Song song với quá trình phát triển đó là quá trình đô thị
hóa, xây dựng các khu công nghiệp, các nhà cao tầng và các đường giao thông. Một
trong những khu vực đang phát triển là khu vực quận 2, quận 7, quận Thủ Đức, nơi mà

các dự án kinh tế lớn, các khu dân cư đang được thực hiện. Cùng với sự phát triển đó
thì việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông là một vấn đề cần thiết hiện nay. Với mục
tiêu ban đầu là phục vụ cho việc đầu tư xây dựng khu dân cư Nam Rạch Chiếc (Quận
2, Thành phố Hồ Chí Minh), Ủy ban nhân dân thành phố đã duyệt dự án xây dựng
đường nối Liên Tỉnh Lộ 25 – đường Tân Lập, tuyến đường này đều nằm trên nền đất
yếu với bề dày thay đổi vì vậy cần phải tiến hành xử lý đất nền trước khi xây dựng
tuyến đường này.
Với mong muốn vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và kiến thiết đất nước. Do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Tính toán thiết
kế xử lý nền đất yếu bằng hệ thống thoát nước thẳng đứng cho dự án đường nối Liên
Tỉnh Lộ 25 – đường Tân Lập”.
2. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá tổng quan điều kiện địa chất – địa chất công trình khu vực Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Tìm hiểu đặc điểm địa chất công trình khu vực tuyến đường nối Liên Tỉnh Lộ
25 – đường Tân Lập.
- Xác định các chỉ tiêu tính toán của công trình và của đất nền.
- Đưa ra giải pháp xử lý để cải tạo nền đường.



ii
3. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài có phạm vi áp dụng rộng rãi không chỉ cho công trình đang nghiên cứu
mà còn có thể áp dụng cho các công trình có điều kiện địa chất tương tự. Ngoài ra còn
có thể áp dụng cho các công trình đắp, nền đường đắp, mở rộng nền đường khi qua
khu vực đất yếu.























iii

LỜI CẢM ƠN


Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thày TS. Nguyễn mạnh thủy, người đã
tận tâm hướng dẫn và truyền đạt nhưng kiến thức, kinh nghiệm quý báu giúp em hoàn
thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Quý Thầy Cô trong khoa kỹ thuật Địa Chất
và Dầu Khí nói chung và Quý Thầy Cô trong bộ môn Địa Kỹ Thuật nói riêng, những
người đã cung cấp cho em những kiến thức quý báu giúp em có những kiến thức làm

hành trang trong cuộc sống.
Con xin gửi lòng biết ơn tới Gia Đình đã nuôi con ăn học, động viên con rất
nhiều trong quá trình làm luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới Trung tâm nghiên cứu công nghệ và thiết bị công nghiệp
đã cung cấp tài liệu địa chất. Cảm ơn tập thể lớp 304KT đã động viên giúp đỡ tôi rất
nhiều trong quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 2008.
Sinh viên
Trần Mạnh Tình






1
CHƯƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ – XÃ HỘI

1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong tọa độ địa lý từ 10
0
10’ - 10
0
36’ vĩ độ Bắc và
106
0
22’ - 106

0
54’

kinh độ Đông, có diện tích 2.095,239 km
2
. Phía Bắc giáp tỉnh Bình
Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông
Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang
[1].
1.1.2. Địa hình
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam bộ
và đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam
và từ Ðông sang Tây. Nó có thể chia thành 3 tiểu vùng địa hình. Vùng cao, nằm ở phía
Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc Bắc huyện Củ Chi, Đông Bắc quận Thủ
Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn sóng, độ cao trung bình 10 - 25 m và xen kẽ có
những gò đồi độ cao cao nhất tới 32m, như đồi Long Bình (quận 9). Vùng thấp trũng,
ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố (thuộc các quận 7, 8, 9 và các huyện
Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng này có độ cao trung bình trên dưới 1m và cao
nhất 2m, thấp nhất 0,5m. Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố,
gồm phần lớn nội thành cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện
Hóc Môn. Vùng này có độ cao trung bình 5-10m.
1.1.3. Khí hậu
Khu vực thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận
xích đạo. Mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ
thánh 12 đến tháng 4 năm sau [1].
Nhiệt độ: nhiệt độ không khí trung bình khoảng 27
0
C, thường có nhiệt độ cao
nhất cao nhất trung bình vào tháng 4, thấp nhất trung bình vào khoảng tháng 12 và



2
tháng 1. Giá trị nhiệt độ trung bình tháng tại trạm Tân Sơn Nhất được thể hiện trong
bảng 1.1.
Độ ẩm không khí: Ðộ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm là 79,5%; bình
quân mùa mưa 80% và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình quân mùa khô 74,5% và
mức thấp tuyệt đối xuống tới 20%. Giá trị độ ẩm trung bình tháng tại trạm Tân Sơn
Nhất được thể hiện trong bảng 1.1.
Lượng mưa: lượng mưa cao, bình quân/năm 1949 mm. Năm cao nhất 2.718 mm
(1908) và năm nhỏ nhất 1.392 mm (1958). Số ngày mưa trung bình/năm là 159 ngày.
Khoảng 90% lượng mưa hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa (từ tháng 5 đến
tháng 11); trong đó hai tháng 6 và 9 thường có lượng mưa cao nhất. Các tháng 1, 2, 3
mưa rất ít, lượng mưa không đáng kể. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa
phân bố không đều, có khuynh hướng tăng dần theo trục Tây Nam - Ðông Bắc. Giá trị
lượng mưa trung bình tháng tại trạm Tân Sơn Nhất được thể hiện trong bảng 1.1.
Bảng 1.1: Nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa trung bình tháng tại trạm Tân Sơn Nhất
Yếu tố
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Nhiệt
độ
TB(
0
C)
25,7 26,6 27,5 28,8

28,3 27,4 27,1 27,1 26,8 26,6 26,3 25,7

Độ ẩm
TB (%)

77,8 71,1 71,0 73,7

80,7 83,7 84,2 84,5 86,0 85,2 81,7 77,6

Lượng
mưa TB
(mm)
11,8 3,9 11,6 46,0

203,4

312,1

291,3

279,2

323,1

267,9

118,7

39,3

Lượng bốc hơi: Lượng bốc hơi tương đối cao từ 1.000 đến 1.200mm/năm. Lượng
bốc hơi trong mùa mưa thường thấp, trong khoảng 50 - 90mm/tháng. Mùa khô lượng
bốc hơi trong khoảng 100-150mm/tháng, cao gấp 1,5 đến 2,5 lần mùa mưa.
Hướng gió chính là Đông Bắc - Tây Nam và Tây Bắc - Đông Nam. Vận tốc trung
bình của gió là 3,6m/s [1].



3
1.1.4. Thủy văn
Hệ thống sông ảnh hưởng lớn đến đặc điểm địa chất thủy văn của khu vực thành
phố Hồ Chí Minh là hệ thống sông Đồng Nai. Hệ thống sông Đồng Nai có lưu vực
khoảng 32.000 km
2
, gồm sông chính là sông Đồng Nai, 4 sông phụ là sông La Ngà,
Sông Bé, Sài Gòn và bờ Tây sông Vàm Cỏ Đông. Hai sông chảy qua thành phố Hồ
Chí Minh là sông Đồng Nai và Sài Gòn [1].
Ngoài ra, thành phố Hồ Chí Minh còn có một mạng lưới kênh rạch gồm: Rạch
Cát, Tham Lương, Thị Nghè, Nhiêu Lộc, Kênh Đôi, Rạch Chiếc.
Hầu hết các sông rạch Thành phố Hồ Chí Minh đều chịu ảnh hưởng dao động
của triều biển Ðông. Mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó thủy triều xâm nhập
sâu vào các kênh rạch trong thành phố, gây nên tác động không nhỏ đối với sản xuất
nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành. Mực nước triều bình
quân cao nhất là 1,10m. Tháng có mực nước cao nhất là tháng 10 - 11, thấp nhất là các
tháng 6 - 7. Về mùa khô, lưu lượng của nguồn các sông nhỏ, độ mặn 4% có thể xâm
nhập trên sông Sài Gòn đến quá Lái Thiêu, có năm đến đến tận Thủ Dầu Một và trên
sông Ðồng Nai đến Long Ðại. Mùa mưa lưu lượng của nguồn lớn, nên biên mặn bị đẩy
lùi ra xa hơn và độ mặn bị giảm đi nhiều.
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích
2095,239 km
2
. Vào năm 2006, thành phố có dân số 6.424.519 người, mật độ trung
bình 3,067 người/km². Dân cư chủ yếu là người kinh chiếm 92,91 % dân số thành phố,
tiếp theo tới người hoa với 6,69 %, còn lại là các dân tộc Chăm, Khmer Những
người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh cư trú ở khắp các quận, huyện, nhưng tập trung

nhiều nhất tại Quận 5, 6, 8, 10, 11 và có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế
thành phố.
1.2.1. Giao thông
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông quan trọng của khu vực phía
Nam, có hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy và đường hàng không rất phát
triển.


4
Hệ thống đường bộ lan tỏa đi các tỉnh Đông Nam Bộ và tây Nam Bộ theo dạng
tỏa tia với các trục chính: Quốc lộ (QL) 1A, QL13, QL22, Xa lộ Hà Nội,…Tuyến
đường sắt Bắc Nam dài 1.780 km, rất thuận lợi cho nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng
hóa. Hệ đường thủy: Dọc sông Sài Gòn là một hệ thống cụm cảng kéo dài hàng chục
km từ Nhà Bè đến Cần Giờ với năng lực bốc dỡ lớn nhất nước. Cảng Sài Gòn với năng
lực hoạt động 10 triệu tấn/năm và có khả năng mở rộng nâng cấp từ 17 đến 20 triệu
tấn/năm.
Sân bay Tân Sơn Nhất là sân bay quốc tế với hàng chục đường bay chỉ cách
trung tâm thành phố 7km, là ga hàng không quốc tế với diện tích 14.000m
2
, có năng
lực tiếp nhận trên 10 triệu khách và hơn nửa triệu tấn hàng hóa mỗi năm.
Ngoài ra dự án tàu điện ngầm Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đang tiến
hành. Theo dự kiến, thành phố sẽ có bốn tuyến, tổng chiều dài 54 km, 6 đường ray và
22 nhà ga. Cuối 2010, hai tuyến đầu tiên sẽ đi vào hoạt động.
1.2.2. Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh chiếm giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước. Thành
phố chiếm 0,6 % diện tích và 7,5 % dân số của cả nước nhưng chiếm tới 20,2 % tổng
sản phẩm, 27,9 % giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9 % dự án nước ngoài. Vào năm
2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 4.344.000 lao động, trong đó 139 ngàn người ngoài
độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc. Năm2007, thu nhập bình quân

đầu người ở thành phố đạt 2.100 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước
(730 USD/năm).
Công nghiệp: ngành công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần
đây có những bước phát triển vượt bậc. Tính đến giữa năm 2006, thành phố có 3 khu
chế xuất và 12 khu công nghiệp, đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452
dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 ngàn tỉ
VND, Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam về tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007. Riêng trong
năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD, đã thu được nguồn
ngoại tệ lớn không những cho thành phố mà còn cho cả nước.


5
Nông nghiệp: Nông nghiệp gồm có trồng trọt và chăn nuôi, trồng trọt chủ yếu là
cây lúa, hoa màu, rừng nước mặn, diện tích cây lương thực có hạt 78.400 ha; sản
lượng thủy sản 43.516 tấn.
Du lịch – dịnh vụ: Hoạt động du lịch của thành phố phát triển mạnh. Trong
khoảng 4,3 triệu khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2007 thì có 3 triệu khách đã tới
thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tức 70 %. Năm 2007 cũng là năm thành phố có được
bước tiến mạnh mẽ, lượng khách tăng khoảng 12 % so với 2006, doanh thu ngành du
lịch đạt 19.500 tỷ VNĐ. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch đã phát huy các phương
tiện thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng chuyên mục du lịch trên các báo lớn,
truyền hình, tăng cường và nâng cao hiệu quả các đợt tham dự hội chợ du lịch chuyên
nghiệp khu vực và các thị trường trọng điểm [1].
Giáo dục – y tế: Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng khẳng định vai trò trung
tâm giáo dục – đào tạo chất lượng cao của mình, và cũng là trung tâm y tế lớn nhất cả
nước. Về công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực đã phát triển theo chiều hướng
ngày càng gia tăng, số lượng đào tạo thường năm sau cao hơn năm trước, loại hình đào
tạo cũng đa dạng, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư. Số lượng trường đại học và cao
đẳng trên địa bàn tăng nhanh theo đà phát triển kinh tế. Từ năm 1995, thành phố đã đạt

tiêu chuẩn xoá mù chữ và phổ cập tiểu học; 100% số xã có trường tiểu học và 80% số
xã có trường trung học cơ sở. Theo thống kê, số giáo viên và học sinh phổ thông của
thành phố chỉ chiếm một tỷ lệ vừa phải của cả nước nhưng số giáo viên và sinh viên
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật của thành phố ngày
càng chiếm một tỷ lệ rất cao, điều này chứng tỏ thành phố là một Trung tâm giáo dục –
đào tạo chất lượng cao của cả nước và đã thu hút được một số lượng lớn sinh viên từ
mọi miền đất nước về học mỗi năm [1]. Về y tế, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung
tâm y tế lớn nhất nước ta với số lượng cơ sở y tế được trang bị ngày càng hiện đại
cũng như đội ngũ cán bộ y tế có trình độ cao nhiều nhất nước. Năm 2005, ngành y tế
tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế hiện đại để tăng năng lực khám chữa
bệnh, nhiều thiết bị y tế kỹ thuật cao đã đưa vào điều trị để nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh; đã thực hiện được kỹ thuật ghép gan, phát triển chương trình chuẩn đoán
điều trị từ xa với các tỉnh bạn…


6
Nhìn chung, Thành phố Hồ Chí Minh là khu vực phát triển sôi động nhất của cả
nước về tất cả các mặt, với một vị trí thuận lợi và cùng với nguồn nhân lực bậc cao,
Thành phố Hồ Chí Minh cần phát huy hết vai trò của mình. Do đó, việc xây dựng các
cơ sở hạ tầng vô cùng cần thiết, góp phần đưa thành phố nói riêng và cả nước nói
chung phát triển nhanh chóng.
1.3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Theo kế hoạch của Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố, trong tương lai thành phố sẽ
phát triển khu vực đô thị theo mô hình vệ tinh ra các khu vực Thủ Đức, Nam Sài Gòn,
quận 2, Bình Chánh. Do đó, các khu dân cư mới tại các khu vực vệ tinh sẽ hình thành,
khu vực trung tâm dành cho các ngành dịch vụ, thương mại, du lịch. Tám nhiệm vụ
phát triển chủ yếu [1] của Thành phố là:
Duy trì tốc độ tăng trưởng của Thành phố cao hơn tốc độ tăng trưởng bình
quân chung của cả nước và phát triển một cách toàn diện, cân đối và bền vững về kinh
tế, văn hóa, xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP của Thành phố bình quân thời kỳ 2000 -

2010 phấn đấu đạt 12%/năm.
Phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố gắn liền với tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước; đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ; phát triển
kinh tế theo hướng mạnh về xuất khẩu.
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng và hiệu quả của từng
ngành và toàn bộ nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong tiến trình hội nhập,
chiếm lĩnh thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo đảm dân sinh, nâng cao chất lượng
cuộc sống, công bằng xã hội.
Hạn chế tăng dân số và phân bố lại hợp lý dân cư trong vùng và trên địa bàn
thành phố. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm học vấn, nghề nghiệp, đạo
đức và thể chất.
Phát triển đồng bộ và đi trước một bước hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã
hội, hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là giao thông đô thị.


7
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, nâng cao năng lực điều hành quản lý
nhà nước ở các cấp chính quyền thành phố; nghiên cứu đề xuất, điều chỉnh, bổ sung
những vấn đề thuộc cơ chế, chính sách và luật pháp để tạo động lực mới, động viên
sức dân tham gia xây dựng thành phố.
Phát triển kinh tế, kết hợp với giữ vững an ninh chính trị, trật tự công cộng, an
toàn xã hội, đóng góp tích cực cho công tác bảo đảm an ninh - quốc phòng khu vực
phía Nam và đất nước.






















8
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHU VỰC TP. HỒ CHÍ MINH

2.1. ĐỊA TẦNG
Theo các tài liệu đã công bố, địa tầng trong khu vực Thành phố Hồ Chí Minh từ
dưới lên trên gồm các hệ tầng sau:
Hệ tầng Trảng Bom (aQ
1
3
tb).
Hệ tầng Bà Miêu (N
2
2

bm).
Hệ tầng Nhà Bè (N
2
1
nb).
Hệ tầng Thủ Đức (Q
2-3
tđ).
Hệ tầng Củ Chi (Q
3
3
cc).
Hệ tầng Bình Chánh (Q
4
1-2
bc).
Hệ tầng Cần Giờ (Q
4
2-3
cg).
2.1.1. Hệ tầng Trảng Bom (aQ
1
3
tb)
Theo các tài liệu lỗ khoan thu thập được, mặt cát chung của hệ tầng gồm ba tập,
thành phần của hệ tầng chủ yếu là cát bột và sạn sỏi. Bề dày tập thay đổi lớn từ 14m
(Suối Đá, Trảng Bom) tới 25 – 40m ở Thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.2. Hệ tầng Bà Miêu (N
2
2

bm)
Hệ tầng lộ rải rác ở khắp khu vực thành phố qua Long An, Bình An và phần địa
hình thấp Thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu phân bố ở độ sâu lớn hơn 100m và chia
thành 3 tập, với thành phần chủ yếu của hệ tầng là sét bột và cát sạn. Bề dày chung của
hệ tầng 30 - 40m.
2.1.3. Hệ tầng Nhà Bè (N
2
1
nb)
Phân bố rộng từ Nam Thủ Đức đến Long An, ở độ sâu từ 180 – 250m. Thành
phần gồm các tập cát bột kết chứa sạn xen kẽ các tập sét bột kết, phần đáy có cát sạn
kết, dăm kết, xám, gắn kết yếu. Hệ tầng này phủ trực tiếp lên đá của hệ tầng Long


9
Bình và bị phủ bởi hệ tầng Bà Miêu. Bề dày thay đổi từ 20m (khu vực Nhà Bè) đến
trên 80m (khu vực Bình Chánh).
2.1.4. Hệ tầng Thủ Đức (Q
2-3
tđ)
Tại lỗ khoan ở xã Linh Xuân (Thủ Đức), trầm tích phân bố ở độ sâu từ mặt đất
đến 27m, gồm 2 tập, thành phần chủ yếu của hệ tầng là bột, cát, cát sạn sỏi. Bề dày
chung của hệ tầng là 26m.
Các hệ tầng Thủ Đức có kiểu mặt cắt nguồn gốc sông, sông biển tạo bậc thềm cao
25 – 45m, có dạng lượn sóng thoải phân bố rộng rãi ở miền Đông Nam Bộ với bề dày
thay đổi từ 20 – 40m. Các trầm tích kiểu mặt cắt nguồn gốc biển thường gặp ở các lỗ
khoan phía Tây và Nam khu vực, phân bố ở độ sâu 35 – 80m, bề chung dày của hệ
tầng thay đổi từ 30 – 35m.
2.1.5. Hệ tầng Củ Chi (Q
3

3
cc)
Trầm tích phân bố ở phía Đông Bắc Củ Chi và các dãy hẹp ở Thủ Đức. Tổng bề
dày khoảng 28m. Mặt cắt của hệ tầng có sự chuyển biến: tại Cầu Trệt (An Phú, Củ
Chi) mặt cắt của hệ tầng gồm 2 tập còn tại ấp Cây Sộp (Nhuận Đức, Củ Chi) gồm 3
tập. Thành phần chủ yếu của hệ tầng là cát, cát bột, sạn.
Ngoài khu vực trên trầm tích nguồn gốc biển còn phân bố ở khu vực Nam Bình
Chánh và Tây Nam Nhơn Trạch.
2.1.6. Hệ tầng Bình Chánh (Q
4
1-2
bc)
Các trầm tích nguồn gốc sông (aQ
4
1-2
bc). Các trầm tích này có diện phân bố dọc
sông Đồng Nai (từ phía Bắc cầu Đồng Nai) tạo nên bậc thềm cao 3 – 5m hoặc các cù
lao lớn giữa sông, nhiều nơi sông đặt lòng hoàn toàn trên trầm tích này. Từ cầu Đồng
Nai ra tới biển, hệ tầng Bình Chánh bị trầm tích holoxen trung thượng phủ lên với
chiều dày từ một vài mét đến 15 – 20m, tuy trầm tích của hệ tầng này vẫn có mặt ở
vách và đáy của sông, nhưng tướng trầm tích chuyển từ sông sang sông biển. Thành
phần trầm tích là sét bột, bột cát, cát màu vàng nhạt, ở phần đáy có ít sạn, sỏi.
Các trầm tích nguồn gốc sông biển (amQ
4
1-2
bc) có thành phần là sét, sét pha, cát,
cát pha, nhìn chung có độ hạt nhỏ hơn trầm tích sông. Điều đáng lưu ý là trầm tích này
được phân bố chủ yếu ở cửa biển (từ mũi Nhà Bè đổ ra phía biển).



10

2.1.7. Hệ tầng Cần Giờ (Q
4
2-3
cg)
Các trầm tích của hệ tầng này có diện phân bố rất rộng và có nhiều nguồn gốc
khác nhau như sông, biển, hỗn hợp sông biển, đầm lầy biển, đầm lầy sông, song phổ
biến hơn cả là các trầm tích nguồn gốc sông biển, đầm lầy biển và đầm lầy sông.
Trầm tích nguồn gốc sông biển (amQ
4
2-3
cg) phân bố chủ yếu ở các huyện Bình
Chánh, Bình Thạnh, Nhà Bè, Nam Thủ Đức và một phần nhỏ ở Cần Giờ. Mặt cắt địa
chất điển hình nhất của hệ tầng gồm hai lớp. Lớp dười chủ yếu là bùn sét, bùn sét pha
màu xám đen, lẫn ít xác thực vật có mức độ phân hủy kém. Lớp trên cát lẫn bột màu
nâu, nâu vàng, bão hòa nước, một số nơi không có lớp này.
2.2. KIẾN TẠO
Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở vị trí thuộc phần rìa Đông Bắc trũng
Kainozoi Cửu Long, là vùng chuyển tiếp giữa vùng nâng hoạt hóa Mezozoi Đà Lạt và
vùng sụt võng Cửu Long. Phía Bắc được phân định với vùng nâng Đà Lạt bởi hệ thống
đứt gãy Bà Rịa – Biên Hòa – Lộc Ninh. Phía Nam tiếp giáp với vùng sụt võng
Kainozoi Cửu Long bởi hệ thống đứt gãy sông Vàm Cỏ Đông [2].
Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có hai hệ thống đứt gãy chính là Tây Bắc –
Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam. Hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam gồm các
đứt gãy Bà Rịa – Biên Hòa, sông Sài Gòn, Lê Minh Xuân, Lý Nhơn, sông Vàm Cỏ
Đông. Đây là các đứt gãy thuận có mặt trươt nghiêng về Tây Nam với góc dốc gần
như thẳng đứng (80 – 85
0
). Mặt móng Kainozoi qua các đứt gãy tạo nên hình thái cấu

trúc dạng bậc thang kéo dài theo phương Tây Bắc – Đông Nam. Hệ thống đứt gãy
Đông Bắc – Tây Nam gồm các đứt gãy Hóc Môn – Tân Uyên, Bình Chánh – Phước
Tân Các đứt gãy này phát sinh vào thời kỳ Mezozoi muộn là thời kỳ hoạt động tích
cực của rìa lục địa. Trong Kainozoi chúng hoạt động yếu và bị cắt bởi hệ thống đứt
gãy Tây Bắc – Đông Nam. Hai hệ thống đứt gãy này tạo nên một mạng lưới đứt gãy và
hình thành các khối cấu trúc dương và âm trong lịch sử phát triển Kainozoi [2].
Lịch sử phát triển trầm tích Đệ Tứ khu vực nghiên cứu được đánh dấu bằng giai
đoạn biển thoái khỏi lãnh thổ suốt thời kỳ đầu Pleistoxen sớm (Q
1
1
). Trên bề mặt bào
mòn của khu vực nghiên cứu chỉ hình thành một số trầm tích sông mang tính chất cục


11

bộ, bao gồm các vật liệu hạt thô như cuội, sỏi, cát hạt thô chuyển dần lên là cát hạt
trung, bột và các thấu kính Kaolin.
Sau một thời gian dài gián đoạn trầm tích, vào thời kỳ giữa muộn của Pleistoxen
sớm (Q
1
2-3
) khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận từ từ lún chìm, biển
lại tiến vào. Trên bề mặt bào mòn bắt đầu tích tụ các trầm tích nhiều tướng thuộc hệ
tầng Trảng Bom (Q
1
2
tb) [2].
Quá trình biển tiến trong giai đoạn Pleistoxen giữa - muộn (Q
2–3

) đã tạo nên sự
phân bố rộng rãi và ổn định của các trầm tích hệ tầng Thủ Đức (Q
2–3
tđ). Chúng tạo
nên các bậc thềm tích tụ, xâm thực cao 30 – 40m [2]. Cuối thời kỳ Pleistoxen giữa –
muộn biển triệt thoái khỏi lãnh thổ, khu vực Thành phố sau đó bước sang thời kỳ nâng
cao, bóc mòn. Đới laterite trên cùng của hệ tầng Thủ Đức là biểu hiện của quá trình
biển lùi này.
Vào giai đoạn cuối Pleistoxen muộn (Q
3
3
) biển lại tiến vào đồng bằng Nam Bộ và
khu vực Thành phố hình thành hệ tầng Củ Chi (Q
3
3
cc) gồm cát sạn sỏi thạch anh, sét
Kaolin màu xám trắng nguồn gốc sông, sông – biển. Trong khoảng từ cuối Pleistoxen
muộn (Q
3
3
) kéo sang một phần của đầu Holoxen sớm – giữa (đầu Q
4
1-2
) biển lại từ từ
triệt thoái hoàn toàn khỏi phạm vi đồng bằng Nam Bộ, khu vực Thành phố bị xâm
thực và bào mòn mạnh mẽ. Quá trình laterite hóa theo phương thức thấm đọng trong
trầm tích hệ tầng Củ Chi đã diễn ra trên một khu vực rộng lớn. Ranh giới giữa
Pleistoxen và Holoxen được đánh dấu bằng một thời kỳ gián đoạn trầm tích dài.
Đầu Holoxen sớm – giữa (Q
4

1-2
) biển lại tiến vào lục địa và đạt cực đại ở Holoxen
giữa tạo ra một lượng đáng kể các trầm tích biển và hỗn hợp sông biển trải rộng trên
đồng bằng Nam Bộ. Tại khu vực Thành phố kết quả của đợt biển tiến này đã hình
thành các trầm tích của hệ tầng Bình Chánh (Q
4
1-2
bc) gồm sét, sét bột chứa ít cát và cát
sạn lẫn sét bột nguồn gốc biển và hỗn hợp sông biển, phân bố chủ yếu ở Bình Chánh,
Hóc Môn, Nam Thủ Đức, Nhà Bè và dọc các thung lũng Sông Bé, sông Sài Gòn, sông
Đồng Nai. Hệ tầng Bình Chánh phủ không chỉnh hợp lên hệ tầng Củ Chi (Q
3
3
cc).
Từ cuối Holoxen giữa đến nay hoạt động nâng yếu xảy ra, biển từ từ rút theo
hướng Đông Nam. Tại khu vực Thành phố hình thành các trầm tích của hệ tầng Cần
Giờ (Q
4
2-3
cg) gồm các lớp sét màu xám đen, xám nâu, trên đó là than bùn hoặc sét


12

chứa hữu cơ, có nguồn gốc sông biển, đầm lầy biển, đầm lầy sông, phân bố rộng rãi ở
các huyện Cần Giờ, Nhà Bè Nam Thủ Đức, dọc thung lũng sông Sài Gòn và dọc trũng
Lê Minh Xuân. Trên diện tích vùng Cần Giờ và Nhà Bè hệ tầng Cần Giờ phủ chỉnh
hợp lên hệ tầng Bình Chánh [2].
Nhìn chung, trầm tích đệ tứ khu vực Thành phố được chia thành 5 nhịp ứng với
các thời kỳ thành tạo khác nhau. Mỗi nhịp, bắt đầu bằng trầm tích hạt thô, kết thúc là

trầm tích hạt mịn. Các thời kỳ gián đoạn trầm tích thường tạo ra những bề mặt phong
hóa loang lổ vàng đỏ hoặc đá ong do laterite hóa theo phương thức thấm đọng.
2.3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO – TÂN KIẾN TẠO
2.3.1. ĐỊA MẠO
Dựa vào đặc điểm nguồn gốc – hình thái, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh được
chia ra các dạng địa hình: xâm thực - tích tụ, tích tụ – xâm thực và tích tụ. Chúng là
kết quả tác động tương hỗ trợ của các quá trình nội sinh và ngoại sinh. Theo báo cáo
đã công bố [2], liên quan đến khu vực nghiên cứu có các dạng địa hình chính như sau:
Đồng bằng cao – tích tụ hỗn hợp sông biển: có độ cao tuyệt đối từ 2 – 5m, cấu tạo
bởi các trầm tích hỗn hợp sông biển hệ tầng Bình Chánh gồm cát, bột, sét, phần trên
mặt bị phong hóa yếu có màu xám vàng, phân bố ở các quận nội thành, Bắc – Đông
Bắc Bình Chánh và rải rác ở Thủ Đức.
Đồng bằng cao – tích tụ biển: độ cao 2 – 5m, cấu tạo bởi các trầm tích biển hệ
tầng Bình Chánh gồm sét, sét bột màu xám xanh, xám ghi, phần trên bị phong hóa yếu
có loang lổ vàng, phân bố ở Tây Nam Bình Chánh. Bề mặt địa hình bằng phẳng, bị
mạng lưới sông rạch phân cắt mạnh.
Đồng bằng thấp – tích tụ hỗn hợp sông biển: độ cao từ 1 – 2m, cấu tạo bởi các
trầm tích sét bột, cát có nguồn gốc hỗn hợp sông biển thuộc hệ tầng Cần Giờ, phân bố
hầu như toàn bộ diện tích huyện Nhà Bè. Đồng bằng có bề mặt bằng phẳng, ít bị ngập
nước và bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông, rạch.
Đồng bằng thấp – tích tụ hỗn hợp đầm lầy biển: độ cao từ 1 – 1,5m, cấu tạo bởi
các trầm tích sét, sét bột màu xám chứa mùn thực vật và than bùn nguồn gốc hỗn hợp
đầm lầy biển thuộc hệ tầng Cần Giờ, phân bố chủ yếu ở các huyện Nhà Bè, Cần Giờ.


13

Đồng bằng có bề mặt bằng phẳng bị ngập nước do thủy triều và bị chia cắt mạnh bởi
hệ thống sông rạch.
Đồng bằng thấp – tích tụ hỗn hợp đầm lầy sông: cao độ từ 0 – 0,7m, cấu tạo bởi

các trầm tích hiện đại (Q
4
3
) gồm sét, bột cát và thực vật đang phân hủy, nguồn gốc hỗn
hợp đầm lầy sông, phân bố ở Tây Nam Thủ Đức. Bề mặt đồng bằng thường xuyên bị
ngập nước và bị phân cách mạnh bởi hệ thống sông rạch. Thảm thực vật đầm lầy phát
triển mạnh.
Bãi bồi tích tụ hỗn hợp sông biển: cao độ từ 0 – 1m, cấu tạo bởi các trầm tích gồm
sét, cát, bột nguồn gốc sông biển, chủ yếu phân bố ở Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ
dọc theo các thung lũng sông. Bề mặt bãi bồi phẳng, hẹp, ngập nước khi thủy triều lên
và bị phân cắt mạnh bởi mạnh sông rạch.
Đầm lầy ven biển: độ cao từ 0 – 1m, cấu tạo bởi các trầm tích sét, bột sét màu xám
đen, đen chứa tàn tích thực vật phân hủy yếu nguồn gốc biển, đầm lầy biển, hoặc hỗn
hợp sông biển, phân bố ở Cần Giờ. Đầm lầy có bề mặt bằng phẳng, bị ngập nước
thường xuyên, thảm thực vật nước mặn phát triển mạnh.
Nhìn chung, địa hình khu vực nghiên cứu có sự phân bậc tương đối rõ rệt, quy luật
phân bố của nó liên quan mật thiết với tuổi và nguồn gốc thành tạo của các trầm tích.
2.3.2. TÂN KIẾN TẠO
Hoạt động tân kiến tạo là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên
những nét cơ bản của địa hình hiện nay ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Sự có mặt
của hoạt động tân kiến tạo tại khu vực này thể hiện tương đối rõ nét ở sự tái hoạt động
của nhiều đứt gãy trong Kainozoi tạo chuyển động nâng hạ theo phương thẳng đứng
hình thành các khối nâng, hạ và bậc thềm trong khu vực, ở sự thành tạo các mạng sông
rạch hoặc kéo thẳng song song hoặc gấp khúc vuông góc. Các phun trào bazan trẻ
Phước Tân và Xuân Lộc có thể liên quan đến các hoạt động đứt gãy trẻ. Cuối cùng,
các biểu hiện của động đất dọc theo đứt gãy Bà Rịa – Biên Hòa – Lộc Ninh và sự phá
vỡ bờ biển hiện tại ở duyên hải cũng đều chứng tỏ sự có mặt của các hoạt động tân
kiến tạo.




14

2.5. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN
Theo các tài liệu đã công bố, trong các trầm tích Kainozoi khu vực nghiên cứu có
4 phân vị chứa nước chủ yếu [3]: Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Holoxen (Q
4
),
tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Pleistoxen (Q
1-3
), tầng chứa nước lỗ hổng các
trầm tích Plioxen trên (N
2
2
), tầng chứa nước các trầm tích Plioxen dưới (N
2
1
).
2.5.1. Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Holoxen (Q
4
)
Phân bố ngay trên mặt, chủ yếu trên các địa hình đồng bằng tich tụ, bãi bồi và
đầm lầy ven biển, thành phần là bột, bột sét, cát mịn chứa nhiều vật chầt hữu cơ, bề
dày thay đổi từ vài mét đến vài chục mét.
Đây là tầng chứa nước không áp hoặc áp lực yếu, rất nghèo nước, lưu lượng các
giếng 0,1 - 2l/s, tỷ lưu lượng nhỏ hơn 0,2l/s.m, mực nước tĩnh cách mặt đất 0,1 - 2m,
có quan hệ thuỷ lực trực tiếp với nước sông và bị ảnh hưởng mạnh bởi thuỷ triều.
Điều kiện thủy địa hoá tầng nước này rất phức tạp và thay đổi theo mùa, trong
phạm vi nghiên cứu, nước hầu như bị nhiễm phèn và nhiễm mặn nặng, tổng độ khoáng
hoá thay đổi từ 1,25 – 12,43g/l, loại hình hoá học nước Cl - Na chiếm ưu thế.

2.5.2. Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Pleistoxen (Q
1- 3
)
Phân bố rộng rãi trên toàn bộ khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, lộ ra trên mặt tại
các vùng Củ Chi, Hóc Môn và Bắc Thủ Đức, phần còn lại bị phủ bởi các trầm tích
Holoxen, đất đá chủ yếu là cát hạt trung, cát hạt thô lẫn sạn sỏi. Tầng này có thể phân
ra hai lớp chứa nước: Lớp trền dày 10 - 35m, lớp dưới 30 - 80m, giữa hai lớp là các
lớp sét, sét pha liên tục, dày 5 - 15 m. Đây là tầng chứa nước áp lực hoặc áp lực yếu.
Tầng chứa nước Pleistoen có mức độ chứa nước từ trung bình đến giàu. Vùng giàu
nước phân bố ở Hóc môn, Bình Chánh, các vùng nội thành với lưu lượng khai thác các
giếng khoan 10 - 120m
3
/h, tỷ lưu lượng 1,1 - 4,5l/s.m. Vùng giàu nước trung bình
phân bố ở Thủ Đức, quận 4, 8 và Bắc Nhà Bè với lưu lượng các giếng 10 - 60m
3
/h, tỷ
lưu lượng 0,25 - 0,85l/s.m. Nhìn chung, nước trong trầm tích Pleiostoxen có quan hệ
thuỷ lực trực tiếp với nước mặt và tầng chứa nước lân cận, động thái thay đổi rõ rệt
theo mùa và chịu ảnh hưởng của thuỷ triều.


15

Nước có tổng độ khoáng hoá từ 0,1 - 17,64g/l. Nước nhạt phân bố ở Củ Chi, Hóc
Môn, Bình Chánh, và các quận nội thành với tổng độ khoáng hoá 0,1 - 0,9g/l, loại hình
hoá học chủ yếu là HCO
3
- Cl, HCO
3
hoặc Cl - HCO

3
, chất lượng nước khá tốt. Tuy
nhiên, hàm lượng sắt hơi cao, từ 1 - 5mg/l, có nơi đến 12mg/l. Nước lợ phân bố ở Nam
Thủ Đức, Nhà Bè, Cần Giờ với tổng khoáng hoá 1,2 - 17,64g/l, loại hình hoá học chủ
yếu là Cl - HCO
3
hoặc Cl - Na.
Tầng chứa nước này đã có đã dấu hiệu nhiễm bẩn các hợp chất Nitơ với hàm
lượng NO
3
khá phổ biến 3 - 6mg/l, hàm lượng NO
2
đến hơn 1mg/l, nước thường có
hàm lượng vi sinh cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
2.5.3. Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Plioxen trên (N
2
2
)
Tầng chứa nước Plioxen trên phân bố hầu như trên toàn bộ diện tích khu vực
Thành phố và không lộ ra trên mặt, thành phần đất đá chủ yếu là cát mịn đến thô, lẫn
cuội sỏi và xen kẹp các thấu kinh cát bột, sét bột bề dày tầng chứa nước thay đổi từ vài
chục mét ở phía bắc đến hơn 100m ở phía Nam. Đây là tầng chứa nước có áp, chiều
cao áp lực từ 50 - 60m đến hơn 100m tính từ mái tầng chứa nước.
Tầng này có mức độ chứa nước từ trung bình đến giàu. Vùng giàu nước phân bố ở
Hóc Môn, Tân Bình và Gò Vấp với lưu lượng khai thác 50 - 142m
3
/h, tỷ lưu lượng 1,0
– 14,56l/s.m. Vùng giàu nước trung bình phân bố ở quận 6, quận 8, Bình Chánh và
Bắc Nhà Bè với lưu lượng khai thác 10 - 50m
3

/h, tỷ lưu lượng 0,21 - 0,96l/s.m. Động
thái nước trong tầng tương đối ổn định, không có quan hệ thuỷ lực với các tầng chứa
nước lân cận.
Đặc điểm thuỷ hoá của tầng chứa nước này rất phức tạp. Đường biên mặn (1g/l)
chạy dọc theo hai bên bờ sông Sài Gòn, càng về phía Nam biên mặn càng mở rộng về
hai phía Đông và Tây. Trong vùng mặn này tổng độ khoáng hoá của nước thay đổi 1 -
25g/l, càng về phía biển độ mặn càng tăng, loại hình hoá học nước Cl - Na. Phần diện
tích còn lại là nước ngọt với tổng độ khoáng hoá 0,01 - 0,72g/l, loại hình hoá học chủ
yếu là HCO
3
, HCO
3
– Cl, đôi chỗ là Cl – HCO
3
, nước có hàm lượng sắt tương đối cao,
5 - 15mg/lm có nơi trên 50mg/l.




16

2.5.4. Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Plioxen dưới (N
2
1
)
Tầng này không xuất lộ trên mặt, phân bố rộng rãi ở Củ Chi, Hóc Môn, khu vực
phía Tây và Tây Nam Thành phố, thành phần đất đá chủ yếu là cát mịn đến thô chứa
sạn sỏi nhỏ, bề dày trung bình 50 - 70m, dày nhất ở phần trung tâm tới 100m và mỏng
dần ra phía rìa đông đến vát hẳn. Bên trên tầng chứa nước là lớp sét, bột sét chứa

carbonat dày 7 - 15m tương đối liên tục. Đây là lớp ngăn cách tầng với tầng chứa nước
Plioxen trên (N
2
2
).
Tầng chứa nước Plioxen dưới mức độ giàu nước từ giàu đến trung bình. Vùng
giàu nước chủ yếu phân bố ở Củ Chi, Lưu lượng các giếng khoan 120 - 150m
3
/h, tỷ
lưu lượng 1,87 - 2,6l/s.m, chất lượng nước tốt, chứa ít sắt, tổng độ khoáng hoá 0,2 -
0,9g/l, loại hình hoá học nước HCO
3
– Na. Vùng giàu nước trung bình phân bố chủ
yếu ở Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, quận 8, Bình Chánh và Bắc Nhà Bè, lưu lượng
các giếng khoan 15 - 30m
3
/h, tỷ lưu lượng 0,36 - 0,8l/s.m, chất lượng mước tốt, tổng
độ khoáng hoá 0,1 - 0,57g/l, nước thuộc loại HCO
3
, HCO
3
– Cl. Vùng bị mặn phân bố
thành hai dải hẹp dọc theo sông Sài Gòn, tổng độ khoáng hoá của nước 3 - 5g/l, hàm
lượng sắt khá cao.
Động thái của tầng chứa nước tương đối ổn định và không có quan hệ thủy lực với
các tầng chứa nước khác.
Như vậy, trong các trầm tích Kainozoi khu vực nghiên cứu có mặt 4 tầng chứa
nước chính, hai tầng chứa nước Pleistoxen và Holoxen nằm tương đối nông, giữa
chúng có lớp sét cách nước tương đối dày nhưng không liên tục do vậy có quan hệ
thủy lực với nhau động thái thay đổi rõ rệt theo mùa và chịu tác động của thủy triều,

nước thường có áp hoặc có áp yếu. Đây là những đối tượng ảnh hưởng trực tiếp đến
việc lựa chọn các giải pháp xử lý nền.





×